Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Vai trò của mặt trận tổ quốc việt nam trong bầu cử từ thực hiện quận 1, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.64 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN THỊ XUÂN

VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG BẦU CỬ TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN THỊ XUÂN

VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG BẦU CỬ TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. CHU VĂN THÀNH



Hà Nội, năm 2021



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (nay được đổi là Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam) do Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và lãnh đạo, được thành lập ngày 18/11/1930 đến nay đã trải qua hơn 90
năm hình thành và phát triển gắn với thăng trầm lịch sử của Việt Nam. Trải
qua các thời kỳ cách mạng với những tên gọi khác nhau, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) đã không ngừng trưởng thành và lớn
mạnh, có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc và cùng
Đảng, Nhà nước hợp thành những trụ cột cơ bản trong hệ thống chính trị
nước ta. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách
mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc cũng như trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay, tổ chức và hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là phương thức độc đáo của cách mạng nước ta để
tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng trong xã hội phục vụ các nhiệm vụ, mục
tiêu của cách mạng, đã và đang góp phần to lớn vào chiến thắng chung của
dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay, khi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã
thực hiện xong, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước,
với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hố - xã hội chuyển sang ở tầm
mức, u cầu cao hơn thì vai trị, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
lại càng cao hơn, mới hơn. Đó là tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc để tạo thành lực lượng thống nhất xây dựng, phát triển và bảo
vệ đất nước, chống mọi âm mưu chống phá của kẻ thù góp phần xây dựng
thành cơng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cịn có chức năng giám sát và phản biện xã hội đối với

Đảng và Nhà nước, góp phần làm hạn chế những nhược điểm do chế độ một
đảng đem lại, làm mạnh tổ chức Đảng và Nhà nước. Do vậy, thực tiễn và lý

1


luận đều khẳng định vai trị đó vẫn cịn có ý nghĩa hết sức cần thiết trong đời
sống chính trị, kinh tế, văn hố – xã hội, nó gắn liền với nền dân chủ ngày
càng phát triển, với nền kinh tế nhiều thành phần, với nền văn hoá phát huy
những giá trị nhân văn cao quý của dân tộc và nhân loại. Chính vì vậy, Đảng
và Nhà nước ta đã xác định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, đoàn
thể nhân dân ở nước ta bao gồm rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp tạo thành
cơ sở chính trị, chỗ dựa vững chắc của Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 cũng
đã quy định rất rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hiến định này cho
thấy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận khơng thể thiếu trong hệ
thống chính trị nước ta.
Bầu cử là thể hiện tiếng nói của người dân đối với đất nước của mình
và ở Việt Nam hoạt động bầu cử được thể hiện qua việc cử tri đưa ra quyết
định của họ đối với các cuộc bầu cử theo các cách thức mà pháp luật Việt
Nam quy định, qua đó chọn ra các đại biểu phù hợp đại diện cho tiếng nói,
quan điểm của mình nắm giữ các chức vụ trong cơ quan dân cử của chính
quyền ở trung ương và địa phương trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam.
Bầu cử là một ngày hội của đất nước, hoạt động thể hiện sự quan tâm của
người dân với quá trình phát triển của đất nước nên thu hút sự tham gia đông
đảo của cử tri đại diện cho các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, giới tính khác
nhau tham gia vào q trình này… Bởi vậy, để đạt được kết quả, các cuộc
bầu cử các cấp tại Việt Nam phải được tiến hành có tổ chức, khoa học, theo
những tình tự chặt chẽ nhất định mà pháp luật quy định. Những cơng việc đó
được một tổ chức chính trị đảm trách đó chính là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.

Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh là quận trung tâm, có q trình đơ thị
hóa diễn ra nhanh và mạnh, được chính quyền thành phố chú trọng phát
triển. Tham gia vào hoạt động bầu cử của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận

2


1 được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, thể hiện
rõ quyền và trách nhiệm tham gia, góp phần bảo đảm để cuộc bầu cử tiến
hành được dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật qua đó góp phần lựa chọn ra
được những người ưu tú tham gia vào Hội đồng nhân dân các cấp và Quốc
hội ở Trung ương. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua việc thực hiện vai trò
của Mặt trận Tổ quốc trong cơng tác bầu cử vẫn cịn nhiều hạn chế trong quá
trình phối hợp tổ chức thực hiện cũng như thể hiện vị trí, vai trị của một tổ
chức chính trị, xã hội đại diện cho người dân. Từ những lý do trên, tơi chọn
vấn đề “Vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử từ thực hiện
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên
ngành Luật Hiến pháp và Hành chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về hoạt động bầu cử nói chung, vai trị của Mặt trận Tổ
quốc trong hệ thống chính trị cũng như trong hoạt động bầu cử nhận được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cụ thể:
Luận án Tiến sỹ Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay của Nguyễn Thị Hiền
Oanh, 2005 đã nhấn mạnh đến vai trò làm chủ của nhân dân thơng qua các tổ
chức chính trị - xã hội, những tổ chức đại diện cho lợi ích của các tầng lớp
nhân dân lao động. Mặc dù, kết quả nghiên cứu của luận án khơng thể hiện
rõ về vai trị bầu cử của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng đã làm rõ được
chức năng phản biện xã hội nhưng đã bước đầu, đề cập đến vấn đề quyền
làm chủ của nhân dân như là một yếu tố cấu thành phương thức thực thi

quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [28].
Luận án Tiến sỹ năm 2008, Nguyễn Thị Lan lựa chọn vấn đề Mặt
trận Tổ quốc với việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay để

3


bàn luận và làm rõ hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc
xây dựng sự đồng thuận trong xã hội [24].
Luận văn Thạc sỹ năm 2017 của Vũ Thị Thu Hà với tựa đề Vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia quản lý nhà nước ở nước ta hiện
nay đã đề cập, làm rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng Nhà
nước với các hoạt động cụ thể như : Tham gia xây dựng pháp luật, tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và vận động nhân dân thực hiện pháp
luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực hiện giám sát, phản biện xã
hội [20]..
Với giới hạn nghiên cứu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
thành phố Đà Nẵng, tác giả Đỗ Thành Nhân đã chọn tên đề tài cho Luận văn
Thạc sỹ năm 2013 Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Đà
Nẵng trong việc thực hiện Pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Những cố gắng của tác giả đã khẳng định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, cụ thể là ở cấp xã, phường,
thị trấn ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua được thể hiện ở những mặt thành
tựu cũng như những hạn chế nhất định. Tác giả cũng đề xuất những giải
pháp đặc trưng trong điều kiện tình hình chính trị, xã hội thành phố Đà Nẵng
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
thời gian tới [25].
Ngồi ra, trên các tạp chí khoa học, các tác giả cũng dành nhiều tâm
huyết, chuyên môn để nghiên cứu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tham gia xây dựng chính quyền nhân dân, xây dựng phong trào nông thôn

mới… Tác giả xin liệt kê các bài viết tiêu biểu như: Mặt trận với việc bảo
tồn và phát triển làng nghề góp phần tăng cường đồn kết xây dựng nơng
thơn mới, Vũ Quốc Tuấn, Tạp chí Mặt trận số 77. Hội nông dân Việt Nam

4


phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuyên truyền, vận động chấp hành
pháp luật trong cộng đồng dân cư nơng thơn, Nguyễn Thị Vân Anh, Tạp chí
Mặt trận số 77 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với phong trào thi đua “cả nước
chung sức xây dựng nông thôn mới”, Vũ Trọng Kim, Tạp chí Mặt trận số
93. Bài viết đăng tạp chí với tên đề tài: Mặt trận các cấp ở Hà Tĩnh với việc
xây dựng nông thôn mới, Bùi Nhân Sâm và Lê Thanh Nghị (2016), Tạp chí
Mặt trận số 105. Vai trị của Mặt trận Tổ quốc trong việc tham gia xây dựng
nông thôn mới ở Thái Bình, Nguyễn Hồng Chương, Tạp chí Mặt trận số 107.
Vai trị Mặt trận và các đồn thể trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Vũ
Quang, Bùi Nhân Sâm và Lê Thanh Nghị, Tạp chí Mặt trận số 109.
Có thể nói, những cơng trình nghiên cứu trên đã trình bày một cách hệ
thống các vấn đề đặt ra những vấn đề rất cơ bản cả về lý luận lẫn thực tiễn,
đề ra những phương hướng và giải pháp để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta nói chung và hoạt động bầu
cử nói riêng. Các cơng trình này đã góp phần làm rõ vai trị, chức năng,
nhiệm vụ, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
từng giai đoạn cách mạng.
Từ các tổng hợp và phân tích trên cho thấy khoảng trống trong các
cơng trình nghiên cứu tập trung ở sự thiếu vắng một nghiên cứu có tính hệ
thống và chun sâu, tồn diện về vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam gắn với những vấn đề thực tiễn của trong hoạt động bầu cử ở cấp
quận, huyện hiện nay. Trên tinh thần học hỏi, kế thừa phương pháp nghiên
cứu, tham khảo kết quả thực nghiệm từ các nghiên cứu trước, tác giả luận

văn mong muốn những nội dung của đề tài này sẽ đánh giá khách quan thực
trạng và đề xuất những giải pháp mang tính khả thi góp phần nâng cao vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử từ thực tiễn Quận 1,
TPHCM hiện nay.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam trong trong bầu cử, luận văn làm rõ thực trạng và đề xuất
một số quan điểm chỉ đạo của cấp ủy Đảng và giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở quận 1 trong hoạt động bầu cử
thời gian tới, góp phần làm rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cấp
địa phương hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử;
- Đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh trong hoạt động bầu cử;
- Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh trong hoạt động bầu cử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc thực hiện vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh trong hoạt động bầu cử.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2016 đến năm 2020
Địa bàn nghiên cứu: Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

6


Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin;
tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ trương, chương trình hành động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc, về xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đặc biệt, Luận văn nhấn mạnh
sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu và làm rõ được các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra
đối với quá trình nghiên cứu của Luận văn, việc nghiên cứu đề tài được tiến
hành dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng (khoa
học Mác-xít), duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu khoa học của
luật học, các nghiên cứu khoa học cụ thể như phân tích - tổng hợp, logic lịch sử, đánh giá và so sánh.
Bên cạnh đó, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học gắn với chun ngành như mơ hình hóa, khảo sát, phân tích, tổng hợp
dựa vào thơng số từ nghiên cứu thực tiễn ở cơ sở, địa bàn để xây dựng
những luận cứ khoa học nhằm đánh giá khách quan thực trạng và đề xuất
những giải pháp có cơ sở khoa học, sát với thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm rõ vai trị, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
hệ thống chính trị ở địa phương (cấp quận, huyện) trên cơ sở quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam.

7


Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc phát triển, hoàn
thiện các căn cứ khoa học và thực tiễn để hoạch định đường lối, chủ trương
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong hệ thống chính trị (HTCT) nói chung, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam ở cấp quận, huyện nói riêng trong cơng tác bầu cử, góp phần xây dựng
khối đại đồn kết tồn dân tộc vững mạnh và Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ
sở khoa học giúp các tổ chức, cán bộ trong HTCT ở quận 1 nghiên cứu, vận
dụng vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử.
Đồng thời đây cũng là tài liệu để tham khảo phục vụ cho việc hoạch
định chính sách, chỉ đạo hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở các địa
phương. Luận văn này có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng
dạy, nghiên cứu ở trường Đảng, trường Luật, trường Hành chính. Những kết
quả nghiên cứu của Luận văn cũng có thể là những hướng gợi mở phục vụ
các cuộc trao đổi, thảo luận theo chủ đề hoặc đề xuất các hướng nghiên cứu
khác sâu hơn của các tác giả có quan tâm đến chủ đề nghiên cứu này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 03 Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong hoạt động bầu cử


8


Chương 2. Thực trạng thực hiện vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh trong hoạt động bầu cử;
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao thực hiện vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh trong hoạt
động bầu cử.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TRONG HOẠT ĐỘNG BẦU CỬ
1.1. Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị

1.1.1. Vị trí, vai trò và mối quan hệ của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống
chính trị
1.1.1.1. Vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị
* Vị trị của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính
trị của nước ta hiện nay, giữ vị trí khó có thể tách rời khỏi hệ thống chính trị,
huy động sức mạnh đồn kết của dân tộc, của mọi tầng lớp nhân dân trong
quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm và trong quá trình xây dựng đất
nước phát triển như hiện nay. Vị trí của Mặt trận Tổ quốc đã được hiến định
trong Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ và đặc biệt là trong Hiến pháp
năm 2013 [37].
Luật MTTQ Việt Nam số 75/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 9/6/2015 khẳng định tại Điều

12. Nguyên tắc thực hiện các nhiệm vụ trong việc tập hợp, huy động, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc các cấp với mọi tầng lớp nhân dân được
cụ thể hóa như sau: MTTQ Việt Nam phát triển đa dạng, phong phú các hình
thức tổ chức, mơ hình hoạt động để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở
trong nước và ở nước ngồi, khơng phân biệt thành phần giai cấp, tầng lớp
xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, quá khứ nhằm động viên mọi nguồn
lực góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi hoàn cảnh của đất nước
từ chống giặc ngoại xâm, xây dựng, phát triển đất nước...

10


Như vậy, vị trí của MTTQ Việt Nam do chính nhân dân, chính lịch sử
cách mạng Việt Nam thừa nhận và được hiến định trong Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam.
* Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Một trong những vai trò đặc trưng nhất của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là có vai trị rất quan trọng và bao trùm trong hệ thống chính trị của
nước ta trong việc tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, toàn quân phát huy
quyền làm chủ nhân dân trong quyền và nghĩa vụ đã được quy định trong
pháp luật thông qua thực hiện việc hiệp thương và phối hợp thống nhất hành
động giữa các thành viên của Mặt trận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
phát triển Tổ quốc, đẩy mạnh các hoạt động cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
hướng đến các giai đoạn phát triển của đất nước [17].
Khác với các tổ chức khác, vai trị của Mặt trận khơng phải bản thân
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khẳng định mà do chính nhân dân ta, chính lịch
sử q trình đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước thừa nhận. Những
kết quả thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám 1945 của đất nước
ta gắn liền với sự nghiệp của Mặt trận Việt Minh và có đóng góp rất lớn của

Mặt trận Tổ quốc. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự
nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế đồng minh
(1930-1936) và của Mặt trân Dân chủ Đông Dương (1936-1939)… Thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại lâu dài các giai cấp tầng
lớp, các dân tộc, các tôn giáo. Nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp ra đời.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn lịch sử khó khăn của dân tộc ta trước những
vận mệnh đổi mới hay tụt hậu thì Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ
vai trò của tổ chức quan trọng này: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn

11


thể nhân dân có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân
tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...” [21]. Do đó, trước những vận mệnh mới
của đất nước để tiếp tục nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội nước ta là một yêu cầu tất yếu
khách quan, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước trong chiến lược phát triển đất nước gia đoạn tới [37].
1.1.1.2. Mối quan hệ của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị
Thứ nhất, mối quan hệ đặc biệt giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có một đặc điểm đáng chú ý, cụ thể như sau:
Đặc thù đầu tiên là Đảng vừa là thành viên của Mặt trận, vừa là người
lãnh đạo, chỉ đạo và đưa các định hướng phát triển của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Với vai trò là một thành viên đặc thù, Đảng Cộng sản Việt Nam
tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi thành viên khác của
Mặt trận tổ quốc như Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh và các tôn giáo.... Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn
các tổ chức thành viên của Mặt trận và thông qua đại diện của cấp uỷ Đảng

tham gia Ủy ban Mặt trận cùng cấp. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng các cấp
đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là vấn đề có tính ngun tắc, đảm bảo
cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở rộng trong quá trình phát
triển của mình [42].
Thứ hai, mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính
quyền các cấp
Cũng giống như mối quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam thì quan
hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền là quan hệ hợp tác bình

12


đẳng, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ chung mà Đảng
và Nhà nước giao phó. Để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm tròn trách nhiệm
lịch sử của mình là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, sự phối hợp
giữa Mặt trận với Nhà nước (thơng qua chính quyền các cấp) phải như nghị
quyết đại hội VIII của Đảng ta đã khẳng định, định hướng phát triển như:
“Thực hiện thành nền nếp việc đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham
khảo ý kiến của Mặt trận về những quyết định chủ trương lớn” ngày một
chặt chẽ và cụ thể hơn [23].
1.1.2. Tổ chức, chức năng, nhiệm vụ; nguyên tắc hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc trong hệ thống chính trị
1.1.2.1. Tổ chức của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013 với sự đa dạng, bao trùm
của các thành viên ở mọi tầng lớp, lĩnh vực, trong nước và ngoài nước như
sau: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ thức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tơn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngồi. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở

chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát,
phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại
nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [37]. Theo Điều 6, Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam 2015 thì tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cụ
thể [38]:

13


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức ở trung ương và các đơn vị
hành chính, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan chấp hành giữa
hai kỳ đại hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có trách nhiệm tổ chức thực
hiện nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Về sắp xếp tổ chức của các
Cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức cụ thể như sau:
- Ở cấp trung ương MTTQ Việt Nam được cơ cấu có Ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Chủ tịch của Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các bộ phận giúp việc cho Ủy ban MTTQ;
- Ở cấp địa phương MTTQ Việt Nam cũng có cấu trúc tương tự
khơng có sự thay đổi nhiều, cụ thể bao gồm Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh); Tiếp đến là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc cấp tỉnh và đơn vị hành chính tương đương (sau đây gọi
chung là cấp huyện); Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị
trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); Đối với các thôn, xóm, tổ dân phố…
thì có các ban cơng tác mặt trận. Ở mỗi cấp của Ủy ban MTTQ Việt Nam
thì có bộ phân giúp việc hỗ trợ gồm có Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, và theo quy định thì tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn các

cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam quy định.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị
* Chức năng
Thứ nhất, chức năng ghi nhận và phản ánh các yêu cầu, nguyện vọng
và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của quần chúng nhân dân của MTTQ Việt
Nam các cấp: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình ảnh phản chiếu của khối

14


đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của
MTTQ Việt Nam qua các thời kỳ.
Thứ hai, chức năng tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, tổ chức kết
nối với nhân dân thực hiện nghiêm các đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
thông qua các tổ chức thành viên và các cuộc vận động, các phong trào cách
mạng mang tính toàn dân để tập hợp và đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân thực
hiện trên các lĩnh vực [38].
Thứ ba, chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với các cơ quan, cán
bộ Nhà nước và HTCT: Giám sát và phản biện xã hội việc xây dựng và thực
hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước là một chức năng rất cơ
bản, là một nhiệm vụ rất quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
* Nhiệm vụ
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ lịch sử mà Đảng và Nhà
nước giao phó là thực hiện việc tập hợp, huy động và xây dựng, bảo vệ,
phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí, quyết tâm về
chính trị và tinh thần chiến đấu, bảo vệ và phát triển đất nước trong nhân
dân; thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường

lối, quy định của pháp luật, thực hiện việc động viên nhân dân phát huy
quyền làm chủ, nghiêm chỉnh tìm hiểu và thi hành các hiến định trong Hiến
pháp và quy định của pháp luật, sự giám sát hoạt động của cơ quan Nhà
nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước theo đúng tinh thần
của MTTQ; Bên cạnh đó, MTTQ Việt Nam thực hiện nhiệm vụ tập hợp
những ý kiến, kiến nghị trong mọi lĩnh vực, thuộc mọi tầng lớp của nhân
dân để tổng hợp, tìm hiểu, nghiên cứu và phản ánh, kiến nghị với Đảng và

15


Nhà nước; tham gia vào quá trình xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân ở các cấp từ Trung ương đến địa phương; cùng Nhà nước, chính quyền
các cấp thực hiện việc chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt
Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới theo tinh thần
ngoại giao của Việt Nam [38]
1.1.2.3. Nguyên tắc hoạt động của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện hành và Điều lệ Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hiện hành đã quy định: Tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hiện nay được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp
thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Đây được xem là
nguyên tắc cơ bản nhất trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở mỗi cấp là cơ quan chấp
hành của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, do Đại hội đại biểu Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp đó hiệp thương cử ra, có trách nhiệm tổ chức phối
hợp và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên để thực hiện nhiệm
vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Khi phối hợp và thống nhất hành động
của mình, các thành viên như Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn Thanh niên
Việt Nam… của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam đã được phê duyệt và ban hành; đồng thời vẫn giữ tính độc
lập của tổ chức mình nhằm bảo đảm tính phản biện, giám sát và góp ý của
MTTQ với các hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị [38].

1.1.3. Tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc cấp quận,
huyện
1.1.3.1. Tổ chức của Mặt trận Tổ quốc cấp quận, huyện

16


Tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên trách của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp quận, huyện thực hiện theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, điều lệ của các tổ chức, bảo đảm tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ,
không chồng chéo, trùng lặp. Không nhất thiết tổ chức của cơ quan chuyên
trách cấp huyện cũng phải giống như cấp Trung ương. Mơ hình và quy mơ
tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ
của từng tổ chức và quy mô từng địa phương; không nhất thiết các địa
phương phải giống nhau...
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp quận, huyện bao gồm: UBMTTQ Việt
Nam quận, huyện; Các bộ phận giúp việc; UBMTTQ các xã, phường; các
Ban công tác mặt trận tại các thơn, xóm, khu dân cư.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc cấp quận, huyện
* Chức năng:
Tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp quận, huyện
được thực hiện dựa trên nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối
hợp và thống nhất hành động của các thành viên của Mặt trận Tổ quốc.
Khi phối hợp và thống nhất hành động của mình, các thành viên như
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đồn Thanh niên Việt Nam… của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được phê

duyệt và ban hành; đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình nhằm
bảo đảm tính phản biện, giám sát và góp ý của MTTQ với các hoạt động của
các tổ chức trong hệ thống chính trị.
* Nhiệm vụ và quyền hạn:
- Thực hiện việc thảo luận về tình hình và kết quả thực hiện các
chương trình phối hợp và thống nhất một số hành động thời gian qua; quyết

17


định các chương trình phối hợp và thống nhất hành động của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp mình thời gian tới;
- Quyết định kế hoạch chuẩn bị Đại hội đại biểu cấp mình theo hướng
dẫn của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp;
- Góp ý kiến, kiến nghị với cấp uỷ Đảng, chính quyền cùng cấp và cấp
trên về những chủ trương, chính sách, pháp luật…
- Hiệp thương dân chủ cử Ban Thường trực giúp việc cho MTTQ
trong triển khai các nhiệm vụ; cử, cử bổ sung, thay thế hoặc cho thôi các
chức danh của UBNMTTQ như Chủ tịch, các Phó chủ tịch, các Uỷ viên
Thường trực, Uỷ viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
- Xét, quyết định kết nạp các tổ chức, cá nhâm làm thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp mình quản lý;
- Bên cạnh đó, UBMTTQ cịn thực hiện việc ra lời kêu gọi nhân dân
địa phương hưởng ứng chủ trương của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đối với sự kiện quan trọng khi cần thiết.
1.2. Hoạt động bầu cử và vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong hoạt động
bầu cử
1.2.1. Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
Bầu cử là việc lựa chọn người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà
nước được thực hiện bởi người dân thông qua con đường bỏ phiếu tập thể.

Khác với bầu và bổ nhiệm, bầu cử là việc chọn lựa người nắm giữ chức vụ
trong bộ máy nhà nước được thực hiện bởi người dân thông qua con đường
bỏ phiếu tập thể. Người được người dân lựa chọn sẽ là người nắm giữ và
thực thi quyền lực nhà nước. Sự khác biệt ở đây là hết sức cơ bản và nó nằm
ở chủ thể thực hiện việc lựa chọn.

18


Quyền bầu cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân
thực hiện quyền lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực
của nhà nước. Quyền ứng cử là quy định của pháp luật về việc cơng dân có
đủ điều kiện thể hiện nguyện vọng của mình được được ứng cử đại biểu
Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Trên cơ sở quyền ứng cử và
bầu cử, cơ quan, tổ chức, đơn vị đối chiếu với các tiêu chuẩn, xem xét, giới
thiệu người của tổ chức mình ứng cử sau khi lấy ý kiến nhận xét của cử tri
tại hội nghị cử tri tại cơ quan, tổ chức, đơn vị trên cơ sở phân bổ cơ cấu,
thành phần số lượng của đơn vị chức năng. Cơng dân có thể ứng cứ đại biểu
Quốc hội, Hội đồng nhân dân nếu có đủ điều kiện ứng cử theo quy định và
xét thấy mình có đủ tiêu chuẩn, trình độ, năng lực có nguyện vọng ứng cử
thì nộp hồ sơ ứng cử.
1.2.2. Cơ sở pháp lý cho vai trò của Mặt trận tổ quốc trong bầu cử
Mục tiêu chung trong giai đoạn đến năm 2030 của đất nước ta là nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố,
tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc,
phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh
thời đại; đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố,
hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường

hịa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Luật Tổ chức Quốc hội quy định: Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội dựa vào sự tham gia của Mặt trận

19


Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khác và của
công dân.
- Luật Tổ chức Chính phủ quy định Chính phủ phối hợp với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể nhân dân tham gia xây dựng chính quyền nhân dân, tổ chức thực
hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ
quan Nhà nước, đại biểu dân cử và các bộ, viên chức Nhà nước.
- Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận chăm lo và bảo vệ lợi
ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào việc quản lý Nhà nước và
thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan
Nhà nước Hội đồng nhân dân và đại biểu dân cử. Trong q trình giám sát
Mặt trận có quyền đề nghị Hội đồng nhân dân bãi nhiệm các đại biểu khơng
cịn xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân ...
- Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội; tham gia
các tổ chức phụ trách bầu cử, giám sát việc bầu cử.
- Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam ở địa phương tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân, tham gia phụ trách bầu cử, giám sát việc bầu
cử... Trên đây là một số những văn bản luật quy định cụ thể về mối quan hệ
vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động bầu cử. Ngoài
ra, trên cơ sở Hiến định và các quy định của luật pháp hiện hành, thì tổ chức

20


Đảng và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Namn đều có quy
định về mối quan hệ với Mặt trận trong Điều lệ của tổ chức mình nhằm tăng
cường sự hoạt động của các tổ chức này. Vai trò, trách nhiệm của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam các cấp trong bầu cử được quy định tại Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 (sau đây gọi tắt là
Luật Bầu cử), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và được cụ thể hóa trong các
văn bản pháp luật, hướng dẫn thi hành luật liên quan. Đây được xác định là
một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội thể hiện "là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã
hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước”. Luật Bầu cử có 98 điều thì có 40
điều quy định về vai trị, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia
công tác bầu cử. Theo đó, nội dung cơng tác của Mặt trận Tổ quốc các cấp
trong bầu cử bao gồm 6 nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối
hợp cùng với cơ quan nhà nước thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử và cử
đại diện Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia các
tổ chức phụ trách bầu cử cùng cấp.
Hai là, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam chủ trì tổ chức hiệp thương, lựa chọn giới thiệu những người ứng
cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Ba là, Ban Thường trực của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
được giao nhiệm vụ chủ trì phối hợp với chính quyền cùng cấp ở xã,
phường, thị trấn (cấp xã) tổ chức hội nghị cử tri ở nơi cư trú, để lấy ý kiến

21


nhận xét và sự tín nhiệm của cử tri trước khi tổ chức hội nghị hiệp thương
lần thứ ba lựa chọn, lập danh sách chính thức giới thiệu người ứng cử lên
các cấp tiếp theo theo quy định của pháp luật bầu cử và pháp luật về Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
Bốn là, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì
tổ chức các hội nghị cử tri để ứng cử viên gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri, thực
hiện quyền vận động bầu cử.
Năm là, tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện quyền bầu
cử, tự mình đi bỏ phiếu trong ngày bầu cử.
Sáu là, thực hiện quyền giám sát việc bầu cử thông qua việc cử đại
diện của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia các đoàn giám sát của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc tự mình tổ chức các
đồn giám sát thực hiện các cơng việc bầu cử.
1.2.3. Nội dung vai trị của Mặt trận tổ quốc trong bầu cử
Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân là một vấn đề cơ bản nhất
được quy định tại Hiến pháp. Quyền lực đó phải có các hình thức và biện
pháp nhất định để thực hiện, trong đó phương pháp bầu cử trở thành một
trong những hình thức thực hiện quyền tự do, dân chủ, một trong những biểu
hiện quyền con người trong lĩnh vực chính trị - quyền tự do dân chủ. Bầu cử
trở thành một chế độ bầu cử, một hình thức hoạt động quan trọng của xã hội
dân chủ, một phương pháp phổ biến nhất hiện nay để nhân dân thực hiện

quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Ngoài việc bỏ phiếu để bầu ra
những người đại diện thay mặt mình trong các cơ quan quyền lực Nhà nước,
bầu cử còn là một trong những biện pháp kiểm tra, giám sát Nhà nước và
làm cho quyền lực Nhà nước ln có xu hướng thuộc về nhân dân. Một chế
độ dân chủ chỉ có thể có khi và chỉ khi có được các cuộc bầu cử phổ thông,

22


×