Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Luận văn quản lý nhà nước đối với quảng cáo ngoài trời từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.46 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGÔ TỐ QUYÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI QUẢNG CÁO NGỒI TRỜI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGÔ TỐ QUYÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI QUẢNG CÁO NGỒI TRỜI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HUỲNH VĂN THỚI



Hà Nội, năm 2021



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thị trường cạnh tranh đầy gay gắt và khốc liệt như hiện nay thì quảng
cáo đóng một vai trị vơ cùng quan trọng. Mục đích chính của quảng cáo là để
truyền tải thơng điệp tới khách hàng. Trong các loại hình quảng cáo thì QCNT là
một hình thức rất phổ biến. Những năm gần đây hoạt động quảng cáo nói chung và
QCNT ở nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, trở thành hoạt động thường
xuyên của các doanh nghiệp trong nước và các thương nhân nước ngoài hoạt động
tại Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp chuyên kinh doanh dịch vụ quảng cáo đã ra đời
với những hình thức, phương tiện hoạt động phong phú, tạo nên sự cạnh tranh
sôi động. Đó là một xu hướng tất yếu của nền kinh tế trong xu thế hội nhập khu vực
và toàn cầu. Để thúc đẩy xu hướng đó phát triển, đồng thời hạn chế mặt trái của nó,
tất yếu phải có sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động QCNT với sự định hướng
cần thiết để hoạt động QCNT diễn ra trong khuôn khổ pháp luật.
Để đưa hoạt động quảng cáo nói chung và QCNT nói riêng đi vào nề nếp thì
pháp luật đóng vai trị rất quan trọng. Nói cách khác, pháp luật về quảng cáo sẽ là
cơ sở bảo đảm cho hoạt động quảng cáo được tiến hành hiệu quả, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Đáp ứng yêu cầu thực tế này, Quốc hội khóa XIII tại kỳ
họp thứ 3 đã thơng qua LQC năm 2012 để thay thế cho Pháp lệnh Quảng cáo năm
2001. Bên cạnh những quy định tích cực thì pháp luật điều chỉnh vấn đề QCNT còn
nhiều bất cập, gây khó khăn cho hoạt động QLNN. Nguyên nhân của những tình
trạng này là do tính hiệu lực và hiệu quả của hoạt động QLNN về QCNT chưa cao.
Thêm vào đó, các chủ thể tham gia vào hoạt động này chưa hiểu biết hết các quyền
và nghĩa vụ của mình theo pháp luật, hoặc biết nhưng cố tình làm sai, từ đó dẫn đến
rất nhiều hành vi vi phạm của cả hai phía, đối tượng quản lý và đối tượng chịu sự

quản lý. Mặt khác hệ thống pháp luật về quảng cáo nói chung cịn thiếu những cơ
chế bảo đảm thực thi, thiếu những chế tài để buộc phải tuân thủ. Các quy định pháp
luật còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn của hoạt động QCNT
đang diễn ra rất sôi động trong đời sống kinh tế - xã hội.

1


Từ thực tiễn đó cho thấy q trình tổ chức và QLNN về hoạt động QCNT ở
nước ta đã và đang diễn ra rất phức tạp theo chiều nhiều hướng khác nhau và mang
lại những kết quả khác nhau. Quá trình ấy đặt ra rất nhiều vấn đề địi hỏi phải được
nghiên cứu giải quyết nhằm khẳng định vai trò vị trí của QCNT trong tiến trình phát
triển chung của nền kinh tế nhưng đồng thời phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong
hoạt động QLNN về QCNT, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế xã hội thiết thực.
Như đã trình bày, QCNT là hoạt động khơng thể thiếu của các doanh nghiệp
nhằm khai thác thị trường cũng như thúc đẩy kinh doanh. Tuy nhiên, theo đánh giá
của ngành văn hóa TP.HCM thì hoạt động này vẫn cịn tồn tại nhiều bất cập. Đa số
QCNT đều tồn tại tự phát, chưa có quy hoạch, khơng có hồ sơ quản lý chặt chẽ, tình
trạng lấn chiếm vị trí, xen cây cối còn phổ biến [34, tr. 26].
Do hậu quả của việc xây dựng chắp vá trong những năm qua nên hệ thống
QCNT tại TP.HCM còn chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu mỹ quan, có địa điểm
khơng cịn phù hợp về quy mơ và vị trí, cần phải được sắp xếp lại cho hợp lý. Sự
phân bố không đồng đều, chủng loại cịn đơn điệu cũng làm ảnh hưởng khơng nhỏ
đến cảnh quan đơ thị. Khơng khó để nhận ra những hạn chế này khi người đi đường
thấy phản cảm bởi tấm panơ, áp phích được treo sơ sài trên những cây cao bên
đường. Ngoài ra, những biển quảng cáo đã hết thời hạn hoặc qua thời điểm tuyên
truyền đã lâu mà vẫn cịn phấp phới tung bay, thậm chí đã rách, bạc phếch qua thời
gian … cũng không phải là chuyện hiếm. Nhiều băng rôn, panô quảng cáo được
dựng lên với đủ kích thước, đặt ở những vị trí cao thấp khác nhau đã tạo nên sự
nhếch nhác, thậm chí mất an tồn. Trong khi đó, theo quy định phương tiện QCNT

phải có địa điểm, kiểu dáng, kích thước, chất liệu, số lượng phù hợp với quy hoạch
quảng cáo được phê duyệt… Từ thực tế trên và với mong muốn góp phần hồn
thiện hơn hoạt động QLNN đối với QCNT trong giai đoạn hiện nay, học viên đã
chọn đã đề tài: “Quản lý nhà nước đối với quảng cáo ngoài trời từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh” cho luận văn của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhận thức được tầm quan trọng của QLNN về quảng cáo nên đã có một số
cơng trình nghiên cứu các khía cạnh khác nhau về quảng cáo và thực trạng QLNN
về quảng cáo. Cụ thể:
* Về sách, giáo trình:
Thứ nhất, sách Pháp luật về quảng cáo của tác giả Nguyễn Duy Dương,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, năm 2009. Cuốn sách này đã phân tích những
mặt tích cực cũng như những mặt khó khăn hạn chế của hệ thống pháp luật Việt
Nam quy định về quảng cáo, qua đó đưa ra một số kiến nghị đề xuất hoàn thiện
pháp luật về quảng cáo trong thời kỳ mới.
Thứ hai sách Đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển quảng cáo ở Việt Nam
hiện nay của tác giả Phạm Hà Vân, Nxb. Lao Động, năm 2012. Cuốn sách này đã
phân tích những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn nhân lực trong QLNN đối
với quảng cáo Việt Nam trên hai phương diện: cán bộ, công chức và lực lượng lao
động trong lĩnh vực quảng cáo.
* Về luận văn, luận án:
Thứ nhất, luận văn “Tăng cường QLNN về QCNT ở thành phố Đà Nẵng”
của tác giả Hà Văn Cường, năm 2005, Học viện Khoa học xã hội Viện Hàn Lâm,
Hà Nội. Luận văn xây dựng khung lý thuyết QLNN về QCNT dựa trên đặc thù của
một thành phố du lịch với những khác biệt đặc thù của vùng, và về tập quán kinh
doanh tại khu vực này.

Thứ hai, luận văn “QLNN về quảng cáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
thực trạng và giải pháp phát triển” của tác giả Ninh Thị Thu Hương, năm 2006,
Trường Đại học luật Hà Nội. Luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về
quảng cáo và QLNN trong hoạt động quảng cáo, nghiên cứu làm rõ những mục đích
đặc thù của quảng cáo về kinh tế và văn hóa quảng cáo. Từ đó đưa ra thực trạng
hoạt động quảng cáo và QLNN về quảng cáo, đề ra những phương hướng, giải pháp
khắc phục, hồn thiện chính sách pháp luật đối với hoạt động này.
Thứ ba, luận văn “QLNN đối với thị trường quảng cáo của Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Phạm Thị Thu Trang, năm 2010,

3


Học viện hành chính quốc gia. Trong Luận văn này, tác giả tập trung phân tích vào
khung lý thuyết QLNN về tính thẩm mỹ trong quảng cáo.
Thứ tư, luận văn “QLNN đối với phát triển quảng cáo theo hướng công
nghiệp hóa - hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Hà Duy Hồng, năm 2012,
Học viện Chính trị quốc gia. Luận văn này tập trung làm rõ nội hàm QLNN liên
quan đến phát triển quảng cáo theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, tác giả
chú trọng phân tích hệ thống các giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình phát triển
quảng cáo trên địa bàn cấp tỉnh.
Thứ năm, luận văn “Quản lý nhà nước về quảng cáo ngồi trời từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Hoàng Anh, năm 2020, Học viện
Khoa học xã hội Việt Nam. Luận văn này tập trung làm rõ nội hàm quản lý nhà
nước về quảng cáo ngồi trời từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả chú
trọng phân tích hệ thống các giải pháp góp phần thúc đẩy q trình phát triển về
quảng cáo ngồi trời từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
* Về các bài viết trên tạp chí chuyên ngành:
Thứ nhất, bài viết “Phân cấp thẩm quyền QLNN về hoạt động quảng cáo
thương mại theo pháp luật Việt Nam” của Lê Thị Lợi trên Tạp chí Luật học số 07,

năm 2014. Bài viết đã phân tích các nội dung liên quan đến QLNN về quảng cáo và
phân định thẩm quyền QLNN về hoạt động quảng cáo thương mại.
Thứ hai, bài viết “Thực trạng QLNN đối với hoạt động quảng cáo thương
mại trên truyền hình tại Việt Nam” của Lê Hương Giang trên Tạp chí Luật học số
08, năm 2014. Bài viết đã phân tích vấn đề QLNN đối với hoạt động quảng cáo
thương mại trên truyền hình tại Việt Nam.
Thứ ba, bài viết “Lí luận về thẩm quyền QLNN với hoạt động quảng cáo và
quảng cáo thương mại” của Nguyễn Thị Dung trên Tạp chí Luật học số 9, năm
2014. Bài viết đã nghiên cứu về thẩm quyền QLNN với hoạt động quảng cáo và
quảng cáo thương mại.
Thứ tư, bài viết “Thực trạng QLNN đối với hoạt động quảng cáo trên bảng
quảng cáo, băng rôn” của Nguyễn Thị Huyền Trang - Phạm Thị Huyền trên Tạp
chí Luật học số 12, năm 2014. Các tác giả đã đề cập đến những quy định xuất phát

4


từ đặc thù của các phương tiện quảng cáo cụ thể trên bảng quảng cáo, băng rơn là
mang tính cố định, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, việc có nhiều chủ thể
quản lý dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo khi thực hiện quản lý doanh nghiệp sẽ
gặp khó khăn khi triển khai thực hiện quảng cáo.
Thứ năm, bài viết “Vai trò của nhà nước đối với hoạt động quảng cáo thương
mại” của Nguyễn Quý Trọng trên Tạp chí Luật học số 1, năm 2015. Bài viết đã nghiên
cứu về vai trò của nhà nước đối với hoạt động quảng cáo thương mại.
Thứ sáu, bài viết “Pháp luật về quảng cáo: những bất cập và kiến nghị hoàn
thiện” của Phan Thị Lan Hương trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10, năm
2018. Bài viết cho rằng pháp luật về quảng cáo là cơ sở bảo đảm cho hoạt động
quảng cáo được tiến hành hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, pháp luật về quảng cáo hiện hành cịn khơng ít bất cập, gây khó khăn
cho việc thực hiện, như tại các quy định về: quảng cáo trên phương tiện thông tin

đại chúng, trên internet, các loại hàng hóa đặc biệt bị cấm quảng cáo, cơng trình
QCNT, thủ tục cấp phép xây dựng cơng trình quảng cáo, khoảng trống pháp luật về
đại diện thương hiệu, xác nhận nội dung quảng cáo... Tiếp tục hoàn thiện pháp
LQC là một yêu cầu cấp bách, vì đó khơng chỉ là sự thích ứng cần có của quốc gia
trong bối cảnh hội nhập quốc tế mà còn là cách tăng cường sự biểu đạt các giá trị
thẩm mỹ, văn hóa xã hội ở lĩnh vực kinh tế này.
Thứ bảy, bài viết “Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp Nhìn từ góc độ pháp luật quảng cáo thương mại” của Võ Thị Thanh Linh trên Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật số 10, năm 2017. Bài viết cho rằng quảng cáo là một
ngành kinh tế quan trọng, bởi khi hoạt động quảng cáo phát triển sẽ góp phần thúc
đẩy sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Thông qua hoạt động quảng cáo, các
thơng tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp được tiếp cận đến
người tiêu dùng nhanh hơn, tạo thêm nhiều cơ hội tiêu thụ sản phẩm cho doanh
nghiệp.
Thứ tám, bài viết “Những bất cập trong pháp luật quảng cáo thương mại
trên mạng internet và kiến nghị hoàn thiện” của Võ Thị Thanh Linh trên Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 01, năm 2019. Bài viết cho rằng quảng cáo thông qua

5


các mạng xã hội như Facebook, Zalo… hiện đang phát triển rất mạnh. Internet
cung cấp các cơ hội lớn cho các doanh nghiệp tìm hiểu xem khách hàng thích gì và
khơng thích gì, mang đến cơ hội cho các doanh nghiệp hướng các thông điệp tới
các đối tượng mục tiêu nhưng vẫn thiết kế thông điệp phù hợp với từng nhóm dân
cư và sở thích của mỗi nhóm. Khách hàng có thể xem thơng tin của sản phẩm, hoặc
thậm chí đặt mua “online” sản phẩm đó. Điều đó có nghĩa là quảng cáo trên
internet có sự tương tác cao, tạo cơ hội cho các nhà quảng cáo nhắm chính xác vào
khách hàng của mình, tiến hành quảng cáo theo đúng sở thích và thị hiếu của người
dân.
Tuy nhiên, các đề tài trên chỉ tập trung nghiên cứu các góc độ khác nhau liên

quan đến QLNN về quảng cáo nói chung và QCNT nói riêng mà chưa có cơng trình
nào nghiên cứu chuyên sâu về QLNN đối với QCNT trên địa bàn TP.HCM. Vì vậy,
đề tài luận văn mà tác giả đã chọn “Quản lý nhà nước đối với quảng cáo ngồi
trời trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” mang tính mới và khơng trùng lắp với
bất kỳ cơng trình nào khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Phân tích, làm rõ phương diện lý luận và thực tiễn các vấn đề về QLNN đối
với QCNT. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả
QLNN đối với QCNT trên địa bàn TP.HCM trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu
của luận văn là:
- Tìm hiểu và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu của đề tài.
- Đánh giá và làm sáng tỏ các quy định pháp luật, cách thức điều chỉnh của
các chủ thể quản lý trong quá trình QLNN đối với QCNT.
- Làm sáng tỏ thực trạng QLNN đối với QCNT từ thực tiễn TP.HCM và
những vấn đề pháp lý phát sinh trong hoạt động QLNN đối với QCNT trên địa bàn
TP.HCM.

6


- Đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề
QLNN đối với QCNT trên địa bàn TP.HCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động
QLNN đối với QCNT trên địa bàn TP.HCM.
Về phạm vi nghiên cứu:

- Phạm vi giới hạn về nội dung nghiên cứu: Hoạt động QLNN đối với QCNT
của UBND TP.HCM.
- Phạm vi giới hạn về không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn
TP.HCM.
- Phạm vi giới hạn về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu mốc thời gian từ khi có
LQC năm 2012 và Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của LQC cho đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề QLNN đối với QCNT làm cơ sở
phương pháp luận cho việc nghiên cứu lý luận và tính thực tiễn đề tài.
Ngồi việc dùng phương pháp luận, Luận văn còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khác cụ thể như sau:
- Phương pháp thu thập tài liệu: là phương pháp nghiên cứu các Văn kiện
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, sách chuyên khảo, giáo trình, cơng
trình khoa học, tạp chí, bài báo liên quan đến chính sách cơng nói chung mà cụ thể
là cơng tác QLNN đối với quảng cáo nói chung, QCNT nói riêng ở trong và ngồi
nước; các số liệu báo cáo, thống kê về tình hình QLNN đối với QCNT ở các địa
phương trên cả nước và ở TP.HCM (các số liệu được sử dụng đều là những số liệu
được thu thập, công bố bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trên các tạp chí,
các trang website chuyên ngành) nhằm mục đích xây dựng được nền tảng lý thuyết
cơ bản về vấn đề nghiên cứu, tham khảo các các tiếp cận vấn đề, lịch sử nghiên cứu,
kinh nghiệm của các nước và các địa phương khác; thu thập số liệu nghiên cứu.

7


- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích các vấn đề lý
luận cũng như quy định của pháp luật liên quan đến QLNN đối với QCNT.

- Phương pháp so sánh: được sử dụng trong đánh giá các quy định của pháp
luật về QLNN đối với QCNT qua các thời kỳ để thấy được sự thay đổi của pháp
luật về vấn đề này.
- Phương pháp phân tích luật viết: được sử dụng để trình bày các bất cập,
hạn chế trong các quy định về đối với QCNT, chủ yếu là những vấn đề như nội
dung quản lý, thẩm quyền quản lý, hình thức, phương pháp quản lý.
- Phương pháp thống kê: được sử dụng để tập hợp các quy định pháp luật có
liên quan, các số liệu, báo cáo, vụ việc từ thực tiễn QLNN đối với QCNT từ thực
tiễn TP.HCM.
- Phương pháp chuyên gia: được sử dụng để thu thập ý kiến của các nhà
nghiên cứu, những người làm công tác quản lý nhà nước, kiểm tra, xử lý VPHC về
hoạt động quảng cáo trên địa bàn Thành phố.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học: Luận văn góp phần bổ sung và làm rõ thêm một số vấn đề
về cơ sở khoa học liên quan đến QLNN đối với QCNT; làm rõ hơn khái niệm về
QLNN đối với QCNT; luận văn cũng đã chỉ ra rằng QLNN đối với QCNT khơng
hồn tồn giống với QLNN nói chung, hiệu quả QLNN đối với QCNT chịu ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố đặc trưng trong mối tương quan với hệ thống pháp luật,
chính sách của Nhà nước đối với văn hóa, kinh tế và điều kiện của từng địa phương
khác nhau; Bằng cách thức tiếp cận hệ thống, luận văn đã khái quát cơ sở nền tảng
về phương thức nâng cao hiệu quả QLNN đối với QCNT với những luận cứ khách
quan, khoa học.
Về mặt thực tiễn: Việc nghiên cứu về QLNN đối với QCNT sẽ đóng góp
thiết thực về mặt nhận thức, cũng như giải quyết một phần các vấn đề thực tiễn đặt
ra đối với QLNN hiện nay; góp phần vào việc triển khai các Nghị quyết của Đảng,
chính sách của Nhà nướcvề xây dựng, kiện tồn hệ thống QLNN và đội ngũ cán bộ,
công chức trong bộ máy quản lý cấp cơ sở; luận văn còn có ý nghĩa quan trọng đối
với q trình học tập, nghiên cứu của tác giả, đây cũng là điều kiện để tác giả rèn

8



luyện khả năng độc lập nghiên cứu khoa học của mình. Luận văn cũng có thể là tài
liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý của QLNN đối với QCNT.
Chương 2: Thực trạng QLNN đối với QCNT trên địa bàn TP.HCM.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với
QCNT trên địa bàn TP.HCM.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI
1.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước đối với quảng cáo ngoài trời
1.1.1. Khái niệm quảng cáo ngoài trời và quản lý nhà nước đối với quảng
cáo ngoài trời
Quảng cáo là hoạt động của doanh nghiệp nhằm làm tăng mức tiêu thụ hàng
hóa của mình. Nóí cách khác, đây là phương tiện để kích thích nhu cầu và tạo lập sự
trung thành với nhãn hiệu hàng hóa [38, tr. 412]. Ngồi ra, có thể coi quảng cáo là
một trong những hình thức cạnh tranh bằng cách phân biệt sản phẩm. Vì vậy, quảng
cáo vừa là phương tiện cung cấp những thông tin cần thiết cho khách hàng, vừa là
công cụ để thuyết phục khách hàng rằng nhãn hiệu được quảng cáo tốt hơn, ưu việt
hơn các nhãn hiệu khác [23, tr. 32].
Dưới góc độ ngơn ngữ, quảng cáo là “làm cho đơng đảo quần chúng biết đến
món hàng của mình hoặc một cuộc biểu diễn để lấy tiền” [31, tr. 1491]. Dưới góc

độ pháp lý thì Khoản 1 Điều 2 LQC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy
định: quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến cơng chúng
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ khơng có mục
đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được giới
thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thơng tin cá nhân.
Để quảng cáo sản phẩm, hàng hóa dịch vụ đến người tiêu dùng, nhà sản xuất,
phải sử dụng đến các công cụ truyền tải thông tin. LQC năm 2012 gọi đây là
phương tiện quảng cáo. Dưới góc độ lý luận, phương tiện quảng cáo là công cụ
được sử dụng để giới thiệu các sản phẩm quảng cáo. Phương tiện quảng cáo bao
gồm tất cả các phương tiện có khả năng truyền tải thông tin đến công chúng. Việc
lựa chọn phương tiện quảng cáo thích hợp có ý nghĩa quyết định đến sự thành công
của chiến lược quảng cáo. Theo Điều 17 LQC năm 2012 thì phương tiện được phân
thành các nhóm sau: i. Báo chí, ii. Trang thơng tin điện tử, thiết bị điện tử, thiết bị
đầu cuối và các thiết bị viễn thông khác, iii. Các sản phẩm in, bản ghi âm, ghi hình và

10


các thiết bị công nghệ khác, iv. Bảng quảng cáo, băng rơn, biển hiệu, hộp đèn, màn
hình chun quảng cáo, v. Phương tiện giao thông, vi. Hội chợ, hội thảo, hội nghị, tổ
chức sự kiện, triển lãm, chương trình văn hóa, thể thao, vii. Người chuyển tải sản
phẩm quảng cáo; vật thể quảng cáo, viii. Các phương tiện quảng cáo khác theo quy
định của pháp luật.
Hiện nay, LQC năm 2012 không quy định thế nào là QCNT. Luật này cũng
không quy định cụ thể các hình thức quảng cáo nào được gọi là QCNT. Trước đây,
Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001 cũng như trong các văn bản pháp luật có liên quan
đến lĩnh vực cũng chưa có bất cứ khái niệm nào chính xác thế nào là QCNT. Tuy
nhiên, dưới độ truyền thơng, có thể hiểu QCNT là việc doanh nghiệp sử dụng một
trong những phương tiện quảng cáo như bảng, biển, pa-nơ, băng rơn, màn hình đặt
nơi cơng cộng, phương tiện giao thông… để đưa thông tin sản phẩm đến khách hàng

[36, tr. 28]. Mục 4 LQC năm 2012 (từ Điều 27 - Điều 34) quy định nhóm phương
tiện quảng cáo trên bảng quảng cáo, băng rôn, biển hiệu, hộp đèn, màn hình chuyên
quảng cáo và phương tiện giao thông. Như vậy, quy định trên “dường như” đã quy
định về phương tiện QCNT.
Từ đây, có thể hiểu, QCNT là việc sử dụng các phương tiện QCNT để giới
thiệu đến cơng chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm,
dịch vụ khơng có mục đích sinh lợi của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ; hoặc
không nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức cá nhân cung ứng dịch vụ [38, tr. 413].
QCNT có hơn 100 loại và định dạng. Những loại chính gồm có bảng quảng cáo,
thiết bị đường phố, phương tiện trung chuyển, phương tiện truyền thông thay thế và
điện ảnh [19, tr. 4].
Từ khái niệm trên, có thể rút ra các đặc điểm về QCNT như sau:
Một là, QCNT là việc đăng tải thông tin sản phẩm quảng cáo trên các phương
tiện đặt bên ngồi nhà ở. QCNT có ảnh hưởng trên diện rộng, phương tiện truyền đạt
thông tin này tác động đến tất cả mọi người đang hoạt động ngoài trời từ đi làm, đi
học, mua sắm đến người đi dạo ngoài phố.

11


Hai là, QCNT mang bản chất thông tin và mức truyền đạt thơng tin trên các
tấm biển, bảng QCNT có tính thường xuyên, liên tục. Sự hiện hữu thường xuyên
của một biển, bảng quảng cáo có vai trị to lớn trong truyền đạt thông tin. QCNT
không chỉ đến với số lượng lớn cơng chúng, mà cịn truyền đạt ý tưởng một cách hữu
hiệu tới những nhóm người nhất định.
Ba là, QCNT có thơng tin phong phú, đa dạng. Thơng tin này là sự kết hợp
của nhiều yếu tố khác nhau như ngơn ngữ, hình ảnh, màu sắc, ánh sáng… So với
các phương tiện truyền đạt thông tin khác, QCNT luôn có vị trí quan trọng nhất, gây
ấn tượng mạnh mẽ về cường độ và phạm vi ảnh hưởng.

Bốn là, QCNT xuất hiện rất đa dạng. Tùy theo tính chất sản phẩm, dịch vụ
cần quảng cáo, khách hàng chọn lựa hình thức quảng cáo thích hợp trong bốn loại
hình cơ bản: “billboard” là quảng cáo tầm cao, “street furniture” quảng cáo ở tầm
thấp như nhà chờ xe buýt, kiốt hoặc các loại banner trên đường phố, quảng cáo di
động (transit) trên các phương tiện vận tải và các hình thức quảng cáo dưới dạng
trưng bày hình ảnh, truyền tải thơng điệp ở những khu vực thương mại dịch vụ đông
người, thể hiện qua các poster, brochure,… được gọi chung là POSM (points of sale
materials) [68, tr. 91].
Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, bên cạnh
những yếu tố cơ bản tác động tới sự phát triển của xã hội như sức lao động, trình độ
lao động thì một yếu tố được coi là quan trọng hàng đầu đó là yếu tố quản lý. Trên
thế giới hiện nay, cách hiểu về quản lý có tính thống nhất tương đối. Khoa học về
quản lý định nghĩa: “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của
chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
thơng qua hệ thống pháp luật, chính sách, các nguyên tắc, các quy định và bằng các
biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng
quản lý” [25, tr. 12]. Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất, quản lý chính là sự tác
động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các công cụ quản lý nhằm đạt
mục tiêu đề ra. QLNN là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực
nhà nước và sử dụng pháp luật, chính sách để điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức trên

12


tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện,
nhằm phục vụ nhân dân, duy trì ổn định và phát triển của xã hội.
QLNN là sự tác động của chủ thể mang quyền lực nhà nước chủ yếu bằng pháp
luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của
nhà nước. Theo Giáo trình luật hành chính Việt Nam của tác giả Nguyễn Cửu Việt thì
“QLNN” là hoạt động tổ chức, chỉ đạo của Nhà nước (bao gồm tất cả các cơ quan nhà

nước) bằng quyền lực nhà nước đối với các hành vi của con người hay hoạt động của
các cơ quan, tổ chức hay toàn bộ nhà nước nhằm đạt được mục đích mà Nhà nước đề
ra [69, tr. 22]. Từ khái niệm này, có thể hiểu, QLNN được tiếp cận ở hai nghĩa (tương
ứng hai phạm vi), theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
QLNN theo nghĩa rộng là toàn bộ mọi hoạt động của Nhà nước nói chung,
mọi hoạt động mang tính chất nhà nước, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước; là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy nhà nước; là tổ chức
của quyền lực nhà nước trên cả ba phương diện là lập pháp, hành pháp và tư pháp
[26, tr. 33]. Theo cách hiểu này, chủ thể QLNN bao gồm tất cả các cơ quan, công
chức trong bộ máy nhà nước thuộc hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Đối tượng quản lý của nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và
hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Phạm vi của QLNN bao quát toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của đất nước với mục tiêu là phục vụ
nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững trong xã hội.
QLNN theo theo nghĩa hẹp được hiểu là hoạt động chấp hành và điều hành
được thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước (hoặc một
số tổ chức xã hội trong trường hợp được giao nhiệm vụ QLNN) đối với các quá
trình xã hội và hành vi của con người nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu
nhiệm vụ QLNN [26, tr. 35].
QLNN được đề cập trong đề tài này là khái niệm QLNN theo nghĩa hẹp.
Theo đó, QLNN bao gồm tồn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các
văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý
và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với đối tượng quản lý của Nhà nước. Từ
đây có thể đưa ra khái niệm QLNN đối với QCNT. Theo đó, “QLNN đối với QCNT

13


là sự tác động, điều chỉnh thường xuyên của Nhà nước bằng quyền lực nhà nước
(chủ yếu thông qua hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước) đối với tồn bộ

hoạt động QCNT nhằm mục đích chung nhất là làm cho các hoạt động này diễn ra
đúng quy định của pháp luật, thúc đẩy hoạt động quảng cáo phát triển và đáp ứng
yêu cầu quản lý đối với QCNT” [08, tr. 6].
1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với quảng cáo ngoài trời
Thứ nhất, chủ thể thực hiện QLNN đối với QCNT là các cơ quan thực hiện
quyền quản lý và mang quyền lực nhà nước.
Theo Điều 5 LQC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) thì Chính phủ
thống nhất quản lý hoạt động QCNT từ trung ương đến cơ sở. Ở Trung ương,
BVHTTDL chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về hoạt động
QCNT. Ngồi ra, Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm phối hợp với BVHTTDL thực hiện QLNN về hoạt động
QCNT. Ở địa phương, UBND các cấp thực hiện QLNN về hoạt động QCNT trong
phạm vi địa phương theo thẩm quyền. Trên cơ sở đó, các cơ quan chun mơn (Sở,
PhịnG) có chức năng tham mưu, giúp UBND cùng cấp thực hiện chức năng QLNN
về hoạt động quảng cáo nói chung và hoạt động QCNT nói riêng trên địa bàn.
Thứ hai, đối tượng QLNN về QCNT là cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động
QCNT, các cơng trình xây dựng quảng cáo và nội dung trên các sản phẩm quảng
cáo liên quan.
Nếu như đối tượng QLNN trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn là các chương
trình nghệ thuật, lực lượng ca sĩ diễn viên, các tổ chức, cá nhân tham gia trong hoạt
động nghệ thuật biểu diễn thì đối tượng QLNN đối với QCNT gồm: i. cá nhân, tổ
chức tham gia hoạt động QCNT; ii. các cơng trình xây dựng quảng cáo; iii. nội dung
trên các sản phẩm quảng cáo liên quan.
Hiện nay, pháp luật không chỉ điều chỉnh hành vi quảng cáo đơn lẻ của
người quảng cáo, mà điều chỉnh quan hệ xã hội hình thành từ hoạt động quảng cáo.
Để xem xét quan hệ này, nhà làm luật đã nhận diện những chủ thể tham gia hoạt
động quảng cáo, bao gồm: i. người quảng cáo, ii. người kinh doanh dịch vụ quảng
cáo, iii. người cho thuê phương tiện quảng cáo, iv. người phát hành quảng cáo và

14



người tiếp nhận quảng cáo. Cụ thể, người quảng cáo là tổ chức, cá nhân có yêu cầu
quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình hoặc bản thân tổ chức, cá nhân và
là người chịu trách nhiệm trước tiên về sản phẩm quảng cáo. Người kinh doanh dịch
vụ quảng cáo là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn
của q trình hoạt động quảng cáo nhằm mục đích sinh lời. Ngồi ra, người phát
hành quảng cáo là tổ chức, cá nhân dùng phương tiện quảng cáo thuộc trách nhiệm
của mình giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến công chúng và phải chịu trách nhiệm
cả về nội dung sản phẩm quảng cáo. Bên cạnh đó, người cho thuê phương tiện
quảng cáo là tổ chức, cá nhân thu lợi nhuận từ việc cho phát hành quảng cáo trên
phương tiện của mình. Cuối cùng, người tiếp nhận quảng cáo là người tiếp nhận
thông tin từ sản phẩm quảng cáo thông qua phương tiện quảng cáo.
Ba là, nội dung QLNN đối với QCNT là quá trình thực thi hoạt động chấp
hành - điều hành của các chủ thể QLNN. Trong các nội dung quản lý đối với QCNT
thì ban hành văn bản QPPL là quan trọng nhất. Việc ban hành ban hành văn bản
QPPL của các cơ quan QLNN có thẩm quyền nhằm kiểm tra quá trình tổ chức hoạt
động QCNT và cá nhân, tổ chức tham gia cơng tác QCNT, từ đó kịp thời phát hiện,
xử lý những vi phạm của cá nhân, tổ chức trong hoạt động QCNT. Ngoài ra, các cơ
quan quản lý có thẩm quyền cịn xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, kế
hoạch, chính sách phát triển hoạt động quảng cáo, quy hoạch QCNT; chỉ đạo hoạt
động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong hoạt động quảng cáo; chỉ
đạo, tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho hoạt động quảng
cáo. Thực hiện tốt những nội dung QLNN đối với QCNT nêu trên sẽ tạo điều kiện
thuận lợi, tạo cơ sở, nền tảng vững chắc để hoạt động QCNT đạt được kết quả,
khẳng định vai trò quan trọng trong QLNN của các cơ quan quản lý có thẩm quyền,
từ đó góp phần vào cơng tác giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; bảo
đảm mỹ quan đơ thị, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, của các tổ
chức và cá nhân tham gia trong hoạt động QCNT.
Thứ tư, QLNN đối với QCNT được bảo đảm bằng nguồn nhân lực, vật lực

dồi dào.

15


QLNN đối với QCNT là một bộ phận trong hệ thống các lĩnh vực do các cơ
quan quản lý có thẩm quyền thực hiện. Theo yêu cầu của pháp luật thì QCNT phải
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động quảng cáo,
đồng thời tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân phát triển các loại hình quảng cáo, nâng
cao chất lượng quảng cáo. Do đó, QCNT phải bảo đảm khơng phương hại đến độc
lập, chủ quyền quốc gia, an ninh, quốc phòng, lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần
phong mỹ tục Việt Nam. Ngồi ra, QCNT khơng được làm ảnh hưởng đến mỹ quan
đơ thị, trật tự an tồn giao thơng, an tồn xã hội. Muốn như vậy thì các cơ quan
quản lý có thẩm quyền khi thực hiện QLNN đối với QCNT cần được bảo đảm bằng
nguồn nhân lực, vật lực có chất lượng.
1.1.3. Mục đích quản lý nhà nước đối với quảng cáo ngoài trời
QCNT là một phương tiện truyền thơng hiệu quả. Thơng thường, thói quen
mua sắm của khách hàng được ảnh hưởng rộng rãi bởi các phương tiện truyền thơng
ngồi trời. Hằng ngày, mỗi khách hàng rất nhiều lý do khác nhau để đi lại ngồi
đường (có thể lý do cá nhân hay lý do công việc) và họ có thể nhìn thấy một bảng
biển quảng cáo hay một pa-nơ, băng rơn quảng cáo, hình ảnh quảng cáo trên xe buýt
trong vòng 30 giây hoặc hơn thế. QCNT khơng phụ thuộc vào ý chí của người tiếp
nhận và mang tính truyền thơng đa phương tiện (như màn hình LCD, màn hình
LED) nên có giá trị cao trong việc kích thích tiêu thụ sản phẩm quảng cáo, từ đó
giúp tăng trưởng kinh tế trong ngành quảng cáo sau khi các nhà quảng cáo sử dụng
các phương tiện QCNT hiện đại [57, tr. 216]. Chính vì vậy, QCNT có mục đích
quan trọng trong việc truyền tải thơng tin về hàng hóa, dịch vụ và việc tiêu thụ
chúng. Với ý nghĩa này, quảng cáo mang hình thức của một chào hàng. Ngồi ra,
QCNT cịn nhằm đề cao giá trị hàng hóa, dịch vụ và các điều kiện nhằm tiêu thụ
hàng hóa, dịch vụ [18, tr. 14]. Để bảo đảm cho hoạt động QCNT được thực hiện

hiệu quả, đi vào nền nếp, đúng pháp luật thì khơng thể thiếu vai trị quản lý của các
cơ quan nhà nước.
Thời gian qua, mặc dù các doanh nghiệp đang gặp phải tình hình khó khăn
chung về kinh tế; Từ đầu năm 2020 đến nay, sự bùng phát của đại dịch Covid-19
ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng và tiếp tục có diễn biến phức tạp, khó lường; Tình

16


hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động nhanh chóng, phức
tạp [21, tr. 3]; Tuy nhiên, hoạt động quảng cáo nói chung và QCNT nói riêng đang
có những bước tiến mới khi các doanh nghiệp trong nước học hỏi kinh nghiệm
nước ngoài và tiếp thu khoa học kỹ thuật tiến bộ. Hoạt động quảng cáo cùng với
sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế thị trường trong xu thế hội nhập quốc tế
đã đánh dấu sự tiến bộ của ngành quảng cáo Việt Nam [37, tr. 15]. Bên cạnh
những lợi ích mà QCNT đem lại thì trong hoạt động này cũng phát sinh những tác
động tiêu cực cần được ngăn chặn. Vì mục đích lợi nhuận các doanh nghiệp đã
quảng cáo gian dối, gây phản cảm đến người tiêu dùng và ảnh hưởng đến môi
trường kinh doanh. Những bảng, biển quảng cáo hết thời hạn cấp phép, lỗi thời,
đặt không đúng nơi quy định là một trong những nhân tố gây mất mỹ quan đô thị.
Khi thị trường kinh doanh càng sôi động thì các doanh nghiệp càng cố gắng tạo ra
nhiều hình thức thúc đẩy kinh doanh hơn và tận dụng triệt để ưu thế của quảng cáo
thương mại và khuyến mại. Nói cách khác, các hoạt động quảng cáo thương mại ngày
càng phát triển với nhiều hình thức khác nhau kéo theo nhiều hệ quả nhất định. Chính
vì vậy, QLNN đối với QCNT được thực hiện nhằm nhằm mục đích hạn chế tình trạng
lợi dụng QCNT lừa đảo, quảng cáo vi phạm pháp luật quyền sở hữu trí tuệ, quảng cáo
các sản phẩm bị cấm…, làm ảnh hưởng quyền lợi người tiêu dùng [22, tr. 6].
Trong hoạt động kinh doanh thương mại, thương nhân luôn đặt yếu tố lợi
nhuận lên hàng đầu. Với những ưu thế về vốn, chuyên môn, họ có thể có nhiều cách
thức khác nhau để bảo vệ quyền lợi cho mình, trong khi đó người tiêu dùng thì khả

năng tự bảo vệ hạn chế hơn nhiều. Hơn nữa bản thân các hoạt động QCNT lại mang
tính chất mở, dễ bị lạm dụng để thực hiện các hành vi bất chính [32, tr. 27]. Do đó,
vai trị quản lý của các cơ quan nhà nước rất quan trọng. Mục đích QLNN đối với
QCNT là bảo đảm tính chính xác, tính khách quan và tính hiệu quả của hoạt động
QCNT. Khi hoạt động QCNT được tiến hành hiệu quả sẽ cung cấp được những
thơng tin chính xác, khách quan cho hoạt động mua sắm, xúc tiến thương mại.
Ngoài ra, QLNN đối với QCNT cịn có mục đích bảo đảm sự tuân thủ quy định của
pháp luật có liên quan của các cá nhân, tổ chức trực tiếp thực hiện hoạt động

17


QCNT, đồng thời cũng là sự thể hiện được vai trị quan trọng của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong lĩnh vực QLNN đối với QCNT.
1.2. Nguyên tắc, hình thức, nội dung, chủ thể và phương pháp quản lý
nhà nước đối với quảng cáo ngoài trời
1.2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với quảng cáo ngoài trời
Hoạt động QLNN đối với QCNT có nội dung đa dạng, có tính thống nhất và
liên hệ chặt chẽ với nhau. Hoạt động này có một số nguyên tắc sau:
Một là, QLNN đối với QCNT phải tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn
chuyên môn.
Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ các chủ thể QLNN khi thực hiện chức năng
QLNN đối với QCNT phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Nội dung của
nguyên tắc này được thực hiện dựa trên cơ sở nền tảng quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, Chính phủ là cơ quan
thống nhất QLNN đối với QCNT trên phạm vi toàn quốc. Ở địa phương, UBND
cấp tỉnh thực hiện việc QLNN đối với QCNT. Với vai trò là một chủ thể đặc biệt
của quyền lực nhà nước, các cơ quan hành chính phải tuân thủ pháp luật liên quan
đến QCNT. Ngoài ra, các cá nhân, tổ chức khi thực hiện hoạt động QCNT chỉ được

hoạt động, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khn khổ pháp luật. Khi
tiến hành hoạt động QCNT, cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động này cần sử dụng
kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để truyền tải
thơng tin khách quan, chính xác đến khách hàng.
Hai là, QLNN đối với QCNT phải tuân theo kế hoạch, chính sách phát triển
hoạt động quảng cáo, quy hoạch QCNT của từng địa phương.
Sự đa dạng về ngành nghề kinh doanh, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của
thương hiệu đến đời sống xã hội là mục tiêu mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải
hướng tới [33, tr. 69]. Chính vì vậy, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng trong
quá trình tiến hành hoạt động QCNT thì vấn đề quy hoạch quảng cáo ở các địa
phương rất được chú trọng.

18


Theo Khoản 2 Điều 4 LQC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) thì QCNT
phải tuân theo kế hoạch, chính sách phát triển hoạt động quảng cáo, quy hoạch
QCNT của từng địa phương. Do đó, QLNN đối với QCNT cũng phải tuân theo kế
hoạch, chính sách phát triển hoạt động quảng cáo, quy hoạch QCNT của từng địa
phương. Về nội dung, QLNN đối với QCNT nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt
động QCNT đi vào nền nếp, bảo đảm trật tự đơ thị và an tồn giao thơng [56, tr. 50].
Xuất phát từ thực trạng nhiều tỉnh, thành phố ở Việt Nam tồn tại nhiều bảng quảng
cáo treo khơng đúng nơi quy định, sai kích thước, vi phạm nội dung, hoặc biển quảng
cáo đã hết thời hạn quảng cáo nhưng không được tháo dỡ, ảnh hưởng đến an tồn
giao thơng đường bộ nên việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch QCNT góp phần chấn
chỉnh thực trạng trên. Ngồi ra, việc tuân thủ quy hoạch, kế hoạch QCNT của từng
địa phương sẽ góp phần lập lại trật tự cảnh quan đơ thị, khu cơng nghiệp, các trung
tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của các địa phương, các tuyến đường giao thông trọng
yếu trên địa bàn tỉnh, từng bước thúc đẩy hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan.
Ba là, QLNN đối với QCNT nhằm bảo đảm cho hoạt động QCNT diễn ra

khách quan, chính xác.
QLNN đối với QCNT là sự tác động có ý chí lên quá trình tổ chức và hoạt
động của cá nhân, tổ chức thực hiện và tham gia vào hoạt động QCNT, từ đó làm
cho q trình này diễn ra trong khn khổ của pháp luật và đạt mục đích định trước.
Cụ thể, QLNN đối với QCNT là góp phần bảo đảm sự khách quan, chính xác trong
việc truyền tải thơng tin quảng cáo. Do đó, QLNN đối với QCNT nhằm bảo đảm
cho hoạt động của cá nhân, tổ chức hiện hoạt động này đúng phạm vi quy định, cho
thơng tin chính xác, khách quan.
1.2.2. Hình thức quản lý nhà nước đối với quảng cáo ngoài trời
QLNN là hoạt động cụ thể của con người nên bao giờ cũng thể hiện ra bên
ngồi dưới những hình thức nhất định. Như vậy, hình thức QLNN là sự thể hiện ra
bên ngoài của những hoạt động quản lý cùng loại về nội dung, tính chất và phương
thức tác động của các chủ thể lên khách thể quản lý [69, tr. 367]. Nói cách khác,
hình thức QLNN là biểu hiện có tính chất tổ chức - pháp lý của những hoạt động cụ

19


thể cùng loại của chủ thể QLNN nhằm hoàn thành những nhiệm vụ đã đặt ra [28, tr.
461].
Quy phân tích trên, có thể hiểu, hình thức QLNN đối với QCNT là sự thể
hiện ra bên ngoài của những hoạt động quản lý cùng loại về nội dung, tính chất và
phương thức tác động của cơ quan QLNN lên các hoạt động liên quan đến QCNT.
Nội dung QLNN của chủ thể QLNN đối với đối với QCNT rất đa dạng nên hình
thức của chúng cũng rất phong phú.
Hình thức QLNN đối với QCNT quan trọng nhất là ban hành văn bản QPPL
điều chỉnh về hoạt động của QCNT. Đây còn gọi là hoạt động lập quy của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Ngồi ra, một hình thức QLNN đối với QCNT cũng
được sử dụng thường xuyên, đa dạng, phổ biến là ban hành văn bản áp dụng QPPL.
Nhìn chung, đây là hình thức hoạt động được tiến hành bởi rất nhiều chủ thể có

thẩm quyền. Nội dung của nó là áp dụng một hay nhiều QPPL vào một trường hợp
cụ thể, trong những trường hợp cụ thể liên quan đến quản lý đối với QCNT. Chính
vì vậy, việc ban hành văn bản áp dụng QPPL làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
những quan hệ pháp luật cụ thể liên quan đến QCNT. Đặc trưng của hình thức
QLNN ban hành văn bản QPPL cũng như ban hành văn bản áp dụng QPPL là tính
chất quyền lực và tính chất dưới luật. Đa phần đây là hoạt động mang tính tích cực
vì thơng qua các hình thức này, các quan hệ về quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia hoạt động QCNT được hiện thực hóa.
Ngồi ra, các cơ quan quản lý cịn thực hiện QLNN đối với QCNT thơng qua
hình thức thực hiện những hoạt động khác mang tính pháp lý. Đây là hình thức hoạt
động được tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được pháp luật quy
định nhưng không cần ban hành văn bản áp dụng QPPL.
Áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp: đây là hoạt động không thể thiếu
trong QLNN đối với QCNT. Hoạt động này rất quan trọng vì nó là khâu then chốt
trong việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho các cơ quan hành chính nhà nước.
Những hoạt động này thường mang tính nội bộ nhưng nhiều lúc nó vẫn được sử
dụng để tác động ra bên ngồi, tác động đến các tổ chức và cơng dân. Đó có thể là
hoạt động xây dựng quy hoạch, kế hoạch, triển khai công tác quản lý đối với

20


QCNT; phân công trách nhiệm và phối hợp giữa các đơn vị, cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội liên quan đến quản lý đối với QCNT.
Thực hiện những tác động về nghiệp vụ - kỹ thuật: đây là hoạt động sử dụng
kiến thức nghiệp vụ, áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật vào quá trình quản lý để
nâng cao hiệu quả, hiệu suất hoạt động của các cơ quan quản lý đối với QCNT.
1.2.3. Phương pháp quản lý nhà nước đối với quảng cáo ngoài trời
Những chức năng khác nhau của QLNN đối với đối với QCNT được thực
hiện thông qua những phương pháp cụ thể.

* Phương pháp thuyết phục: thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu
rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện những hành vi nhất định hoặc tránh thực hiện
những hành vi nhất định nhằm bảo đảm tuân thủ pháp luật về QCNT. Thông qua
phương pháp thuyết phục, các cơ quan quản lý giáo dục cho mọi cá nhân nhận thức
đúng đắn về hoạt động QCNT. Phương pháp thuyết phục được các cơ quan quản lý
giáo dục thực hiện khi QLNN đối với QCNT được thể hiện như: giải thích, nhắc
nhở, tổ chức, giáo dục, cung cấp thơng tin, tuyên truyền các quy định pháp luật liên
quan đến QCNT.
* Phương pháp cưỡng chế: là cách thức tác động mang tính chất bắt buộc, có
thể gây thiệt hại về vật chất, tinh thần hay các quyền, lợi ích khác của đối tượng
quản lý nhằm thực hiện các yêu cầu quản lý đặt ra. Trong QLNN của các cơ quan
quản lý đối với QCNT, phương pháp này được áp dụng nhằm xử lý các cá nhân, tổ
chức không tự nguyện tuân thủ và thực hiện các quy định pháp luật về QCNT. Như
vậy, phương pháp này đóng một vai trị quan trọng trong hoạt động của các cơ quan
quản lý đối với QCNT bởi nếu khơng có cưỡng chế thì các quy định pháp luật về
QCNT sẽ có thể bị xâm phạm.
* Phương pháp hành chính: là phương pháp quản lý bằng cách ra chỉ thị từ
trên xuống, nghĩa là những quyết định bắt buộc đối với đối tượng quản lý. Nhìn
chung, đây là phương pháp được các cơ quan quản lý sử dụng bằng cách ra mệnh
lệnh hành chính, chỉ đạo xuống đối tượng quản lý nhằm thực hiện các quy định về
QCNT.

21


* Phương pháp kinh tế: là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của
các đối tượng quản lý thơng qua việc sử dụng những địn bẩy kinh tế tác động đến
lợi ích của con người như tạo ra cơ chế tự chủ trong hoạt động QCNT.
1.3. Cơ quan quản lý nhà nước về quảng cáo ngoài trời
Theo quy định pháp luật, cơ quan QLNN về QCNT gồm có: Chính phủ,

BVHTTDL và bộ, cơ quan ngang bộ khác, UBND các cấp (Điều 5 LQC năm 2012
(sửa đổi, bổ sung năm 2018)).
Cụ thể, Chính phủ thống nhất QLNN về quảng cáo nói chung và về QCNT
nói riêng. BVHTTDL giúp Chính phủ thống nhất QLNN về quảng cáo. Trên cơ sở
sự ủy quyền lập pháp của Quốc hội, Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi
tiết nhiều vấn đề về QCNT [20, tr. 6]. Cụ thể, Khoản 4 Điều 11 LQC năm 2012
(sửa đổi, bổ sung năm 2018) ủy quyền cho Chính phủ quy định chi tiết về về
hành vi, hình thức và mức xử phạt VPHC trong hoạt động quảng cáo. Điều 37
LQC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) ủy quyền cho Chính phủ quy định
cụ thể về hồ sơ, quy trình xây dựng, phê duyệt, thực hiện và điều chỉnh quy
hoạch quảng cáo; quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LQC
về nội dung quảng cáo đối với một số loại hàng hóa, dịch vụ đặc biệt, quảng cáo
trên trang thơng tin điện tử của tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ
quảng cáo xuyên biên giới có phát sinh doanh thu quảng cáo tại Việt Nam; quy
định về văn phòng đại diện của doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài tại Việt
Nam và QLNN về quảng cáo.
Trong phạm vi thẩm quyền của mình, BVHTTDL chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện chức năng QLNN về QCNT trong phạm vi cả nước.
BVHTTDL có nhiệm vụ, quyền hạn như: i. xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền
ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền cơ chế, chính sách, pháp luật về hoạt động
quảng cáo; ii. hướng dẫn, đôn đốc công tác xây dựng quy hoạch QCNT tại địa
phương; iii. thành lập Hội đồng thẩm định và tổ chức thẩm định sản phẩm quảng
cáo; iv. tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, quản lý trong
hoạt động quảng cáo; v. thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm về quảng
cáo theo quy định của pháp luật; vi. hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quảng cáo; vii.

22



×