Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tich hop noi dung bien doi khi hau trong mon Dia lyo THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.52 KB, 37 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TIỀN GIANG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN -----oOo-----. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI:. TÍCH HỢP GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG MÔN ĐỊA LÝ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG. Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Thoa. Năm học 2011 - 2012.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> PHẦN MỞ ĐẦU. 1. Lý do chọn đề tài: Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu thường đề cập tới với sự thay đổi bất thường của khí hậu, được gọi chung bằng hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu trên Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính như sinh khối rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Theo Báo cáo Phát triển Con người 2007 – 2008 của UNDP, với kịch bản nước biển dâng, đến năm 2100, nhiệt độ tăng trung bình 3-4 độ C sẽ có khoảng 22 triệu người Việt Nam bị ảnh hưởng. Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập úng hoàn toàn, khiến năng suất nông nghiệp giảm 20%. Bão lụt, ngập úng cũng gia tăng. Bệnh tật, nhất là sốt xuất huyết, sốt rét phát triển mạnh khiến sức khỏe của người dân bị ảnh hưởng. Việt Nam đang chịu ảnh hưởng từ nhiều mặt của BĐKH, thiên tai, bão lụt, hạn hán diễn ra dồn dập hơn trước. Điều này là hiển nhiên và không thể chối bỏ. Trước tình hình này, các lĩnh vực, ngành, địa phương đã triển khai các hoạt động nghiên cứu, đánh giá tình hình, diễn biến và tác động của BĐKH đến tài nguyên, môi trường, sự phát triển kinh tế - xã hội, đề xuất và bước đầu thực hiện các giải pháp ứng phó, và về lâu dài tích hợp mục tiêu ứng phó BĐKH vào trong các hoạt động thường xuyên của mình. Với vai trò là một giáo viên giảng dạy địa lý ở trường THPT, có nhiệm vụ đào tạo ra những công dân hữu dụng, có ích cho đất nước, tôi thấy rằng việc lồng ghép, tích hợp nội dung biến đổi khí hậu vào chương trình giảng dạy ở một số môn học nhất là môn Địa lý ở trường THPT là hoàn toàn phù hợp và cần thiết nhằm trang bị cho các em những kiến thức tốt nhất về BĐKH, đồng thời các em cũng chính là các cầu nối thông tin để tuyên truyền đến cộng đồng. Đó là lý do để tôi chọn đề tài viết sáng kiến kinh nghiệm của mình là: “TÍCH HỢP NỘI DUNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG MÔN ĐỊA LÝ Ở TRƯỜNG THPT”. 2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> 2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Tổng hợp từ các nguồn tài liệu : tạp chí, báo cáo khoa học và các công trình nghiên cứu có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 2.2. Phương pháp tổng hợp đánh giá Trên cơ sở phân tích các thông tin, số liệu thu thập được, tiến hành tổng hợp, đánh giá..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> PHẦN NỘI DUNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 1.1. Khái niệm về biến đổi khí hậu Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam: “BĐKH là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo”. Theo quan điểm của Tổ chức khí tượng thế giới (WMO), BĐKH là sự vận động bên trong hệ thống khí hậu, do những thay đổi kết cấu hệ thống hoặc trong mối quan hệ tương tác giữa các thành phần dưới tác động của ngoại lực hoặc do hoạt động của con người. Sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập niên hoặc dài hơn. BĐKH có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất. Sự thay đổi về khí hậu do ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp từ hoạt động của con người cùng với BĐKH do tự nhiên sẽ làm thay đổi cấu thành của khí quyển. 1.2. Nguyên nhân hình thành biến đổi khí hậu BĐKH là do nồng độ của khí hiệu ứng nhà kính tăng lên trong khí quyển ở mức độ cao, làm cho Trái Đất ấm lên, nhiệt độ bề mặt Trái Đất nóng lên. Nhiệt độ trái đất nóng lên tạo ra các biến đổi đối với các vấn đề thời tiết hiện nay. Theo báo cáo mới nhất của Liên Hiệp Quốc, nguyên nhân của hiện tượng BĐKH 90% do con người gây ra, 10% là do tự nhiên. 1.2.1. Hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người làm tăng lượng khí thải BĐKH có nhiều nguyên nhân, trong đó đáng quan tâm và cần hạn chế là nguyên nhân do hoạt động của con người gây ra. Đó là sự tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển dẫn đến tăng hiệu ứng nhà kính. Đặc biệt quan trọng là khí điôxit cacbon (CO2) được tạo thành do sử dụng năng lượng từ nguyên liệu hóa thạch (dầu mỏ, than đá, khí tự nhiên...), phá rừng và chuyển đổi sử dụng chất thải vào khí quyển..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của Uỷ Ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC, 2007), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển năm 2005 đã vượt xa mức tự nhiên trong khoảng 650.000 năm qua (180 – 280ppm) và đạt 379ppm (tăng gần 35%). Lượng phát thải khí CO2 từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng trung bình từ 6,4 tỉ tấn cacbon mỗi năm (trong những năm 1990) đến 7,2 tỉ tấn cacbon mỗi năm (trong thời kỳ 20002005). Trong việc đánh giá hiệu ứng của khí nhà kính, có hai vấn đề rất đáng lưu ý là hàm lượng khí mêtan (CH4) trong khí quyển đã tăng từ 715ppb (trong thời kỳ tiền công nghiệp) lên 1.732ppb trong những năm đầu thập kỷ 90 và đạt 1.774ppb năm 2005 (tăng gần 148%). Hàm lượng khí ôxit nitơ (N 2O) trong khí quyển đã tăng từ 270ppb (trong thời kỳ tiền công nghiệp) lên 319ppb vào năm 2005 (tăng khoảng 18%). Các khí mêtan và ôxit nitơ tăng chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, đốt nguyên liệu hóa thạch, chôn lấp rác thải.. Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch phát thải 70-90% lượng CO 2 vào khí quyển; năng lượng hóa thạch được sử dụng trong giao thông vận tải, chế tạo các thiết bị điện như: tủ lạnh, hệ thống điều hòa nóng lạnh và các ứng dụng khác; lượng phát thải CO 2 tăng còn do hoạt động trong nông nghiệp và khai thác rừng (kể cả cháy rừng), khai hoang và công nghiệp. Tóm lại, tiêu thụ năng lượng do đốt các nguyên liệu hóa thạch đóng góp khoảng gần một nửa (46%) vào tiềm năng nóng lên toàn cầu. Phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18% và hoạt động nông nghiệp tạo ra khoảng 9% tổng số các khí thải, gây ra lượng bức xạ cưỡng bức làm nóng lên toàn cầu... Đây là những nguyên nhân dẫn đến BĐKH do hoạt động của con người gây nên. 1.2.2. Sự biến đổi của tự nhiên Nhiều quá trình trong và ngoài khí quyển được cho là có khả năng là những nguyên nhân của những thay đổi khí hậu. Trong quá khứ, khí hậu Trái Đất đã nhiều lần biến đổi do tự nhiên. Những thời kỳ băng hà xen lẫn những thời kỳ ấm lên của Trái Đất đã từng xảy ra cách đây vài triệu năm. Thời kỳ băng hà cuối cùng xảy ra khoảng 18.000 năm trước Công nguyên. Trong thời kỳ này, băng bao phủ phần lớn Bắc Mỹ, Bắc Âu và Bắc Á. Mực nước biển trung bình thấp hơn hiện nay tới 120m. Thời kỳ băng hà này kết thúc khoảng 10.000-15.000 năm trước Công nguyên. Thời kỳ tiểu băng hà gần đây nhất , xảy ra ở châu Âu vào giữa thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ thứ 19..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> BĐKH hiện nay tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu bắt đầu xảy ra từ giữa thế kỷ 19. Trong khoảng hơn 100 năm qua (1906-2005) nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng lên 0,70C. Thập kỷ 1990 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ qua. Trong 11 năm (1995-2006) là những năm nóng nhất từ khi có số liệu đo bằng công cụ hiện đại. Do nóng lên toàn cầu, băng, tuyết của các vùng cực của Trái Đất và trên núi cao tan ra, nước của các đại dương ấm lên và giãn nở ra, làm mực nước biển trung bình toàn cầu dâng lên trung bình 0,17m trong thế kỷ XX. Các thiên tai như mưa lớn, bão, lũ lụt, lũ quét, nắng nóng, hạn hán, lốc xảy ra nhiều hơn, mạnh hơn, dị thường hơn. Số ngày lạnh, đêm lạnh, băng giá ít hơn. Hiện tượng El Nino xảy ra nhiều hơn, kéo dài và mạnh hơn. Ngập lụt, xói lở bờ biển, xâm nhập mặn, sạt lở đất xảy ra nhiều và mạnh mẽ hơn trước... Đây là những ảnh hưởng do BĐKH gây ra, những ảnh hưởng này tác động rất lớn đến mọi mặt đời sống xã hội vì vậy các địa phương, các cấp, các ngành cần phải tập trung ứng phó và tìm giải pháp hạn chế thiệt hại do BĐKH gây ra..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 1.3. Tác động của biến đổi khí hậu Theo kết quả đánh giá cho toàn cầu của Uỷ ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC, 2007) và những nghiên cứu sơ bộ ban đầu của các nhà khoa học Việt Nam, tác động tiềm tàng của BĐKH đối với nước ta là nghiêm trọng và cần được nghiên cứu sâu thêm. Sự gia tăng của các hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên tai, cả về tần số và cường độ do BĐKH là mối đe doạ thường xuyên, trước mắt và lâu dài đối với tất cả các lĩnh vực, các vùng và các cộng đồng. Bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn, nắng nóng, tố lốc là thiên tai xảy ra hàng năm ở nhiều vùng trong cả nước, gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống. Trong đó, những lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ của BĐKH có thể được tổng hợp qua sơ đồ sau: Tác động của biến đổi khí hậu. Đến môi trường tự nhiên. Đến hoạt động kinh tế. - Môi trường đất -. Môi. trường. nước. Lượng mưa, Dòng chảy sông ngòi, Nguồn nước mặt, nước ngầm, Lượng. - Nông nghiệp. - Vấn đề di dân. - Lâm nghiệp. - An ninh xã hội. - Ngư nghiệp, thuỷ sản. - Chất lượng cuộc. - Năng lượng. sống, y tế, sức khoẻ. bốc hơi , lũ lụt, hạn hán,. - Công nghiệp. xâm nhập mặn, triều. - Giao thông vận tải. cường. - Môi trường không khí. - Môi trường biển. Hệ sinh thái và đa dạng sinh học.. học.. Đến các yếu tố xã hội. - Xây dựng - Du lịch. cộng đồng - Bảo tồn di tích văn hoá, lịch sử. - Bảo tồn các phong tục tâp quán....

<span class='text_page_counter'>(8)</span> BĐKH sẽ làm cho các thiên tai trở nên ác liệt hơn và có thể trở thành thảm hoạ, gây rủi ro lớn cho phát triển kinh tế, xã hội hoặc xoá đi những thành quả nhiều năm của sự phát triển, trong đó có những thành quả thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Những khu vực được dự tính chịu tác động lớn nhất của các hiện tượng khí hậu cực đoan nói trên là dải ven biển Trung Bộ, vùng núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. 1.3.1. Tác động của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực BĐKH có tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng. BĐKH ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm. Với sự nóng lên trên phạm vi toàn lãnh thổ, thời gian thích nghi của cây trồng nhiệt đới mở rộng và của cây trồng á nhiệt đới thì thu hẹp lại. Ranh giới của cây trồng nhiệt đới dịch chuyển về phía vùng núi cao hơn và các vĩ độ cao ở phía Bắc, phạm vi thích nghi của cây trồng á nhiệt đới bị thu hẹp thêm. BĐKH có khả năng làm tăng tần số, cường độ, tính biến động và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm . Tố, lốc, bão và các thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mưa như thời tiết khô nóng, lũ lụt, ngập úng hay hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn, sâu bệnh, làm giảm năng suất và sản lượng của cây trồng và vật nuôi. BĐKH gây nguy cơ thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, một phần đáng kể diện tích đất nông nghiệp ở vùng đất thấp đồng bằng ven biển, Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập mặn do nước biển dâng, nếu không có các biện pháp ứng phó thích hợp. BĐKH và nông nghiệp là hai qui trình tác động lẫn nhau ở mức toàn cầu. Đối với nhà nông, thời tiết đóng vai trò quyết định cho thành công hay thất bại, được mùa hay mất mùa. Ngược lại, nông nghiệp cũng ảnh hưởng lên khí hậu, vì thải ra các khí làm tăng hiệu ứng nhà kính như hơi nước, khí cacbon, mê tan và ôxít nitơ. Sự phát quang, phá rừng để trồng trọt và hiện tượng hoang hoá hay sa mạc hoá.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> đất đai vì thâm canh cũng làm thay đổi mặt vỏ Trái Đất, và làm mất quân bình cán cân bức xạ nhiệt. BĐKH ảnh hưởng đến toàn bộ ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tại cuộc họp về BĐKH do Liên hiệp quốc UNDP gần đây, ông Nguyễn Khắc Hiếu, Phó ban chỉ đạo thực hiện công ước khí hậu và nghị định thư Kyoto của Việt Nam cũng cho rằng: "Sinh kế của hàng chục triệu người Việt Nam đang bị đe dọa với những ảnh hưởng của BĐKH. Vấn đề này và những hệ quả của nó đang khiến cho cuộc sống người nghèo và những người cận nghèo Việt Nam ở vùng núi, vùng biển, vùng đồng bằng bị đe dọa". BĐKH đã, đang và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nông nghiệp gồm thủy lợi, trồng trọt và chăn nuôi BĐKH có tác động đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng, hai vựa lúa lớn nhất là Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long là những vùng đất thấp trong tương lai sẽ chịu ảnh hưởng lớn của BĐKH khi mực nước biển dâng cao và chu trình thủy văn thay đổi. Khô hạn và sự thiếu hụt nguồn nước sẽ làm năng suất nông nghiệp giảm sút. Nhiều loại dịch bệnh cây trồng của vùng khí hậu nóng Tây Nam Bộ sẽ có khả năng xâm lấn vào đồng ruộng (rầy trắng, vàng lùn-lùn xoắn lá…); các giống cây trồng ưa nước sẽ không cho năng suất và bị các loài ưa khô hạn thay thế, dẫn đến khủng hoảng các hệ sinh thái nông nghiệp bản địa. Xu thế này tất yếu dẫn đến việc nông dân lạm dụng phân bón hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật, làm cho đất bị suy thoái và chất lượng nông sản không cao. 1.3.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến cuộc sống dân cư và vấn đề tái định cư Nhiệt độ tăng làm tăng tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người, dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh. Tình trạng nóng lên làm thay đổi cấu trúc mùa nhiệt hàng năm. Ở miền Bắc, mùa đông sẽ ấm lên, dẫn tới thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người. BĐKH làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới: sốt rét, sốt xuất huyết, làm tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi khuẩn và côn trùng, vật chủ mang bệnh, làm tăng số lượng người bị bệnh nhiễm khuẩn dễ lây lan,…Thiên tai như bão, tố, nước dâng, ngập lụt, hạn hán, mưa lớn và sạt lở đất v.v… gia tăng về cường độ và tần số.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> làm tăng số người bị thiệt mạng và ảnh hưởng gián tiếp đến sức khoẻ thông qua ô nhiễm môi trường, suy dinh dưỡng, bệnh tật hoặc do những đổ vỡ của kế hoạch dân số, kinh tế - xã hội, cơ hội việc làm và thu nhập. Những đối tượng dễ bị tổn thương nhất là những nông dân nghèo, các dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, trẻ em và phụ nữ. BĐKH là nguy cơ gây suy thoái môi trường và suy giảm đa dạng sinh học và sự nhiễu loạn hệ sinh thái sẽ là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh mới cho con người. BĐKH làm suy thoái tài nguyên nước ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt của nhân dân và hoạt động sản xuất của các ngành kinh tế. BĐKH còn là nguyên nhân gây nên các biến động về di dân do mất nơi ở, mất đất canh tác hoặc do bệnh tật và nghèo đói. Trong mấy năm gần đây biểu hiện của BĐKH đối với Việt Nam đã rất rõ nét như mưa lũ thất thường, hạn hán ngày càng khắc nghiệt... Bắc Trung Bộ có nguy cơ gia tăng bão lũ, trong khi vùng ven biển Nam Trung Bộ đang gia tăng độ khô hạn và có nguy cơ hạn hán. Hậu quả của bão lũ, hạn hán trực tiếp gây chết người, dịch bệnh sau lũ, mùa màng mất mùa, làm tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng, giảm khả năng kháng bệnh. Đồng thời, khi nhiệt độ toàn cầu ấm lên sẽ tạo điều kiện cho dịch bệnh cũ và dịch bệnh mới phát triển mà con người khó có thể kiểm soát được. Trong báo cáo gần đây của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPPC) đã khẳng định: Dưới tác động của nhiệt các căn bệnh đã gia tăng như: sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não (truyền qua muỗi); các bệnh đường ruột (qua môi trường nước), các bệnh suy dinh dưỡng, bệnh phổi... Những bệnh này đặc biệt ảnh hưởng lớn đến các vùng kinh tế kém phát triển, đông dân và có tỷ lệ đói nghèo cao. Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm BĐKH sẽ làm khoảng 150.000 người chết và 5 triệu người bệnh. Trong bối cảnh đó, BĐKH sẽ làm cho hàng triệu người Việt Nam mất nhà cửa, đói nghèo dịch bệnh gia tăng. Hiện tượng tị nạn môi trường sẽ xảy ra và kéo dài trên diện rộng. Với đất đai đã có chủ sử dụng, đã quy hoạch, giao thông và thông tin thuận lợi, các dòng dân di cư sẽ khác xa so với trước đây. Dòng người tị nạn xâm nhập dần vào các đô thị ít chịu ảnh hưởng của BĐKH, tạo ra các khu dân cư kiểu “xóm liều, ổ chuột”, gia tăng lực lượng lao động giản đơn, bán hàng rong, tạo thành các nhóm dân lang thang trong đô thị, góp phần nông thôn hoá đô thị và làm cho quy hoạch các khu vực đô thị trở thành không thể kiểm soát được. Phụ nữ hoá quản trị hộ gia đình tại các vùng chịu ảnh hưởng của.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> BĐKH do đàn ông phải rời nhà đi kiếm sống trong thời gian dài, tạo ra những hệ luỵ khó khắc phục về mặt giáo dục trẻ em, trật tự xã hội và kiểm soát các bệnh xã hội. Những thành công trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo có thể bị BĐKH làm sút giảm, thậm chí có thể xóa sạch. Hơn thế nữa, việc di dân tái định cư cho các hộ gia đình là thách thức lớn không chỉ vì quỹ đất lúc đó đã trở nên hạn hẹp, kinh phí lớn mà còn làm xáo trộn sinh kế của dân cư đang cư trú ở vùng bờ, không ít trong số đó lại tái nghèo. Do vậy, BĐKH có tác động mạnh vào những người nghèo đặc biệt là những người nông dân. 1.3.3. Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước, tài nguyên biển Việt Nam có bờ biển dài 3.260km, hơn một triệu km 2 lãnh hải và trên 3.000 hòn đảo gần bờ và hai quần đảo xa bờ, nhiều vùng đất thấp ven biển. Những vùng này hàng năm phải chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa và hạn hán, xâm nhập mặn trong mùa khô. BĐKH và nước biển dâng sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng nói trên, làm tăng diện tích ngập lụt, gây khó khăn cho thoát nước , tăng xói lở bờ biển và nhiễm mặn nguồn nước ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt, gây rủi ro lớn đối với các công trình xây dựng ven biển như đê biển, đường giao thông, bến cảng, các nhà máy, các đô thị và khu dân cư ven biển. Mực nước biển dâng và nhiệt độ nước biển tăng ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển và ven biển, gây nguy cơ đối với các rạn san hô và rừng ngập mặn, ảnh hưởng xấu đến nền tảng sinh học cho các hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản ven biển. Tất cả những điều trên đây đòi hỏi phải có đầu tư rất lớn để xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, nhằm ứng phó với mực nước biển dâng, phát triển hạ tầng kỹ thuật, di dời và xây dựng các khu dân cư và đô thị có khả năng thích ứng cao với nước biển dâng. Thiếu hụt nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt dẫn đến việc khai thác quá mức và không thể kiểm soát môi trường của việc khai thác nước ngầm. Hiện tượng nhiễm mặn và ô nhiễm nước ngầm gia tăng. Tài nguyên nước đang chịu thêm nguy cơ suy giảm do hạn hán ngày một tăng ở một số vùng, mùa. Khó khăn này sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp, cung cấp nước ở nông thôn, thành thị và sản xuất điện. Chế độ mưa thay đổi có thể gây lũ lụt nghiêm trọng vào mùa mưa, và hạn hán vào mùa khô, gây khó khăn cho việc cấp nước và tăng mâu thuẫn trong sử dụng nước. Trên các sông lớn như.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> sông Hồng và sông Cửu Long, xu hướng giảm nhiều hơn đối với dòng chảy năm và dòng chảy kiệt; xu thế tăng nhiều hơn đối với dòng chảy lũ. BĐKH cũng đang tác động đến nuôi trồng thủy sản, trong đó nhiệt độ đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng và phát triển của sinh vật nói chung và các loài thủy - hải sản nói riêng. Hiện tượng nước biển dâng và ngập mặn gia tăng dẫn đến các hậu quả sau: Nước mặn lấn sâu vào nội địa, làm mất nơi sinh sống thích hợp của một số loài thuỷ sản nước ngọt. Rừng ngập mặn hiện có bị thu hẹp, ảnh hưởng đến nơi cư trú của một số loài thuỷ sản. Khả năng cố định chất hữu cơ của hệ sinh thái rong biển giảm, dẫn đến giảm nguồn cung cấp sản phẩm quang hợp và chất dinh dưỡng cho sinh vật đáy. Do vậy, chất lượng môi trường sống của nhiều loại thuỷ sản xấu đi. - Nước biển dâng làm cho chế độ thuỷ lý, thuỷ hoá và thuỷ sinh xấu đi. Kết quả là các quần xã hiện hữu thay đổi cấu trúc và thành phần, trữ lượng giảm sút. Nhiệt độ tăng cũng dẫn đến một số hậu quả: Gây ra hiện tượng phân tầng nhiệt độ rõ rệt trong thuỷ vực nước đứng, ảnh hưởng đến quá trình sinh sống của sinh vật. Một số loài di chuyển lên phía Bắc hoặc xuống sâu hơn làm thay đổi cơ cấu phân bố thuỷ sinh vật theo chiều sâu. Quá trình quang hoá và phân huỷ các chất hữu cơ nhanh hơn, ảnh hưởng đến nguồn thức ăn của sinh vật. Các sinh vật tiêu tốn nhiều năng lượng hơn cho quá trình hô hấp cũng như các hoạt động sống khác làm giảm năng suất và chất lượng thuỷ sản. Suy thoái và phá huỷ các rạn san hô, thay đổi quá trình sinh lý, sinh hoá diễn ra trong mối quan hệ cộng sinh giữa san hô và tảo. Nhiệt độ tăng làm cho nguồn thuỷ, hải sản bị phân tán. Các loài cá cận nhiệt đới có giá trị kinh tế cao bị giảm đi hoặc mất hẳn. Cá ở các rạn san hô đa phần bị tiêu diệt. Cường độ và lượng mưa lớn làm cho nồng độ muối giảm đi trong một thời gian dẫn đến sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt là nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò…) bị chết hàng loạt do không chống chịu nổi với nồng độ muối thay đổi. Các loài thực vật nổi, mắt xích đầu tiên của chuỗi thức ăn cho động vật nổi bị huỷ diệt, làm giảm mạnh động vật nổi, do đó làm giảm nguồn thức ăn chủ yếu của các động vật tầng giữa và tầng trên. Thay đổi nhiệt độ còn là điều kiện phát sinh của nhiều loài dịch bệnh xảy ra. Dịch bệnh xảy ra và lan truyền rất nhanh và rộng, nên mức độ rủi ro rất lớn. Mực nước biển, nhiệt độ nước biển, độ mặn, tốc độ và hướng gió, bề dày của lớp trầm tích.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> sẽ ảnh hưởng lớn tới sinh vật sống trong đó, ảnh hưởng đến nơi sinh sống, khả năng cung cấp thức ăn cho cá. Xói lở bờ biển và nguy cơ ngập chìm vùng đất thấp ven bờ là một đe dọa nguy hiểm. Theo kịch bản dâng cao mực nước biển Việt Nam [5], đến 2050 nước biển sẽ dâng cao thêm 33 cm, theo quy luật động lực sóng, chiều rộng bãi biển cát bị xói lở sẽ là 330 m- 3300 m, nơi tập trung cơ sở hạ tầng du lịch và nghề nuôi trồng và chế biến thủy sản, nơi cư trú của hàng vạn hộ gia đình sẽ bị sóng phá hủy. Tình trạng còn có thể nguy hiểm hơn nếu mực nước biển dâng cao thêm 1,0 m theo dự báo của các nhà khoa học Anh. 1.3.4. Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên rừng và hệ sinh thái tự nhiên BĐKH với sự tăng nhiệt độ, thay đổi lượng mưa và nước biển dâng ảnh hưởng đến thảm thực vật rừng và hệ sinh thái rừng theo nhiều chiều hướng khác nhau. Phân bố ranh giới các kiểu rừng nguyên sinh cũng như rừng thứ sinh có thể dịch chuyển. Sinh thái bị nhiễu loạn dẫn đến nguồn lợi đa dạng sinh học bị cắt giảm, điều này sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của một số đông dân chúng dựa chủ yếu vào nông nghiệp và nguồn lợi tự nhiên. Do BĐKH, hệ sinh thái rừng bị ảnh hưởng theo các chiều hướng khác nhau: Nước biển dâng lên làm giảm diện tích rừng ngập mặn hiện có, tác động xấu đến rừng tràm và rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn ở các tỉnh Nam Bộ. Nhiệt độ cao kết hợp với ánh sáng dồi dào thúc đẩy quá trình quang hợp dẫn đến tăng cường quá trình đồng hoá của cây xanh. Tuy vậy, chỉ số tăng trưởng sinh khối của cây rừng có thể giảm do độ ẩm giảm. Nguy cơ tiệt chủng của động vật và thực vật gia tăng, một số loài động, thực vật quý hiếm có thể bị suy kiệt. Nhiệt độ và mức độ khô hạn gia tăng làm tăng nguy cơ cháy rừng, phát triển sâu bệnh, dịch bệnh… Các khu sinh thái trống rỗng hoặc kiệt quệ do BĐKH, tạo tiền đề cho các loài ngoại lai có khả năng thích nghi tốt hơn xâm nhập.Trong số đó, có thể có những loài cây trồng hay vật nuôi biến đổi gen (GMO) chưa được kiểm định về tính an toàn sinh học, được người dân hay các công ty giống vật nuôi cây trồng nhập vào mà cơ quan kiểm dịch động thực vật khó bề kiểm soát hết. BĐKH đang ngày càng tác động đến các hệ sinh thái biển, làm giảm nguồn lợi cá biển. Hiện tượng san hô chết hàng loạt.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> trong những năm qua do một số nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do nhiệt độ ở các vùng biển đã tăng lên Đa dạng sinh học là cơ sở quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của các quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trước sự tác động của BĐKH toàn cầu, ĐDSH đã và đang bị ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng. Theo Báo cáo triển vọng Môi trường toàn cầu của Liên Hợp Quốc 2007, thì BĐKH đang gây ra tình trạng suy thoái môi trường trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi thế giới phải hành động nhanh chóng hơn bao giờ hết. Đối với Việt Nam - một trong những nước được dự báo sẽ bị ảnh hưởng nặng nề của BĐKH thì có lẽ vấn đề bảo vệ ĐDSH cần phải được quan tâm triệt để. Trong thiên nhiên, ÐDSH, nhất là các hệ sinh thái rừng nhiệt đới là nơi chủ yếu tích luỹ trở lại nguồn khí CO2 phát thải ra, để tạo thành chất hữu cơ. Trong khi đó, chúng ta lại đã và đang chặt phá rừng để phát triển nông nghiệp, mở rộng chăn nuôi, xây dựng nhà cửa, đô thị. Sự tàn phá rừng, không những gây mất cân bằng sinh thái ở nước ta mà còn làm giảm khả năng hấp thụ CO2 và gián tiếp làm tăng thêm lượng khí CO2 phát thải vào khí quyển, góp phần làm cho BÐKH toàn cầu tăng nhanh. Như vậy, sự giảm sút ÐDSH, nhất là giảm sút diện tích rừng đã thúc đẩy sự gia tăng BÐKH toàn cầu, nhưng ngược lại sự nóng lên toàn cầu cũng đã ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của các loài sinh vật và ÐDSH. Ngoài những tư liệu về sự thay đổi nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển, Báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH của Liên hợp quốc (IPCC) đã trình bày những kết quả nghiên cứu tại sao nhiệt độ Trái Đất thay đổi đã ảnh hưởng đến khí hậu, các đặc điểm vật lý và diễn thế các đặc điểm đó của Trái Đất, đến nơi sống của các loài sinh vật và đến sự phát triển kinh tế của chúng ta. Báo cáo cũng đã đưa ra kết luận là nhiệt độ Trái Đất trong thế kỷ XX đã tăng lên trung bình 0,7 oC làm cho nhiều vùng băng hà, diện tích phủ tuyết, vùng băng vĩnh cửu đã bị tan chảy, dẫn đến mực nước biển dâng lên. Nhiều dấu hiệu đã cho thấy tác động của BĐKH đang ảnh hưởng ngày một sâu, rộng đến các hệ sinh thái. Vùng phân bố của các loài đó thay đổi: nhiều loài cây, côn trùng, chim và cá đã chuyển dịch lên phía Bắc và lên các vùng cao hơn; nhiều loài thực vật nở hoa sớm hơn, nhiều loài chim đã bắt đầu mùa di cư sớm hơn, nhiều loài động vật đã vào mùa sinh sản sớm hơn, nhiều loài côn trùng đã xuất hiện sớm hơn ở Bắc bán cầu, san hô bị chết trắng ngày càng nhiều. Như vậy, các loài sinh vật muốn.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> phát triển một cách bình thường cần phải có một môi trường sống phù hợp, tương đối ổn định về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, đất đai, thức ăn, nguồn nước... và cộng đồng các loài sinh vật trong nơi sống đó. Chỉ một trong những nhân tố của môi trường sống bị biến đổi, sự phát triển của một loài sinh vật nào đó sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí có thể bị diệt vong, tùy thuộc vào mức độ biến đổi nhiều hay ít. Theo dự báo, nếu không có biện pháp hữu hiệu để giảm bớt lượng khí nhà kính, nhiệt độ Trái Đất sẽ tăng thêm từ 1,8 o C đến 6,4o C vào năm 2100, lượng mưa sẽ tăng thêm 5 - 10%, băng ở hai cực và trên các núi cao sẽ tan chảy nhiều hơn, mực n ước biển sẽ dâng lên khoảng 70 - 100 cm và tất nhiên nhiều hiện tượng khí hậu cực đoan theo đó sẽ diễn ra với mức độ khó lường trước được cả về tần số và mức độ. Nước biển dâng sẽ gây nên xói mòn bờ biển, ngập lụt vùng ven bờ, làm suy thoái đất ngập nước, nước mặn xâm nhập, giết chết các loài thực vật, động vật nước ngọt. Tại những vùng mà BÐKH làm tăng cường độ mưa, thì nước mưa sẽ làm tăng xói mòn đất, lũ lụt, sụt lở đất đá và có thể gây ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của các thuỷ vực, làm ô nhiễm nguồn nước. Tất cả những hiện tượng đó đều ảnh hưởng đến các loài sinh vật và tài nguyên sinh vật, làm cho nhiều hệ sinh thái bị suy thoái, gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế và xã hội, nhất là tại các nước nghèo mà cuộc sống đa số người dân còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Hai vùng đồng bằng lớn và đồng bằng ven biển nước ta, trong đó có rừng ngập mặn và hệ thống đất ngập nước rất giàu có về các loài sinh vật, là những hệ sinh thái rất nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Mực nước biển dâng lên cùng với cường độ của bão tố sẽ làm thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn và mức độ ô nhiễm của nước, làm suy thoái và đe dọa sự sống còn của rừng ngập mặn và các loài sinh vật đa dạng trong đó. Khi mực nước biển dâng cao, khoảng một nửa trong số 68 khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nặng; nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào nội địa, giết chết nhiều loài động, thực vật nước ngọt, ảnh hưởng đến nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và hệ thống trồng trọt của nhiều vùng. 36 khu bảo tồn, trong đó có 8 vườn quốc gia, 11 khu dự trữ thiên nhiên sẽ nằm trong khu vực bị ngập. Hệ sinh thái biển sẽ bị tổn thương. Các rạn san hô là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật biển quan trọng, là lá chắn chống xói mòn bờ biển và bảo vệ rừng ngập mặn sẽ bị suy thoái do nhiệt độ nước biển tăng, đồng thời mưa nhiều làm cho nước bị ô nhiễm phù sa và có thể cả các hoá chất nông nghiệp từ cửa sông đổ ra. Nhiệt độ tăng.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> làm nguồn thủy, hải sản bị phân tán. Các loài cá nhiệt đới (kém giá trị kinh tế trừ cá ngừ) tăng lên, các loài cá cận nhiệt đới giá trị kinh tế cao giảm. Các thay đổi diễn ra trong các hệ thống vật lý, hệ sinh học và hệ thống kinh tế xã hội, đe dọa sự phát triển, đe dọa cuộc sống của tất cả các loài, các hệ sinh thái. BĐKH, với các hệ quả của nó như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, xói mòn và sụt lở đất sẽ thúc đẩy cho sự suy thoái ÐDSH nhanh hơn, trầm trọng hơn, nhất là những hệ sinh thái rừng nhiệt đới không còn nguyên vẹn và một số loài đang nguy cấp với số lượng cá thể ít, cũng vì thế mà sẽ tăng nguy cơ diệt chủng của động thực vật, làm biến mất các nguồn gen quí hiếm, bệnh dịch mới có thể phát sinh Ngoài ra BĐKH còn tác động đến các lĩnh vực khác: năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp- xây dựng, văn hoá, thể thao, du lịch, thương mại và dịch vụ Hình 1.1 - Tác động giữa BĐKH và suy giảm tài nguyên tự nhiên, KT-XH. Suy giảm chất lượng không khí. Suy giảm tài nguyên đất. Suy giảm tài nguyên nước. Suy giảm ozon tầng bình lưu. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU. Suy giảm tài nguyên rừng. Suy giảm sự đa dạng sinh học. Suy giảm trật tự xã hội. Suy giảm phát triển kinh tế. Nguồn : Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu - Đại học Cần Thơ.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Hình 1.2 - Chuỗi dây chuyền tác động của hiện tượng BĐKH – nước biển dâng lên hệ sinh thái, sản xuất và đời sống BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG. Diện tích canh tác và năng suất giảm. An ninh lương thực bị đe doạ. Nghèo đói, dịch bệnh gia tăng. Tài nguyên tự nhiên bị xâm hại. Rừng bị suy kiệt và không bền vững. Di dân từ nông thôn lên thành thị. Biến động tiêu cực về kinh tế - xã hội. Ô nhiễm và suy giảm chất lượng cuộc sống Nguồn : Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu - Đại học Cần Thơ.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> 1.4. Thực tiễn về biến đổi khí hậu trên thế giới và ở Việt Nam 1.4.1. Biến đổi khí hậu trên thế giới Ảnh hưởng đầu tiên của BĐKH là tác động lên hầu hết các thành phần môi trường mà trước hết là làm cho nhiệt độ Trái Đất tăng cao, mực nước biển dâng. Sau nhiều năm bị phủ nhận vì áp lực của các kỹ nghệ khai thác nhiên liệu hóa thạch (than và dầu hỏa), BĐKH đã trở thành một vấn đề "nóng" hiện nay của thế giới, ngày càng hiện rõ tính cấp bách và được công nhận như một thực tế đe doạ sự tồn tại của loài người trên Trái Đất. Những công trình nghiên cứu trong suốt 20 năm của Nhóm chuyên gia liên chính phủ về BĐKH (Intergovernmental Panel on Climate Change – IPCC), thuộc Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meterological Organization – WMO), đã góp phần quan trọng làm thức tỉnh dư luận thế giới trước hiện thực và các hệ quả của vấn đề này, và do đó đã được tôn vinh với giải Nobel hoà bình trao cho IPCC năm 2007. . Khí hậu biến đổi do Trái Đất bị hâm nóng vì hiệu ứng nhà kính tăng quá mức quân bình tự nhiên khiến các sông băng trên các núi cao và nhất là vùng quanh năm băng giá ở Bắc và Nam Cực tan dần, làm mặt biển dâng cao hơn, tới lúc nào đó sẽ ngập chìm và xoá khỏi bản đồ những hòn đảo và những vùng đất thấp của một số nước. Ngoài ra, thời tiết cũng bị biến loạn, thiên tai xảy ra thường xuyên hơn và với cường độ cao hơn, lụt lội và hạn hán kéo dài hơn, như thực tế một số nước đã cho thấy. Do BĐKH, đất đai còn bị huỷ hoại vì sa mạc hoá, mặn hoá, xói mòn, ngập chìm - tất cả những triệu chứng này đã bắt đầu hiện rõ - với viễn tượng rất đáng sợ của một hiện tượng "tị nạn môi trường" với những luồng di dân khổng lồ, làm căng thẳng quan hệ giữa các nước. Bên cạnh những nguy cơ của mưa gió trái mùa, thiên tai gây tác hại mùa màng, gây đói kém, việc mặt biển dâng cao là một mối lo âu lớn, vì trong nhiều nước, những vùng ven biển bị đe doạ trực tiếp thường là nơi tập trung đông đảo dân chúng và là những vùng kinh tế, văn hoá quan trọng..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> 1.4.2. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam Theo số liệu quan trắc của Trung tâm khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu ở Việt Nam có thể thấy rõ qua các biểu hiện đáng lưu ý sau : * Nhiệt độ: Trong khoảng 50 năm qua (1951-2000) - Nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam đã tăng lên 0,70C. - Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961-2000) cao hơn trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó (1931-1960) là 0,60C. - Nhiệt độ trung bình năm của thập kỷ 1991-2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh đều cao hơn nhiệt độ trung bình của thập kỷ 1931-1940 lần lượt là 0,8 ; 0,4 và 0,60C. - Năm 2007, nhiệt độ trung bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn trung bình của thập kỷ 1931-1940 là 0,8 – 1,30C và cao hơn thập kỷ 1991-2000 là 0,4 -0,50C. - Dự báo nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 30C vào năm 2100. * Lượng mưa: Trên từng địa điểm thì xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình năm trong 9 thập kỷ qua (1911-2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên các vùng khác nhau, có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống. - Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần trong thập kỷ 19811990 và chỉ còn gần một nửa (khoảng 15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây. - Lượng mưa có xu thế biến đổi không đồng đều giữa các vùng, có thể tăng từ 0 đến 10% vào mùa mưa và giảm từ 0 đến 5% vào mùa khô. Tính biến động của mưa tăng lên. * Mực nước biển: Theo số liệu quan trắc trong khoảng 50 năm qua ở các trạm Cửa Ông và Hòn Dấu, mực nước biển trung bình đã tăng lên khoảng 20cm phù hợp với xu thế chung của toàn cầu. - Mực nước biển trung bình trên toàn dải bờ biển Việt Nam có thể dâng lên 1m vào năm 2100. * Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm đi rõ rệt trong hai thập kỷ gần đây (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI). Năm 1994 và năm 2007 chỉ có 15-16 đợt không khí lạnh bằng 56 % trung bình nhiều năm, trong đó có 6/7 trường hợp có số đợt không khí lạnh trong mỗi tháng mùa đông (XI-III) thấp dị thường (3/1990, 1/1993, 2/1994, 12/1994, 2/1997 và 11/1997). Một biểu hiện dị thường gần đây nhất về khí.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> hậu trong bối cảnh BĐKH toàn cầu là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008 gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp. * Bão: Trong những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn, quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn. Việt Nam đang đối mặt với nhiều tác động của BĐKH bao gồm tác động đến cuộc sống, sinh kế, tài nguyên thiên nhiên, cấu trúc xã hội, hạ tầng kỹ thuật và nền kinh tế. Việt Nam được đánh giá là một trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH và mực nước biển dâng. Để ứng phó với BĐKH cần phải có những đầu tư thích đáng và nỗ lực của toàn xã hội. Các số liệu và phân tích cho thấy BĐKH có những tác động tiềm tàng đến những lĩnh vực, các địa phương và các cộng đồng khác nhau của Việt Nam. BĐKH làm tăng khả năng bị tổn thương và tạo nguy cơ làm chậm hoặc đảo ngược quá trình phát triển. Những người nghèo nhất, thường tập trung ở các vùng nông thôn, đặc biệt ở dải ven biển và các khu vực miền núi là đối tượng chịu nguy cơ tổn thương lớn nhất do BĐKH. Khả năng tổn thương cần được đánh giá đối với từng lĩnh vực, khu vực và cộng đồng, cả hiện tại và tương lai. Khả năng tổn thương do BĐKH (bao gồm cả biến động khí hậu, nước biển dâng và hiện tượng khí hậu cực đoan) đối với một hệ thống phụ thuộc vào tính chất, độ lớn, mức độ biến động khí hậu và những áp lực do BĐKH mà hệ thống đó phải hứng chịu, tính nhạy cảm cũng như năng lực thích ứng của hệ thống đó. Năng lực thích ứng của một hệ thống phụ thuộc vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường của hệ thống đó. Tác động tổng hợp của BĐKH đối với hệ thống càng lớn và năng lực thích ứng của hệ thống càng nhỏ thì khả năng tổn thương càng lớn. Ở Việt Nam, những lĩnh vực/đối tượng được đánh giá là dễ bị tổn thương do BĐKH bao gồm : nông nghiệp và an ninh lương thực, tài nguyên nước, sức khoẻ, nơi cư trú, nhất là ven biển và miền núi.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Các khu vực dễ bị tổn thương bao gồm dải ven biển (kể cả những đồng bằng, đặc biệt là những vùng hàng năm thường chịu ảnh hưởng của bão, nước dâng do bão, lũ lụt), vùng núi, nhất là những nơi thường xảy ra lũ quét, sạt lở đất Có thể nói, về mặt tiêu cực, BĐKH làm tăng tính ác liệt của thiên tai, cả về cường độ lẫn tần suất. Các cộng đồng dễ bị tổn thương bao gồm : nông dân, ngư dân (nhất là ở những khu vực dễ bị tổn thương), các dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, phụ nữ, trẻ em và các tầng lớp nghèo nhất ở các đô thị là những đối tượng ít có cơ hội lựa chọn 1.4.3. Biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long Đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước biển dâng. Hai đồng bằng còn lại là đồng bằng sông Nile (Ai Cập) và đồng bằng sông Hằng (Bangladesh). Nhìn tổng thể, kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chịu sự tác động trên các mặt. - Biến động trong sản xuất: Nếu không có giống mới chịu được mặn, kinh tế lúa và kinh tế vườn sẽ giảm sút ; kinh tế biển sẽ tăng trưởng nhanh nhưng chưa chắc sẽ bù đắp lại hai sự sụt giảm trên ; đầu tư trong lĩnh vực công thương nghiệp càng khó thu hút hơn. - Xây dựng kết cấu hạ tầng đã tốn kém càng tốn kém hơn. - Biến động về phân bố dân cư, đô thị và các trung tâm, cơ sở kinh tế sẽ diễn ra sự dịch chuyển trong nội vùng và ra ngoài vùng Đồng bằng sông Cửu Long. - Những biến động về môi trường tự nhiên và về kinh tế - xã hội nêu lên trên đây sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Đồng bằng sông Cửu Long nếu không kịp thời có sự ứng phó thích hợp. Cuộc sống của hàng chục triệu người dân sẽ gặp nhiều xáo trộn lớn ; Vai trò vựa lúa cả nước, nguồn đóng góp quan trọng cho tổng kim ngạch xuất khẩu và ngân sách nhà nước mà Đồng bằng sông Cửu Long đang đảm nhiệm sẽ chịu thách thức nghiêm trọng ; Nhiều khía cạnh về an ninh quốc phòng sẽ được đặt ra, trước tiên là an ninh lương thực cho cả nước..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Nhiều nhà khoa học và các tổ chức quốc tế có uy tín đã xếp Việt Nam, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trong nhóm quốc gia có nguy cơ tổn thương cao do tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Năm 2009, Trung tâm START vùng Đông Nam Á (Đại học Chulalongkorn, Thái Lan) và Viện Nghiên cứu BĐKH – Đại học Cần Thơ đã phối hợp chạy mô hình khí hậu vùng PRECIS với kịch bản A2 và B2, dựa vào chuỗi số liệu khí hậu giai đoạn 1980-2000 để phỏng đoán giai đoạn 2030-2040. Kết quả mô hình cho thấy nhiều khu vực của vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị các tác động sau: - Nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ gia tăng từ 33 - 35 0C lên 35 370C - Lượng mưa đầu vụ Hè Thu (15/4 – 15/5) sẽ giảm chừng 10-20% - Sự phân bố mưa tháng sẽ có khuynh hướng giảm vào đầu và giữa vụ Hè Thu nhưng gia tăng một ít vào cuối mùa mưa. - Tổng lượng mưa hàng năm sẽ giảm, đồng thời thời kỳ bắt đầu mùa mưa sẽ trễ hơn khoảng 2 tuần lễ. - Xu thế lũ trong giai đoạn 2030 – 2040 sẽ khác đi so với hiện nay: diện tích bị ngập sẽ mở rộng. - Tình hình nhiệt độ gia tăng, mưa giảm, diện tích lũ mở rộng và mực nước biển dâng cao sẽ tác động rất lớn đến hệ sinh thái và sản xuất nông nghiệp cũng như tạo ra các vấn đề khó khăn cho sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực. Kết quả này tương đối phù hợp với mô hình của IPCC (2007) cho thấy: - Nhiệt độ toàn cầu gia tăng 10C trong giai đoạn 2010-2040 và 3 - 40C trong giai đoạn 2070 – 2100. - Lượng mưa trung bình trên thế giới sẽ giảm 20mm trong giai đoạn 2010-2040 nhưng gia tăng 60mm trong giai đoạn 2070-2100. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa lớn nhất cả nước, không chỉ đáp ứng nhu cầu lương thực cho thị trường và chiến lược an ninh lương thực trong nước mà còn góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu, đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Theo đánh giá của các chuyên gia khí tượng thủy văn, ĐBSCL sẽ là khu vực chịu tác hại nặng nề nhất do BĐKH gây ra. Những năm gần đây, vào các tháng mùa khô, hầu hết các tỉnh ĐBSCL đều bị nước mặn xâm nhập, gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất nông nghiệp, nhiều địa phương rơi vào tình trạng thiếu nước ngọt sinh hoạt trầm trọng. Theo dự đoán của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP)[23], tác động của BĐKH sẽ gây thiệt hại khoảng 17.000 tỷ đồng/năm cho nước ta, đồng thời khiến 17 triệu người đứng trước nguy cơ không còn nhà cửa. Trước đây, ĐBSCL ít gặp bão ngoại trừ năm 1997, bão Linda đi qua khu vực này và năm 2006, đuôi bão Durian quét qua, gây thiệt hại nặng nề về người và của. Đáng lo ngại hơn, theo dự báo của các chuyên gia, nếu mực nước biển dâng lên cao hơn so với hiện nay, hậu quả của các cơn bão gây ra cho ĐBSCL còn khốc liệt hơn nhiều. TS. Nguyễn Hữu Chiếm, Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (Trường Đại học Cần Thơ) khẳng định: “ĐBSCL đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi BĐKH toàn cầu. Hiện đất đai của vùng đang bị bạc màu và đa dạng sinh học giảm mạnh; diện tích đất bị xâm nhập mặn, khô hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng cao. Toàn vùng ĐBSCL có khoảng 2,1 triệu hecta đất bị nhiễm mặn và 1,6 triệu hecta đất nhiễm phèn, khô hạn. Bên cạnh đó, nhiệt độ không khí tăng cao cộng với tình trạng hạn hán bất thường, lũ lụt không theo quy luật khiến nhiều loại dịch bệnh mới hình thành, gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất nông nghiệp”.Chỉ tính riêng các đợt triều cường từ cuối năm 2008 đến đầu năm 2009, vùng ngoài đê bao của An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ đều bị ngập; nước sông dâng cao khiến khoảng 70.000ha vườn cây ăn trái, hàng trăm kilômét đường nông thôn bị ngập sâu... Đáng báo động là tình trạng ngập lụt không chỉ xảy ra vào mùa mưa mà còn diễn biến bất thường trong mùa khô. Theo thông tin từ Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, hiện nước mặn từ 6 cửa sông thuộc hệ thống sông Mêkông đã xâm nhập sâu vào đất liền vùng ĐBSCL khoảng 70km. Tại Long An, nước mặn từ Cửa Tiểu đã vào đến xã Thủy Tây (huyện Thạnh Hóa); tại Bến Tre, nước mặn từ Cửa Đại vào đến xã Phú Túc (huyện Châu Thành); ở Trà Vinh, nước mặn từ cửa Hàm Luông đã vào đến xã Long Thới (huyện Tiểu Cần); trong khi đó ở Hậu Giang, nước mặn từ cửa Trần Đề đã vào đến xã Phú Hữu. Trên địa bàn Cà Mau, nước mặn từ sông ông Đốc đã xâm nhập sâu 65km. Nước mặn từ sông Cái Lớn cũng xâm nhập sâu 65km đến thị xã Vị Thanh (Hậu Giang)..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Tháng 2/2010, triều cường dâng cao, xâm nhập mặn sâu tới 35-70km vào vùng ngọt ổn định, làm ảnh hưởng nhiều diện tích lúa đông xuân đang trong giai đoạn làm đòng, trổ bông của khu vực ĐBSCL. Tại tỉnh Bạc Liêu, xâm nhập mặn đã ảnh hưởng đến 20.000ha lúa của huyện Hồng Dân. Tại Trà Vinh, độ mặn so với cùng kỳ năm trước đã tăng lên gần gấp đôi (0,35% lên 0,67%); Bến Tre, độ mặn lên đến 0,4% và ở Cà Mau có nơi đo được là 3%. Khi nước bị nhiễm độ mặn 0,4% thì không thể dùng cho sản xuất, nuôi trồng được. Ông Phạm Đình Đôn, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây Nam Bộ cho rằng, trong vài chục năm tới, khi nước biển dâng cao, ĐBSCL sẽ phải đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn và ngập lũ hạ lưu sông Mêkông với quy mô lớn. ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả nước và có thế mạnh về nuôi trồng thủy sản nên 2 lĩnh vực này sẽ chịu tác động mạnh nhất khi quá trình xâm nhập mặn làm thay đổi môi trường đất và nước. Hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ chịu tác động xấu khi chế độ nước ngập sâu bị thay đổi do nước biển dâng cao. Quá trình xâm nhập mặn ở mức độ cao có thể hủy diệt thảm thực vật và tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng tràm ở Cà Mau, Kiên Giang... Tóm lại, BĐKH sẽ tác động lên toàn bộ hệ sinh thái vốn rất nhạy cảm của Trái Đất, gây tác động qua lại liên quan đến sự suy giảm chất lượng tự nhiên, kinh tế và xã hội. Vấn đề này làm thay đổi cán cân thực phẩm trong sinh quyển, làm mất tính đa dạng sinh học, đất và rừng bị suy kiệt. ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng rất rõ rệt, có thể phỏng đoán trong tương lai. Các báo cáo nghiên cứu cho thấy vùng ĐBSCL đang và sẽ chịu những tác động nghiêm trọng do hiện tượng BĐKH - nước biển dâng lên toàn bộ hệ sinh thái, cơ cấu canh tác nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và các hoạt động xã hội - sinh kế - văn hóa….

<span class='text_page_counter'>(25)</span> II. TÍCH HỢP NỘI DUNG GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀO CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY ĐỊA LÝ Ở TRƯỜNG THPT Nhà trường với số lượng đông đảo những người theo học, là nơi để tuyên truyền, thực hiện giáo dục vì sự phát triển bền vững. Nhà trường là nơi trang bị cho chủ nhân tương lai của đất nước kiến thức về sự biến đổi khí hậu, về khả năng của con người trong cuộc chiến làm giảm thiểu sự biến đổi khí hậu. Nhà trường không chỉ là nơi hình thành kiến thức, thái độ mà còn làm cho các chủ nhân tương lai có những hành vi cụ thể đối với những hành động gây tác hại cho môi trường, cho sự biến đổi khí hậu. Những hành vi ấy ở mức độ thấp có thể chỉ là ý thức tiết kiệm và hành vi tiết kiệm, hành vi chống lại sự xâm hại Trái đất (như việc không sử dụng máy lạnh có chất CFC, sử dụng phương tiện giao thông công cộng để làm giảm lượng thải CO2 vào không khí) ở mức độ cao hơn là việc suy nghĩ, tìm kiếm kĩ thuật thay thế các chất thải làm tăng nhiệt độ bề mặt trái đất…. Các trường phổ thông có thể thành lập các câu lạc bộ về sự biến đổi khí hậu, về phát triển bền vững. Xây dựng các website để tuyên truyền, để chia sẻ thông tin về biến đổi khí hậu…. Nếu như việc tuyên truyền và thực hiện giáo dục vì sự phát triển bền vững được triển khai rộng rãi ở trường học, thì trong tương lai gần sẽ có những công trình khoa học, những sản phẩm sáng tạo được ra đời do những học sinh, giáo viên Việt Nam nghiên cứu thực hiện Sự biến đổi khí hậu có qui mô toàn cầu nhưng hành động để ngăn cản sự biến đội khí hậu ấy đòi hỏi mọi người, mọi quốc gia, mọi vùng và toàn thế giới. Khẩu hiệu “Suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương” xem ra phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu không còn là cùa riêng ai. Hiện nay, đã có rất nhiều ngành khoa học cùng góp sức chống lại sự biến đổi khí hâu trong đó các trường phổ thông là nơi có thể tuyên truyền một cách tốt nhất những tác động của biến đổi khí hậu. Với vai trò là một bộ môn khoa học, các giáo viên phổ thông, qua môn học của mình, sẽ giúp cho các em học sinh hiểu được nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Làm cho mỗi công dân tương lai nhận thức được vai trò của chính họ trong cuộc chiến biến đổi khí hậu toàn cầu. May mắn là nhiều bài học địa lý có những nội.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> dung liên quan đến biến đổi khí hậu toàn cầu. Vì vậy, các thầy cô giảng dạy địa lý ở trường phổ thông sẽ làm cho mỗi học sinh hiểu rằng chính họ chứ không phải ai khác có thể làm chậm đi sự biến đổi khí hậu toàn cầu, giữ vững cuộc sống của nhân loại – chi phí cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu trong lĩnh vực giáo dục là chi phí hiệu quả nhất, kinh tế nhất. - Bản chất nội dung và những biểu hiện của sự biến đổi khí hậu đang diễn ra trên toàn cầu, ở Việt Nam và ở ngay địa phương nơi chúng ta đang sinh sống. - Những hậu quả đã xảy ra và có thể sẽ xảy ra trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong thời gian tiếp theo là có thật, ảnh hưởng rất lớn đến bề mặt Trái đất, nơi con người đang trực tiếp sinh sống. - Những tác động của con người trong quá khứ và hiện tại ( khai thác tài nguyên, hoạt động sản xuất, đời sống sinh hoạt..) đang là nguy cơ chính làm mất cân bằng sinh thái, làm biến đổi khí hậu. - Xác định rõ trách nhiệm của mình với vai trò là người giảng dạy và người thực hiện trực tiếp các hoạt động giáo dục học sinh, cần phải có các hành động tích cực nhằm làm giảm các nguy cơ có thể gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. - Việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mỗi cá nhân, ngoài việc bản thân phải thực hiện tốt, còn có trách nhiệm vận động cộng đồng cùng thực hiện tốt, đồng thời nhắc nhở, ngăn cản khi thấy những biểu hiện vi phạm. - Hiểu và thấm nhuần phương châm trước khi hành động là: “ Vì sự sống của Trái đất” và “ cuộc sống của nhân loại” trong đó có bản thân mình. - Chuẩn bị cho bản thân, gia đình cùng với cộng đồng tâm thế thích ứng để sống chung với biến đổi khí hậu. - Việc thực hiện nghiêm túc nhất và có hiệu quả nhất vấn đề giáo dục BĐKH là lồng ghép, tích hợp nội dung BĐKH vào nhà trường nhất là nhà trường THPT với đối tượng là học sinh PTTH, ở lứa tuổi này các em đã nhận biết đầy đủ về hiện tượng, nguyên nhân gây biến đổi khí hậu, tự chủ động về hành vi bảo vệ môi trường làm giảm thiểu biến đổi khí hậu và có khả năng tuyên truyền vận động thuyết phục các thành phần khác trong xã hội cùng thực hiện. Với nhiều hình thức giáo dục khác nhau:.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> + Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, các cuộc thi, các trò chơi có nội dung gắn với môi trường sống qua những hiểu biết và nhận thức về các biểu hiện gây ô nhiễm, tác hại của ô nhiễm đến cuộc sống hàng ngày. + Tổ chức phong trào thi đua về bảo vệ môi trường góp phầm làm giảm thiểu biến đổi khí hậu ( làm sạch lớp học, trường học, tiết kiệm điện, tiết kiệm nước, gom rác thải, trồng và chăm sóc cây xanh..). + Thường xuyên theo dõi kiểm tra, biểu dương kịp thời những gương tốt và xử lý nghiêm khắc những hành vi làm tổn hại đến môi trường. + Thành lập các tổ xung kích trong trường, thực hiện tuyên truyền ở địa phương vào dip nghỉ hè, đợt công tác xã hội, ngoài giờ học..đồng thời tham gia vào việc gom rác thải, vệ sinh môi trường. + Vận động mọi người, mọi tổ chức xã hội thực hiện phong trào trồng cây phủ xanh đồi trọc, phục hồi rừng ngập măn ven biển, trồng cây nơi cư trú; tiết kiệm năng lượng, hạn chế sử dụng nguyên liệu hóa thạch ( than, dầu mỏ, khi đốt..)… + Thực hiện lồng ghép tích hợp các nội dung giáo dục môi trường ở các môn học: Sinh học, Vật lý, Hóa học, Địa lý, GDCD…với những kiến thức có liên quan dễ nhận biết về tác động của chúng đến môi trường và làm biến đổi khí hậu như: Chất thải rắn, chất thải và ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, vấn đề sử dung đất trong sản xuất, phá rừng, khai thác nước ngầm, xói mòn đất, sử dung thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp, sự suy thoái nguồn thủy hải sản, nguy cơ diệt chủng các loại động vật quí hiếm, phát triển các khu công nghiệp trong các thành phố, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông,lưới diện, viễn thông, cấp thoát nước...

<span class='text_page_counter'>(28)</span> III. MINH HỌA MỘT SỐ NỘI DUNG CÓ THỂ TÍCH HỢP GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU QUA MÔN ĐỊA LÝ Ở CẤP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Vấn đề giáo dục BĐKH cho học sinh ở các bậc học hiện nay là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục các em học sinh trở thành những công dân có ích trong tương lai, là những người có trách nhiệm và có ý thức trong giảm thiểu tác động của BĐKH và có khả năng ứng phó với BĐKH. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc giáo dục về BĐKH, giáo viên có thể sử dụng các chủ đề tiếp cận lồng ghép vào các môn học qua cách dạy học tích hợp, sau đó triển khai các hoạt động củng cố ở các hình thức khác nhau nhằm giúp học sinh hiểu rõ được các vấn đề về các hoạt động thực tiễn đời sống. Thực tế có thể khẳng định, giáo dục biến đổi khí hậu qua môn địa lý đặc biệt có ưu thế, bởi vì hầu hết các bài học trong chương trình các cấp học đều có liên quan đến các yếu tố trên Trái đất (Địa lý tự nhiên & Địa lý kinh tế xã hội và môi trường…). cụ thể như sau: Khối 10. Nội dung có thể tích hợp Bài 6: Hệ quả Các mùa trong năm Tên bài học. chuyển. Mục đích giáo dục Nhận thức được sự thay đổi của. động. thời tiết và khí hậu trong những năm. xung quanh Mặt. gần đây. Tìm ra các nguyên nhân. Trời của Trái Đất. của sự thay đổi đó. Bài 9: Tác động Tác nhân ngoại lực. Ngoài các nguyên nhân do tự. của ngoại lực đến. nhiên thì các hoạt động của con. địa hình bề mặt. người cũng làm cho bề mặt Trái Đất. Trái Đất. thay đổi. Liên hệ thực tế để tìm dẫn chứng minh họa. Bài. 11:. Khí Khí quyển và các. Khi lượng khí CO2 trong khí. quyển, sự phân bố thành phần trong quyển tăng sẽ làm Trái đất nóng lên nhiệt độ không khí quyển. do nhiệt độ tăng gây hiệu ứng nhà. khí trên Trái Đất. kính làm ảnh hưởng đến đời sống sinh vật và hoạt động của con người. Yêu cầu học sinh tìm ra các nguyên nhân làm cho lượng CO2 tăng cao.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Khối. Nội dung có thể tích hợp. Tên bài học. Mục đích giáo dục trong khí quyển=>Nêu giải pháp khắc phục.. Bài 12: Sự phân Một số loại gió. Tìm hiểu các loại gió tác động. bố khí áp. Một số chính. trực tiếp đến nước ta. Đặc tính của. loại gió chính. các loại gió và xu hướng thay đổi trong những năm gần đây. Vùng nào của nước ta sẽ chịu ảnh hưởng nhiều? Nguyên nhân?. Bài 13: Ngưng Các nhân tố ảnh đọng. hơi. Nhận thấy được sự thay đổi trong. nước hưởng đến lượng tổng lượng mưa hàng năm của từng. trong khí quyển. mưa trên Trái đất. địa phương, từng vùng, của các quốc. Mưa. gia và khu vực trên toàn thế giới. Kèm theo mưa là sự gia tăng các hiện tượng dông, lốc xoáy, bão và áp thấp nhiệt đới…. Bài. 15:. Thủy. quyển.. Một. nhân. tố. Các nhân tố ảnh. Thấy được vai trò quan trọng của. số hưởng đến chế độ thảm thực vật đặc biệt là rừng trong ảnh nước sông. việc điều hòa lưu lượng dòng chảy,. hưởng tới chế độ. hạn chế lũ lụt…Tích cực đẩy mạnh. nước sông. Một. trồng rừng ở cả đồng bằng, miền núi. số sông lớn trên. và vùng ven biển.. Trái Đất Bài. 17:. nhưỡng. Thổ Các nhân tố ảnh. Các hoạt động của con người sẽ. quyển. hưởng đến sự hình làm ảnh hưởng đến tính chất của. Các nhân tố hình thành đất. đất=>lớp vỏ sinh vật thay đổi=> khí. thành thổ nhưỡng. hậu thay đổi. Bài. 18:. Sinh Các nhân tố ảnh. Lớp vỏ sinh vật sẽ bị thay đổi. quyển. Các nhân hưởng tới sự phát khi các yếu tố khí hậu trên Trái Đất tố ảnh hưởng tới triển và phân bố thay đổi hoặc các hành động của con.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Khối. Nội dung có thể tích hợp sự phát triển và sinh vật. người sẽ thu hẹp phạm vi sinh sống. phân bố sinh vật. của sinh vật=> Suy giảm đa dạng. Tên bài học. Mục đích giáo dục. sinh học. Liên hệ các loài sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng hoặc thay đổi phạm vi sinh sống khi khí hậu thay đổi. Bài 20: Lớp vỏ Biểu hiện, ý nghĩa. Phân tích ví dụ 3 trang 75 SGK. địa lí. Quy luật thực tiễn của quy lớp 10 để thấy rõ tác hại của con thống. nhất. và luật thống nhất và người khi phá rừng sẽ làm cho khí. hoàn chỉnh của hoàn chỉnh. hậu thay đổi=> Kéo theo đó là sự. lớp vỏ địa lí. thay đổi của các yếu tố tự nhiên theo hướng bất lợi cho con người.. Bài 22: Dân số và Quy mô dân số và. Thấy được sự gia tăng dân số sẽ. sự gia tăng dân số ảnh hưởng dân sô ảnh hưởng rất lớn đến môi trường và đối với sự phát tài nguyên thiên nhiên=> ảnh hưởng triển kinh tế xã hôị đến khí hậu. và môi trường Bài 41, 42: Môi Sử dụng hợp lí tài. Các nội dung đề cập có liên. trường và sự phát nguyên, bảo vệ môi quan nhiều về những tác động của triển bền vững. trường là điều kiện các yếu tố khí hậu, quá trình khai để phát triển. thác tài nguyên của con người đến môi trường làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. 11. Bài 3: Một số vấn Môi trường. Giúp học sinh nhận thức được. đề mang tính toàn. hiện tượng biến đổi khí hậu toàn. cầu. cầu, suy giảm tầng ôzôn, hiện tượng ô nhiễm nước ngọt, biển và đại dương cũng như hiện tượng suy giảm đa dạng sinh vật. Từ đó liên hệ thực tế ở nước ta để thấy rõ tác động.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Khối. Tên bài học. Nội dung có thể tích hợp. Mục đích giáo dục của BĐKH đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội.. Bài 5: Một số vấn Tự nhiên. Thấy được các tác động của khí. đề của Châu Phi. hậu đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế xã hội Châu Phi nhất là trong những năm gần đây khi mà nguồn tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản bị khai thác quá mức đã làm cho đất đai nhiều khu vực bị hoang hóa, khí hậu ngày càng khắc nghiệt.. Bài 9: Nhật Bản. Bảng số liệu về sản. Phân tích được các nguyên nhân. lượng cá khai thác làm cho sản lượng cá khai thác ở của Nhật Bản liên Nhật Bản giảm trong đó yếu tố ô tục giảm từ 1985- nhiễm môi trường nước biển cũng 2003. như sự suy giảm tài nguyên sinh vật biển và tần suất xuất hiện các thiên tai phải được đề cập đến.. Bài 11: Khu vực Đánh giá điều kiện Đông Nam Á. Khu vực Đông Nam Á có nhiều. tự nhiên của Đông điều kiện tự nhiên thuận lợi trong Nam Á. việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do BĐKH làm cho khu vực này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các cơn bão, áp thấp nhiệt đới cùng với các thiên tai như động đất, sóng thần, lũ lụt…. 12. Liên hệ ở Việt nam. Bài 6: Đất nước Địa hình chịu tác Với những tác động tích cực nhiều đồi núi. động mạnh mẽ của và tiêu cực của con người sẽ làm cho con người. bề mặt địa hình thay đổi=> Khí hậu thay đổi=> Sinh vật thay đổi. 12. Bài. 8:. Thiên Ảnh. hưởng. của. Nội dung cần chú ý vận dụng là.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Khối. Nội dung có thể Mục đích giáo dục tích hợp nhiên chịu ảnh Biển Đông đến ảnh hưởng của biển đến thiên nhiên Tên bài học. hưởng sâu sắc của thiên nhiên Việt Việt Nam biểu hiện qua các yếu tố biển. Nam. thời tiết khí hậu ( lượng mưa, nhiệt độ trung bình, độ ẩm, chế độ gió…).. Bài 9, 10: Thiên Tính chất nhiệt đới. Với những biểu hiện đa dạng,. nhiên nhiệt đới ẩm, gió mùa của bất thường của một số yếu tố khí hậu ẩm gió mùa. khí hậu Việt Nam. ( thời tiết, chế độ thủy văn..) đó là những tác nhân quan trọng với đời sống.. Ảnh. hưởng. của Phân tích những biểu hiện của các. thiên nhiên nhiệt yếu tố khí hậu: nền nhiệt độ cao, đới ẩm gió đến lượng mưa nhiều, độ ẩm lớn và các hoạt động sản xuất hoạt động của gió mùa đã ảnh hưởng và đời sống.. đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của con người. Bài 11,12: Thiên Các miền địa lí tự. Tìm ra được các nguyên nhân. nhiên phân hóa đa nhiên. dẫn đến sự thất thường của nhịp điệu. dạng. mùa khí hậu, của dòng chảy sông ngòi và tính không ổn định của thời tiết là những trở ngại lớn trong quá trình sử dụng tự nhiên của mỗi miền=> Nêu ra các giải pháp khắc phục.. Bài 14: Sử dụng Vấn đề sử dụng Hiểu được các nguyên nhân làm suy và. bảo. nguyên nhiên. vệ. tài hợp lí và bảo vệ tài giảm. nguồn. tài. nguyên. thiên. thiên nguyên sinh vật, tài nhiên=> đưa ra các biện pháp bảo vệ nguyên. đất,. tài và sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên.. nguyên nước, tài Liên hệ thực tế ở địa phương. nguyên. khoáng. sản, tài nguyên du.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Khối. Nội dung có thể tích hợp lịch…. Tên bài học. Bài 15: Bảo vệ Vấn đề bảo vệ môi môi. trường. phòng. và trường.. Một. Mục đích giáo dục Tìm hiểu các nguyên nhân, đưa. số ra các giải pháp ứng phó và thích. chống thiên tai chủ yếu và nghi, các nội dung cần thực hiện. thiên tai. biện pháp phòng nhằm hạn chế tối đa những tác động chống.. xấu từ thiên tai, bảo vệ cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người.. Bài 32-Bài 41. Phân. tích. ảnh. Thấy rõ các khó khăn cơ bản của. hưởng của các yếu từng vùng trong điều kiện khí hậu có tố tự nhiên ở từng nhiều thay đổi đã tác động không vùng đến sự phát nhỏ đến cuộc sống,sinh hoạt và sản triển kinh tế xã hội xuât của người dân địa phương với từ trung du miền nhiều mức độ khác nhau=> Nêu các núi phía Bắc- Bắc giải pháp thích hợp nhất trong chiến Trung. Bộ-. Nguyên. Tây lược ứng phó của từng vùng.. -. Đông. Nam Bộ -. Vùng. đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng Bài 42: Vấn đề Khai thác tổng hợp phát triển kinh tế, các an. ninh. phòng. ở. tài. Cần xác định rõ các thế mạnh. nguyên trong khai thác tổng hợp nguồn tài. quốc vùng biển và hải nguyên biển đảo đi đôi với việc bảo Biển đảo. vệ, khai thác hợp lí nguôn tài. Đông và các đảo,. nguyên, chống ô nhiễm môi trường. quần đảo.. biển. Liên hệ thực tế ở địa phương trong vấn đề khai thác tổng hợp kinh tế biển.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Khối. Tên bài học. Nội dung có thể tích hợp. Bài 44,45: Địa lí Ngoài các chủ đề địa phương. Mục đích giáo dục Yêu cầu học sinh phân tích rõ. theo quy định thì nguyên nhân, tác động và các giải có thể đưa thêm nôi pháp ứng phó và thích nghi với Biến dung Biến đổi khí đổi khí hậu ở địa phương mình hậu ở địa phương nghiên cứu. vào để học sinh tìm hiểu, nghiên cứu..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> PHẦN KẾT LUẬN 1. Kết luận:. Nhận thức về phát triển bền vững, diễn biến của biến đổi khí hậu và nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu trong xã hội và nhà trường ngày nay còn rất mờ nhạt. Các nhà quản lý hành chính, kinh tế, lãnh đạo các cơ sở sản xuất kinh doanh còn tỏ ra rất thờ ơ với những hậu quả mà chính họ gây ra do không quản lý chặt chẽ, không vì lợi ích tổng thể mà chỉ vì lợi ích cục bộ, không chủ động giải quyết những hậu quả nảy sinh trong sản xuất và cuộc sống với môi trường ngay tại nơi sinh sống và sản xuất. Việc giúp cho mọi người nói chung và học sinh trong nhà trường nói riêng có nhận thức đầy đủ về phát triển bền vững, hậu quả của quá trình khai thác tài nguyên làm biến đổi khí hậu, đồng thời có hành động bảo vệ môi trường góp phần làm giảm thiểu biến đổi khí hậu, có kế hoạch ứng phó và sống chung với biến đổi khí hậu. là hết sức cần thiết trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường - hội nhập khu vục và quốc tế. Đặc biệt trong nhà trường, cần phải coi việc tích hợp trong các bài giảng đưa nôi dung giáo dục bảo vệ môi trường làm giảm thiểu biến đổi khí hậu vì sự phát triển bền vững là nhiệm vụ quan trọng, nhưng không thể thiếu sự quan tâm, cộng đồng trách nhiệm phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các cơ quan, ban ngành đoàn thể xã hội cùng chung tay thực hiện mới đem lại kết quả cao. Thông điệp đã rõ. Vấn đề còn lại là của Khoa học kĩ thuật (tìm kiếm nguồn tài nguyên, năng lượng thay thế không làm phương hại tới khí hậu Trái Đất, gián tiếp làm mực nước biển dâng cao) là của các nhà làm chính sách (thuế về sử dụng năng lượng, thuế cùng các biện pháp khuyến khích cá nhân, các tập đoàn, công ty, cộng đồng có tác động tích cực đối với vấn đề làm giảm thiểu sự nóng lên của khí hậu toàn cầu … bên cạnh những biện pháp trừng phạt bằng luật định); sự hợp tác giữa các chính phủ trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu; sự tham gia của cộng đồng… Trong tất cả những biện pháp vừa nêu, rẻ hơn cả, có hiệu quả hơn cả là thông qua giáo dục, làm thay đổi nhận thức. thay đổi thái độ và nhất là hành vi đối với sự biến đổi khí hậu toàn cầu..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> 2. Kiến nghị a. Đối với các cấp lãnh đạo Cần có kế hoạch, chiến lược cùng với lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương và địa phương thống nhất về nhận thức và cộng đồng trách nhiệm, chủ động phối hợp thực hiện các biện pháp khắc phục và bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu biến đổi khi hậu vì sự phát triển bền vững. đồng thời chỉ đạo, theo dõi, nhắc nhở thường xuyên hệ thống giáo dục toàn quốc thực hiện các chương trình bảo vệ môi trường hạn chế tác động của biến đổi khí hậu. b. Đối với các nhà quản lí Lãnh đạo các trường cần chủ động thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Bộ GD&ĐT trong việc đưa giâo dục môi trường, giâo dục BĐKH vằ nhă trường với nhiều hình thức khác nhau, chú ý coi trọng việc tích hợp, lồng ghép kiến thức vào các bài giảng trên lớp và thực hành ngoài trời. Nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương , các tổ chức đoàn thể xã hội tổ chức các hoạt động ( thi tìm hiểu, thực hành tại chỗ..) vệ sinh môi trường, tiết kiệm điện, trồng cây xanh khu cư trú.. và sẵn sàng sống chung với biến đổi khí hậu. - Cần đâu tư có chiều sâu ( vật chất và kế hoạch) cho những hoạt động nhằm hạn chế tối đa những tác động đã, đang và sẽ làm tổn hại môi trường sống (tự nhiênxã hội) trong nhà trường c. Đối với các thầy cô giáo Các thầy cô giáo cần vận dụng tối đa điều kiện có thể được, giúp học sinh hiểu sâu hơn về phát triển bền vững, những hiện tượng môi trường làm biến đổi khí hậu và hậu quả của chúng với sự phát triển bền vững. Trong đó đặc biệt chú ý đến nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu chủ yếu là do con người (90%) gây ra từ các hoạt động sản xuất, đời sống, sinh hoạt hàng ngày. Tóm lại, BĐKH ngày càng biểu hiện rõ rệt và tác động của nó đang hiện rõ hơn, dồn dập hơn và tác hại nhiều hơn. Nhận thức về nó, chấp nhận và thích ứng, đồng.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> thời có những biện pháp chủ động giảm thiểu tác hại và ngăn ngừa rủi ro có lẽ là chủ trương phù hợp nhất ở hiện tại và cũng như trong tương lai. Việc cập nhật thường xuyên và tích hợp các nội dung BĐKH vào giảng dạy môn Địa Lý ở trường THPT là một yêu cầu thực tế, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội và đất nước..

<span class='text_page_counter'>(38)</span>

×