Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.3 KB, 92 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

DƯ THỊ THANH SANG

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG
CỦA LẠM PHÁT ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

DƯ THỊ THANH SANG

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG
CỦA LẠM PHÁT ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2013

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN LƯƠNG
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2015


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Nghiên cứu tác động của lạm phát đến tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2013” là cơng trình nghiên cứu của tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Văn Lương. Các nội dung và kết quả trong
nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố. Số liệu trong mơ hình phân tích
được tác giả thu thập, xử lý và có ghi rõ nguồn gốc. Ngồi ra, trong luận văn còn sử
dụng một số nội dung tham khảo từ các nghiên cứu trước đây có ghi rõ trong danh
mục tài liệu tham khảo và phần trích dẫn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 5 năm 2015
Học viên thực hiện

Dư Thị Thanh Sang


4

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục bảng biểu, hình
TĨM TẮT
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ................................................................................. 2
1.1 Vấn đề nghiên cứu............................................................................................ 2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................... 3
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................. 3
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 3
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 3
1.4 Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 3
1.5 Bố cục luận văn ............................................................................................... 4
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
ĐÂY ....................................................................................................................... 5
2.1 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế và lạm phát ....................................................... 5
2.1.1 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế .......................................................... 5
2.1.2 Lý thuyết về lạm phát ........................................................................... 9
2.1.3 Lý thuyết về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát .............. 12
2.2 Tổng quan các nghiên cứu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trước đây ..... 16
2.2.1 Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế .... 16
2.2.2 Nghiên cứu về ngưỡng lạm phát ........................................................ 20
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ..................... 27
3.1 Mơ hình và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 27
3.1.1 Mơ hình nghiên cứu............................................................................ 27
3.1.2 Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 31
3.2 Dữ liệu nghiên cứu ......................................................................................... 37


5

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......................................................... 39
4.1 Thực trạng về tăng trưởng kinh tế và lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986-2013

....................................................................................................................... 39
4.1.1 Thực trạng tăng trưởng kinh tế .......................................................... 39
4.1.2 Thực trạng lạm phát............................................................................ 41
4.1.3 Một số chính sách thực hiện liên quan đến lạm phát và tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam giai đoạn 1986-2013 ........................................................... 44
4.2 Kết quả nghiên cứu ....................................................................................... 48
4.2.1 Kiểm định nghiệm đơn vị các biến sử dụng trong mơ hình .............. 48
4.2.2 Ước lượng mơ hình tăng trưởng kinh tế ............................................. 50
4.2.3 Phân tích ngưỡng lạm phát ................................................................. 58
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................... 63
5.1 Kết luận ......................................................................................................... 63
5.2 Một số gợi ý chính sách ................................................................................ 64
5.2.1 Gợi ý chính sách nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định tăng trưởng ....... 64
5.2.2 Gợi ý chính sách tăng trưởng kinh tế ................................................. 65
5.3 Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................... 66
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


6

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. ADF (Augmented Dickey và Fuller): Kiểm định nghiệm đơn vị ADF
2. BG: Kiểm định Breusch-Godfrey
3. CPI (Consumer Price Index): Chỉ số giá tiêu dùng
4. DW (Durbin Watson): Kiểm định Durbin Watson
5. GDP (Gross Domestic Products): Tổng sản phẩm trong nước
6. GSO: Số liệu từ tổng cục thống kê Việt Nam
7. NHTW: Ngân hàng trung ương

8. OLS (Ordinary least square): Phương pháp bình phương bé nhất
9. US (USD): Đô la Mỹ
10. VNĐ: Việt Nam đồng
11. WB: Số liệu từ WorldBank


7

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tóm tắt một số nghiên cứu thực nghiệm về quan hệ giữa lạm phát
và tăng trưởng kinh tế ......................................................................... 23
Bảng 3.1: Tóm tắt các biến sử dụng trong mơ hình nghiên cứu ......................... 30
Bảng 3.2: Quy tắc ra quyết định sử dụng trong kiểm định thống kê d ................ 35
Bảng 4.1: Tổng hợp kết quả kiểm định nghiệm đơn vị theo phương pháp kiểm
định ADF ........................................................................................... 49
Bảng 4.2: Các mơ hình tăng trưởng kinh tế chưa có yếu tố đầu tư, chi tiêu
chính phủ và tỷ giá thương mại ......................................................... 52
Bảng 4.3: Các mơ hình tăng trưởng có yếu tố đầu tư, chi tiêu chính phủ và tỷ
giá thương mại ................................................................................... 55
Bảng 4.4: Kết quả mơ hình tăng trưởng kinh tế GDP bình qn đầu người theo
phương pháp OLS .............................................................................. 57
Bảng 4.5: Hệ số tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng theo giai đoạn ......... 58
Bảng 4.6: Hệ số tương quan tích luỹ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ........ 60


8

DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1: GDP bình qn đầu người và tốc độ tăng trưởng (tính theo giá cố
định năm 2005 -USD) ........................................................................ 39

Hình 4.2: GDP bình quân đầu người một số nước khu vực (USD) .................... 40
Hình 4.3: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng - CPI ở Việt Nam (1986-2013) .......... 41
Hình 4.4: Lạm phát tại các nước phát triển, các nước đang phát triển châu Á,
các nước mới nổi và đang phát triển và Việt Nam giai đoạn 20012011.. .................................................................................................. 42
Hình 4.5: Mức tăng cung tiền của Việt Nam so với các nước ............................ 43
Hình 4.6: Lạm phát và tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở Việt Nam giai
đoạn 1986-2013 ................................................................................. 45


9

TÓM TẮT
Luận văn nghiên cứu tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam trong giai đoạn 1986 – 2013. Để thực hiện bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng
phương pháp hồi qui bình phương bé nhất (OLS- Ordinary least square) để ước
lượng mơ hình tăng trưởng kinh tế với các biến giải thích theo nghiên cứu của
Kanhaiya Singh và Kaliappa Kalirajan (2003) trên tạp chí Journal of Policy
Modeling. Tác giả nghiên cứu mức ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
bằng hệ số tương quan tích luỹ trong chuỗi thời gian để xác định ngưỡng lạm phát
của Việt Nam theo phương pháp nghiên cứu của Trần Hoàng Ngân và cộng sự
(2010) trên tạp chí Ngân hàng số 13 tháng 7/2011. Kết quả nghiên cứu cho thấy lạm
phát là biến giải thích có tác động ngược chiều với tăng trưởng kinh tế trong giai
đoạn 1986 – 2013. Ngưỡng lạm phát được xác định ở Việt Nam là 4%, Chính phủ
có thể thực hiện các biện pháp kiểm soát lạm phát sao cho lạm phát ở mức 4%/năm
thì lạm phát tác động làm cho tăng trưởng kinh tế ở mức tốt nhất.
Từ khoá: Lạm phát, mơ hình tăng trưởng kinh tế, ngưỡng lạm phát, tăng
trưởng GDP bình quân đầu người, OLS, DW statistics, LM serial correlation,
ARCH test CHSQ.



10

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU
1.1 Vấn đề nghiên cứu
Một số nghiên cứu gần đây chứng minh về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế cho rằng: có mối tương quan nghịch do tác động của lạm phát làm
giảm đầu tư và tăng năng suất (Stanley Fisher (1993), Robert J. Barro (1995), Atish
Ghosh và Steven Phillips (1998)) nhưng một số nghiên cứu của Michael Sarel
(1995), Moshsin S. Khan và Abdelhak S. Senhadji (2001) cho rằng tác hại của lạm
phát đến tăng trưởng kinh tế không phải là phổ biến mà chỉ xuất hiện trong ngưỡng
lạm phát nào đó. Các nước đang phát triển thường dễ bị tổn thương với các cú sốc ở
nguồn cung gây ra biến động lớn đối với lạm phát làm ảnh hưởng đến tiêu dùng,
hoạt động đầu tư và sản xuất.
Theo một nghiên cứu của Kanhaiya Singh và Kaliappa Kalirajan (2003) trên
tạp chí Journal of Policy Modeling, bằng phân tích thực nghiệm từ Ấn Độ trong
đoạn năm 1971 – 1998 đã nghiên cứu mối liên hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh
tế trong mô hình hồi qui đa biến gồm những yếu tố ảnh hưởng khác bên cạnh yếu tố
lạm phát để kiểm tra sự vững mạnh tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
và nghiên cứu ảnh hưởng các mức của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế ở Ấn
Độ cho thấy nghiên cứu của Kanhaiya Singh và Kaliappa Kalirajan (2003) đã khơng
tìm được mức ngưỡng lạm phát nào ở Ấn Độ để phát triển kinh tế bền vững vì lạm
phát có tác động tiêu cực ở tất cả các mức tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ. Một
nghiên cứu khác đối với trường hợp của Việt Nam, nghiên cứu của Trần Hoàng
Ngân và cộng sự (2010) với chuỗi số liệu lạm phát và tăng tưởng kinh tế trong giai
đoạn năm 1987-2010 ở Việt Nam, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích hệ số
tương quan của lạm phát và tăng trưởng kinh tế đã xác định ngưỡng lạm phát ở mức
5-6%, ở mức này lạm phát không làm gây hại đến nền kinh tế trong nước.
Trong bối cảnh Việt Nam là một trong nhóm nước đang phát triển trong quá
trình hội nhập và phát triển hiện nay, trãi qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu
đã làm gia tăng lạm phát và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu hiện nay của

nền kinh tế Việt Nam là làm sao để tăng cường ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm sốt lạm


11

phát. Phải chăng giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có một sự đánh đổi và lạm
phát có tác động ảnh hưởng như thế nào đối với sự tăng trưởng kinh tế trong giai
đoạn hiện nay? Lạm phát đến đâu sẽ thúc đẩy sự phát triển? Với mong muốn nghiên
cứu vấn đề này, tác giả chọn đề tài: “NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2013”.

Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế. Tiếp tục vấn đề nghiên cứu, tác giả sẽ đưa ra cái nhìn tổng quát và
sâu sắc hơn về lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 19862013, từ đó đưa những gợi ý chính sách nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu để trả lời hai câu hỏi:
• Nghiên cứu tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế của Việt nam giai
đoạn 1986-2013 ở mức độ nào?
• Ngưỡng lạm phát của Việt Nam có tồn tại hay khơng, nếu có là bao nhiêu?
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1

Đối tượng nghiên cứu

Một là, tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế thông qua chỉ số giá tiêu
dùng (CPI – Consumer Price Index) đại diện cho yếu tố lạm phát và tăng trưởng
kinh tế thông qua tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người
(GDP/người – Per Capita Gross Domestic Products ). Hai là, ngưỡng lạm phát của
Việt Nam.

1.3.2

Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dựa
trên số liệu thống kê từ năm 1986 – 2013.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế, tác
giả sử dụng phương pháp hồi qui bình phương bé nhất (OLS - Ordinary least
square) để ước lượng các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế, qua đó so sánh
mức độ tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở mỗi mơ hình ước lượng. Sử


12

dụng các kiểm định Durbin Watson, kiểm định Breusch-Godfrey (BG) để kiểm tra
khuyết tật về tự tương quan của mô hình, kiểm định ARCH cho hiện tượng phương
sai sai số thay đổi và kiểm định nghiệm đơn vị phần dư của mơ hình theo phương
pháp kiểm định Augmented Dickey – Fuller (ADF) nhằm giải thích về sự phù hợp
và ổn định của mơ hình. Tiếp theo, phân tích ngưỡng lạm phát, tác giả phân tích hệ
số tương quan tích luỹ theo chuỗi thời gian để xác định ngưỡng lạm phát theo
phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu của Trần Hoàng Ngân và cộng sự
(2010).
Đầu tiên tác giả đưa biến và lũy kế biến vào từng mơ hình tăng trưởng kinh tế
từ đó thấy được yếu tố lạm phát có tác động ảnh hưởng như thế nào qua các mơ
hình hồi qui và xét mức độ giải thích của mơ hình thơng qua R- bar-square và một
số kiểm định sự phù hợp của mơ hình. Sau khi xác định mơ hình tăng trưởng kinh
tế, tác giả phân tích ngưỡng lạm phát bằng cách phân tích hệ số tương quan tích luỹ
chuỗi thời gian theo phương pháp nghiên cứu của Trần Hoàng Ngân và cộng sự
(2010). Theo tác giả phương pháp tính ngưỡng lạm phát này được cho là phù hợp ở

Việt Nam hơn phương pháp tính ngưỡng lạm phát của Kanhaiya Singh và Kaliappa
Kalirajan (2003) vì diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu có sự
chênh lệch lớn do những cú sốc về sự thay đổi chỉ số giá tiêu dùng trong nền kinh tế
nên tác giả không đưa ra được mức độ lạm phát tăng thêm phù hợp trong giai đoạn
nghiên cứu để thực hiện ước lượng mơ hình hồi qui với biến giả như phương pháp
của Kanhaiya Singh và Kaliappa Kalirajan (2003).
1.5 Bố cục luận văn
Luận văn nghiên cứu được trình bày theo cấu trúc sau:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Chương 3: Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận và khuyến nghị


13

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế và lạm phát
2.1.1

Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là sự mở rộng năng lực sản xuất hàng hoá và dịch vụ của
nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Mục tiêu của tăng trưởng kinh tế
là tăng trưởng kinh tế cao, tăng năng suất lao động, nâng cao mức sống, khả năng
phát triển ở nước ngoài, sự ổn định chi phí và giá cả. Tăng trưởng kinh tế tạo điều
kiện nâng cao mức sống và đẩy mạnh an ninh quốc gia, hơn nữa tăng trưởng kinh tế
cịn tạo tính năng động về mặt kinh tế và xã hội.

Yếu tố quyết định quan trọng đến tăng trưởng kinh tế là năng suất. Năng lực
sản xuất của nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào số lượng, chất lượng các nguồn lực
và trình độ cơng nghệ (gồm nguồn nhân lực, tích lũy tư bản, tài nguyên thiên nhiên
và tri thức cơng nghệ) sử dụng trong q trình sản xuất, vì vậy tăng trưởng kinh tế
ln liên quan đến q trình mở rộng và hồn thiện các yếu tố tạo nên năng lực sản
xuất. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế là một khái niệm định lượng, đã có nhiều
quan điểm khác nhau về tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là một phần của lý thuyết kinh tế để giải thích tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế theo thời gian, được đo bằng tỷ lệ phần trăm tăng trưởng của
tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản phẩm
quốc dân (Gross National Products, GNP) (Johnson, 2000).
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là tổng thu nhập kiếm được trong nước,
gồm cả thu nhập mà người nước ngồi kiếm được trong nước nhưng khơng bao
gồm thu nhập mà người dân trong nước kiếm được ở nước ngoài.
Godwin (2007) khái niệm tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm
trong nước (GDP) hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP) trong một thời gian nhất
định. Trong đó, tổng sản phẩm trong nước hay tổng sản phẩm quốc dân được điều
chỉnh theo lạm phát.


14

Samuelson và cộng sự (1997) phát biểu rằng tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng
GDP tiền năng hoặc sản lượng của một quốc gia. Nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ
xảy ra khi ranh giới khả năng sản xuất của một quốc gia vượt ra khỏi lãnh thổ của
một nước.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế thực chất là sự lớn mạnh của nền kinh tế chỉ đơn
thuần về mặt số lượng. Đây là sự biến đổi có ý nghĩa tích cực, nhưng nó giúp cho xã
hội có thêm các điều kiện vật chất cụ thể để đáp ứng các nhu cầu đặt ra của xã hội.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ

tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm hoặc tốc độ tăng trưởng trong một giai
đoạn. Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần
so sánh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng hiệu số giữa quy mơ kinh tế kỳ
hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %, có cơng thức:
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối:
ΔY = Y1 - Y0
Tốc độ tăng trưởng tương đối:

Trong đó:

Y0: Tổng sản lượng thời kỳ nghiên cứu
Y1: Tổng sản lượng thời kỳ so sánh

Tuy nhiên, thước đo tăng trưởng kinh tế theo tăng trưởng GDP có thể gây
nhầm lẫn nếu như dân số tăng rất nhanh trong khi GDP thực tế lại tăng trưởng
chậm. Một định nghĩa khác thích hợp hơn về tăng trưởng kinh tế tính theo mức sản
lượng bình qn đầu người được tính bằng tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ tạo
ra trong năm chia cho dân số. Do đó, chúng ta đưa ra chỉ tiêu ý nghĩa hơn về tăng
trưởng kinh tế tính bằng phần trăm thay đổi của GDP bình quân đầu người của thời
kỳ nghiên cứu so với thời kỳ trước – thông thường tính cho một năm.
Các mơ hình tăng trưởng kinh tế:
Mơ hình tăng trưởng kinh tế là cách diễn đạt quan điểm của học giả về tăng
trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối quan hệ giữa chúng. Sau đây là


15

một số mơ hình tăng trưởng kinh tế phổ biến được giới thiệu trong giáo trình “Mơ
hình tăng trưởng kinh tế” của Trần Thọ Đạt (2010):



Lý thuyết tăng trưởng cổ điển của Smith và Malthus:

Không giống như các lý thuyết gia về tăng trưởng ngày nay, các nhà kinh tế cổ
điển như Smith và Malthus nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của đất đai trong tăng
trưởng kinh tế. Theo Adam Smith, đất đai là sẵn có và được chia tự do cho tất cả
mọi người, khi dân số tăng lên chỉ đơn giản là mở rộng thêm diện tích nhiều hơn.
Tuy nhiên, do khơng có tư bản nên sản lượng chỉ tăng gấp đôi khi dân số tăng lên
gấp đôi, tiền lương thực tế của người lao động là không đổi theo thời gian. Nhưng
thời kỳ như vậy không kéo dài mãi, khi dân số tiếp tục tăng, tất cả đất đai đều có
người chiếm giữ. Đất đai trở nên khan hiếm và địa tô ra đời để phân phối đất đai
cho những cách sử dụng khác nhau, tỷ số lao động và đất đai ngày càng tăng dẫn
đến sản phẩm biên của lao động giảm xuống và do đó tiền lương thực tế của người
lao động giảm xuống. Malthus cho rằng dân số tăng theo cấp số nhân còn sản lượng
tăng theo cấp số cộng do hạn chế về tài nguyên thiên nhiên. Nếu muốn duy trì tăng
sản lượng thì phải giảm mức tăng dân số. Vì nếu dân số tiếp tục tăng sẽ đẩy nền
kinh tế đến một điểm mà ở đó người lao động chỉ cịn sống ở mức tối thiểu. Như
vậy, các nhà kinh tế cổ điển như Smith và Malthus nhấn mạnh đến vai trò quan
trọng của nguồn lực tự nhiên (đất đai) trong tăng trưởng kinh tế.


Mơ hình tăng trưởng theo trường phái Keynes:

Dựa vào tư tưởng của Keynes về vai trò của đầu tư trong tăng trưởng kinh tế
vào những năm 1940, với sự nghiên cứu độc lập, nhà kinh tế học người Anh là
Harrod và nhà kinh tế học người Mỹ là Domar đã độc lập cơng bố mơ hình tăng
trưởng kinh tế, trong đó họ đã lượng hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu
về vốn, gọi chung là mơ hình “Harrod-Domar”. Theo mơ hình này, để tăng trưởng
nền kinh tế phải tiết kiệm và đầu tư một phần thu nhập của mình. Tiết kiệm và đầu

tư càng nhiều thì tăng trưởng càng nhanh. Tuy nhiên, đây cũng là nhược điểm của
mơ hình bởi đơn giản là mơ hình coi tốc độ tăng trưởng chỉ được xác định bởi tỷ lệ
tiết kiệm (đầu tư). Mơ hình tăng trưởng của trường phái Keynes chỉ ra được nguồn
gốc của tăng trưởng là tích lũy tư bản.


16



Mơ hình tăng trưởng tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế:

Nhà kinh tế học cổ điển Mathus đã không nhận ra rằng đổi mới công nghệ và
đầu tư vào tư bản có thể khắc phục được quy luật lợi tức giảm dần. Đất đai không
trở thành nhân tố gây hạn chế trong sản xuất, thay vào đó, cách mạng công nghiệp
đã tạo ra bước tiến nhảy vọt làm thế giới thay đổi nhanh chóng. Nhà kinh tế học
Robert Solow đã tiên phong trong cách tiếp cận này, mơ hình tăng trưởng tân cổ
điển được coi là công cụ cơ bản để tìm hiểu quá trình tăng trưởng kinh tế ở các
nước phát triển ngày nay. Mơ hình này có tính linh hoạt hơn so với mơ hình Harrod
–Domar bằng cách đưa vào đó một hàm sản xuất thuần ổn định và có hiệu quả
khơng đổi theo quy mơ. Mơ hình có một đầu ra đồng nhất được sản xuất bằng hai
loại đầu vào là tư bản và lao động. Hàm sản xuất tân cổ điển có dạng:
Y = f (K, L)
Với giả định chỉ có một loại hàng hóa tư bản duy nhất (K) và (L) là số công
nhân thì (K/L) là lượng tư bản trên một cơng nhân, hay tỷ số tư bản – lao động. Để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần thiết phải tăng cường tư bản theo chiều sâu, nghĩa
là tăng lượng tư bản tính trên đầu người theo thời gian từ đó tiền lương trả cho cơng
nhân sẽ có hướng tăng lên khi có sự thay đổi cơng nghệ.
Tóm lại, một số lý thuyết tăng trưởng kinh tế cho thấy sự lớn mạnh của nền
kinh tế chỉ đơn thuần về mặt số lượng, đây là sự biến đổi có ý nghĩa tích cực, giúp

cho xã hội có thêm các điều kiện vật chất cụ thể để đáp ứng các nhu cầu đặt ra của
công dân, của xã hội. Và như vậy, tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của
dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống được cải thiện, củng cố an
ninh quốc phịng, chế độ chính trị, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước. Từ những
khái niệm về tăng trưởng kinh tế cho thấy sự gia tăng của tổng sản lượng trong
nước (GDP) bình quân đầu người là yếu tố đại diện cho tăng trưởng kinh tế vì đây
là chỉ tiêu tốt nhất để phản ánh sự thịnh vượng của nền kinh tế và tiến bộ xã hội.


17

2.1.2

Lý thuyết về lạm phát

Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mơ có ảnh hưởng rộng lớn đến các mặt
của đời sống kinh tế hiện đại. Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong
mức giá chung. Điều này khơng nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch
vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng
lên. Một nền kinh tế vẫn có thể trải qua lạm phát khi giá của một số hàng hóa giảm,
nếu như giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh. Lạm phát cũng có
thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng tiền nội tệ. Trong
bối cảnh lạm phát, thì một đơn vị tiền tệ chỉ có thể mua được ngày càng ít hàng hóa
và dịch vụ hơn, hay chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua
một giỏ hàng hóa và dịch vụ cố định. Một số khái niệm về lạm phát được đưa ra:
Quan niệm của K. Marx (1993) cho rằng: Lạm phát là sự phát hành tiền mặt
quá lố so với lượng hàng hóa lưu thơng tại thị trường.
Lênin cũng đưa ra ý niệm tương tự: Lạm phát là sự thừa ứ tiền giấy trong các
kênh lưu thông.
Đến thập niên 1960, nhà kinh tế học Milton Friedman theo trường phái trọng

tiền hiện đại khẳng định lại: Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục
trong một thời gian dài. Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ,
Milton Friedman (1970). Ông đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa cung
tiền và lạm phát. Có thể nói, lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về
nguồn gốc sâu xa của hiện tượng lạm phát.
N. Gregory Mankiw (1992) cho rằng lạm phát là sự tăng lên của mức giá
chung theo thời gian. Định nghĩa này hàm ý lạm phát không phải là hiện tượng tăng
giá của một vài hàng hố, hay một nhóm hàng hố nào đó. Nó cũng khơng phải là
hiện tượng giá cả chung tăng lên một lần duy nhất mà lạm phát là hiện tượng giá cả
phải tăng lên một cách “liên tục”. Nếu sự tăng lên một lần của giá cả thì hiện tượng
này chỉ dừng lại như là một cú sốc về giá chứ chưa phải lạm phát.
Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá tổng quát đo bằng chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) hay chỉ số điểu chỉnh GDP (Phạm Chung, 2002).


18

Như vậy, có thể coi lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu
cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hố tăng lên
đồng loạt, nó có đặc trưng: Một là, hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có
trong lưu thơng dẫn đến đồng tiền bị mất giá, thứ hai là mức giá chung tăng lên và
tăng một cách liên tục.
Để xem xét lạm phát người ta thường tập trung nghiên cứu biểu hiện của lạm
phát, cụ thể là nghiên cứu lạm phát thông qua sự gia tăng của mức giá chung với tốc
độ cao và kéo dài. Để đo lường mức giá chung trong nền kinh tế, người ta thường
dùng các phép đo phổ biến như: chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá bán buôn
(WPI - Wholesale Price Index), chỉ số giá sản xuất (PPI - Producer Price Index), …
Ở Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới, chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng để
tính mức độ lạm phát trong nền kinh tế. Bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) làm đại diện cho yếu tố lạm phát.

Về cách tính, lạm phát là phần trăm thay đổi của chỉ số giá chung trong nền
kinh tế theo từng giai đoạn, có thể là từng tháng, từng quý hoặc từng năm. Các nhà
thống kê sử dụng hai chỉ số giá để đo lường là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số
GDP điều chỉnh (GDP deflator). Cả hai chỉ số này đều tính tốn dựa trên mức giá
trung bình có trọng số của tồn bộ hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế. Sự khác
biệt về cách tính của hai chỉ số này là quan điểm của rổ hàng hoá làm trọng số sử
dụng để tính tốn.
CPI là tỷ số phản ánh giá của một rổ hàng hoá trong nhiều năm so với chính
giá của rổ hàng hố đó ở một năm nào đó. Trong thống kê người ta gọi đó là năm cơ
sở hay năm gốc (based year). Tức là, rổ hàng hố được lựa chọn để tính giá là
khơng thay đổi trong nhiều năm. Chỉ số giá này phụ thuộc hoàn toàn vào năm được
chọn là năm gốc và sự lựa chọn của rổ hàng hoá tiêu dùng. Như vậy, chỉ số CPI có
một số nhược điềm. Thứ nhất, mức độ bao phủ của chỉ số giá này chỉ giới hạn ở một
số hàng hoá tiêu dùng được chọn trong rổ hàng hố, do vậy nó khơng thể hiện được
biến động của những loại hàng hoá khác nhau. Thứ hai, rổ hàng hoá này thường
được xây dựng dựa trên tỷ phần chi tiêu đối với hàng hoá thiết yếu của dân thành thị
do đó nó khơng thể hiện đầy đủ và không phản ánh đúng cơ cấu chi tiêu khác nhau


19

trong toàn xã hội, đặc biệt là ở những nước mà có sự phân hố giàu nghèo giữa dân
nơng thơn và dân thành thị lớn. Thứ ba, do tỷ trọng hàng hoá là cố định ở một năm
gốc nên sẽ không phản ánh được sự thay đổi trong cơ cấu hàng hoá tiêu dùng cũng
như sự thay đổi trong chi tiêu của người tiêu dùng cho các hàng hoá khác nhau theo
thời gian. Cách tính như sau:

Lạm phát được tính theo chỉ số giá GDP điều chỉnh thì ngược lại với chỉ số giá
tiêu dùng, là tỷ số phản ánh giá của một rổ hàng hoá trong nhiều năm so với giá của
chính rổ đó nhưng với giá của năm gốc. Như vậy, có thể thấy rằng hàng hố được

chọn để tính giá là có sự khác biệt trong giai đoạn tính tốn. Về cơ bản, sự khác biệt
giữa các rổ hàng hố trong các thời điểm tính giá là khơng nhiều bởi vì cơ cấu tiêu
dùng của người dân thường mang tính ổn định trong ngắn hạn.

Do cách tính toán của 2 chỉ số giá trên khác nhau nên về mặt lý thuyết, chỉ số
giá tiêu dùng thường phóng đại mức giá sinh hoạt. Còn chỉ số giá GDP điều chỉnh
đánh giá thấp mức giá này (Phạm Chung, 2002).
Tóm lại, có nhiều cách để đo lường lạm phát và tuỳ thuộc vào chỉ số giá chung
nào của nền kinh tế được áp dụng. Dù bằng phương pháp nào đi nữa thì cách do
lường của những chỉ số giá này đều có những hạn chế về mặt phương pháp luận lẫn
thực hành. Để hạn chế bớt những sai lầm, hạn chế trên, việc phân tích lạm phát phải
dựa vào nhiều chỉ số đối chứng khác nhau và phải trong một khoản thời gian tương
đối dài để tránh những nhận định mang tính thời điểm.


20

Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát thì lạm phát có 3 loại:
• Lạm phát vừa phải: cịn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới
10%/năm. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống người lao
động ổn định, tạo tâm lý an tâm cho người dân. Các nước có nền kinh tế phát triển
thường duy trì mức lạm phát vừa phải nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
• Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2
hoặc 3 con số/năm. Ở mức lạm phát này làm cho giá cả tăng lên nhanh chóng, gây
biến động lớn trong nền kinh tế, các hợp đồng lúc này được chỉ số hoá. Người dân
lúc này tích trữ hàng hố, của cải, tránh giữ tiền, sản xuất bị đình trệ, nền tài chính
bị ảnh hưởng nặng nề. Lạm phát phi mã khi đã xảy ra và tồn tại lâu dài sẽ gây biến
dạng nền kinh tế nghiêm trọng.
• Siêu lạm phát: Xảy ra khi lạm phát tăng đột biến trên 1000%, lạm phát này
rất ít khi xảy ra, thường xảy ra khi thâm hụt ngân sách cao buộc chính phủ phát

hành tiền lớn để bù đắp. Điều này có thể phá huỷ tồn bộ hoạt động của nền kinh tế.
2.1.3

Lý thuyết về quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

Có một lý thuyết có thể coi là tư tưởng trung tâm trong kinh tế học là lý thuyết
đánh đổi. Lý thuyết về sự đánh đổi (Trade-off) là một khái niệm dùng để nói lên sự
lựa chọn cho một quyết định nào đó; đó là việc các doanh nghiệp, hộ gia đình, chính
phủ, tổ chức xã hội hoặc bất cứ một cá nhân nào trong xã hội cân nhắc việc bỏ ra
một nguồn lực nào đó (tiền, chi phí, tài sản, thời gian hay bất cứ thứ gì mà mình có)
để thu được một nguồn lực khác mà mình mong muốn. Nói cách khác, q trình ra
quyết định địi hỏi phải đánh đổi một mục tiêu nào đó để đạt được mục tiêu khác.
Sự lựa chọn quyết định đó được đưa ra dựa trên sự nhận thức rõ lợi ích và cái mà
phải mất giữa các phương án lựa chọn.
Nghĩa là, nếu sự đánh đổi liên quan đến các nổ lực để cải thiện mức sống, mức
sống tăng lên theo thời gian, mức sống của chúng ta hôm nay cao hơn các thế hệ
trước. Mức sống của chúng ta và tốc độ cải thiện mức sống phụ thuộc vào nhiều sự
lựa chọn của mỗi cá nhân, các doanh nghiệp, và chính phủ. Và các lựa chọn này đều
liên quan đến sự đánh đổi, giả sử xã hội chúng ta hy sinh tiêu dùng hiện tại để có
được tăng trưởng kinh tế và mức sống cao hơn trong tương lai hay mức sản xuất


21

hiện tại thấp hơn, việc đổi tiêu dùng hiện tại để lấy mức sản xuất lớn hơn trong
tương lai.
Ở bài nghiên cứu này liên quan đến lý thuyết đánh đổi là sự đánh đổi giữa sản
lượng và lạm phát. Sản lượng giúp gia tăng tổng sản lượng quốc gia hay tăng
trưởng kinh tế. Khi ngân hàng trung ương tăng cung ứng tiền tệ và giảm lãi suất, thì
tổng cầu, sản lượng và việc làm sẽ tăng. Tổng cầu lớn hơn sẽ đẩy lạm phát gia tăng,

chi phí sinh hoạt sẽ tăng nhanh hơn. Tuy nhiên, với các nguồn lực nhất định, thì
cuối cùng sản lượng sẽ trở lại mức ban đầu. Như vậy, lạm phát cao hơn sẽ cùng với
tăng trưởng tạm thời cao hơn. Ngược lại, các chính sách cắt giảm tổng cầu sẽ làm
giảm áp lực lạm phát, nhưng đồng thời cũng gây ra suy thoái. Khi lạm phát quá cao,
các nhà hoạch định chính sách sẽ muốn cắt giảm lạm phát nhưng lại không muốn
giảm sản lượng. Và như vậy, họ phải đối mặt với sự đánh đổi giữa sản lượng và lạm
phát bởi các hành động nhằm làm giảm lạm phát cũng làm giảm sản lượng và các
hành động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ phải chấp nhận mức lạm phát cao hơn.
Có nhiều quan điểm lý thuyết của các trường phái khác nhau về lạm phát và
tăng trưởng kinh tế, mỗi trường phái có một quan điểm riêng, mơ hình riêng để
chứng minh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, điểm
chung trong quan điểm của các trường phái là mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế khơng phải là một chiều mà có sự tác động qua lại. Tác động này
được truyền dẫn chủ yếu thông qua kênh tiết kiệm và đầu tư. Trong ngắn hạn, khi
lạm phát còn ở mức thấp, lạm phát và tăng trưởng thường có mối quan hệ cùng
chiều. Nghĩa là, nếu muốn tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao hơn thì phải chấp nhận
tăng lạm phát, thể hiện thơng qua việc gia tăng đầu tư. Tuy nhiên, việc gia tăng đầu
tư liên tục (tức lạm phát vượt quá một ngưỡng cho phép) sẽ vượt quá khả năng hấp
thụ của nền kinh tế cũng như khả năng phân bổ nguồn vốn của hệ thống tín dụng.
Điều này sẽ lại gây tác dụng ngược lại làm suy giảm hiệu quả đầu tư, và từ đó tác
động tiêu cực lên tăng trưởng. Do vậy, để đảm bảo tăng trưởng trong dài hạn và
kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, điều cần thiết trước hết chính là phải nâng cao
chất lượng hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư.


22

Các nhà kinh tế theo trường phái cổ điển thông qua lý thuyết về phía cung
(supply - side) nhấn mạnh rằng cần thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư nếu nền kinh tế
hướng tới tăng trưởng; Còn Keynes đã đưa ra một mơ hình tồn diện hơn - mơ hình

đường tổng cung và đường tổng cầu (AS - AD) để kết nối lạm phát và tăng trưởng
kinh tế. Theo lý thuyết của Keynes, trong ngắn hạn, sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát
và tăng trưởng. Nghĩa là, muốn tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ
lệ lạm phát nhất định. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di
chuyển cùng chiều. Sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc
đẩy tăng trưởng thì GDP cũng khơng tăng thêm mà có xu hướng giảm đi (đường
cong Philliips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp thể
hiện rõ tính quy luật này).
Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng tiền đại diện là Milton Fredman cho rằng:
lạm phát là sản phẩm của việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn
tốc độ tăng trưởng kinh tế; nghĩa là trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền
chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng; nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra; nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn
định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát. Lập luận này cũng được thể hiện
trong công thức nổi tiếng của Irving Fisher (lý thuyết số lượng tiền tệ - Quantily
theory of Money):
M.V=P.Y
Trong đó: M: Cung tiền, V: Hệ số tạo tiền, P: Giá, Y: Sản lượng đầu ra (GDP)
Theo Friedman, nếu giá cả hàng hóa trong nền kinh tế tăng gấp 2 lần mà thu
nhập của người lao động cũng tăng gấp 2 lần thì họ sẽ khơng quan tâm đến việc
tăng giá hàng hóa. Trong trường hợp như vậy, tăng trưởng khơng bị suy giảm bởi
lạm phát. Nếu lạm phát xảy ra theo hướng này thì sẽ khơng ảnh hưởng nguy hại đến
tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết tân cổ điển R. Mundell (1963) và J. Tobin (1965) cho rằng: Lạm
phát là nguyên nhân làm cho con người tránh giữ tiền mà chuyển thành các tài sản
sinh lợi, theo mơ hình này giữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ tỷ lệ thuận.
Bổ sung thêm cho mơ hình của lý thuyết tân cổ điển, nhà kinh tế học Sidrauski có


23


quan điểm khi các biến số độc lập với việc tăng cung tiền trong dài hạn thì việc tăng
lạm phát khơng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Mơ hình của Stockman thì cho
rằng lạm phát tăng cao sẽ làm cho tăng trưởng giảm.
Quan điểm lý thuyết của Keynes mới: Bắt nguồn từ trường phái Keynes với
khái niệm về sản lượng tiềm năng, nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng khi ở
vào trạng thái toàn dụng lao động. Mơ hình này được vận hành theo cơ chế lạm phát
nội tại nghĩa là lạm phát gây được tạo nên bởi các biến nội sinh của nền kinh tế.
Nếu chính sách kinh tế làm cho sản lượng GDP vượt mức tiềm năng và tỷ lệ
thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, các yếu tố khác không đổi, khi đó
lạm phát sẽ gia tăng vì các nhà sản xuất sẽ tăng giá sản phẩm và lạm phát nội tại
xấu hơn. Nếu cứ tiếp tục nền kinh tế rơi vào tình trạng “Đình lạm” và ngược lại thì
lạm phát sẽ giảm vì các nhà sản xuất sẽ cố gắng sử dụng hết tiềm năng của nền kinh
tế bằng cách giảm giá dẫn đến lạm phát giảm (thiểu phát) và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Điểm hạn chế của lý thuyết này là các nhà kinh tế khơng biết được chính xác
GDP tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và những chỉ tiêu này thay đổi theo thời
gian. Mặt khác, lạm phát luôn vận hành không cân xứng ở chỗ tăng lên nhanh
nhưng giảm xuống chậm.
Quan điểm Lý thuyết kỳ vọng hợp lý cho rằng tác nhân kinh tế tìm cách hợp
lý trong tương lai khi cố gắng tối đa hóa phúc lợi của họ và khơng đáp ứng chỉ với
chi phí cơ hội và áp lực trước mắt. Theo quan điểm này, căn cứ vào trọng tiền, kỳ
vọng và chiến lược trong tương lai là quan trọng đối với lạm phát. Một sự khẳng
định cốt lõi của lý thuyết kỳ vọng hợp lý là tác nhân kinh tế sẽ tìm cách "đón đầu"
các quyết định của ngân hàng trung ương (NHTW) bằng hành động thực hiện
những dự đoán lạm phát cao hơn. Điều này có nghĩa rằng các NHTW phải thiết lập
sự tin cậy của họ trong cuộc chiến chống lạm phát, hoặc tác nhân kinh tế sẽ đặt
cược rằng các NHTW sẽ mở rộng cung tiền nhanh chóng, đủ để ngăn chặn suy
giảm, thậm chí tại các chi phí làm tăng lạm phát. Vì vậy, nếu một NHTW có tiếng
là ứng xử mềm dẻo đối với lạm phát thì khi cơng bố một chính sách chống lạm phát
mới với các tác nhân kinh tế tăng trưởng tiền tệ hạn chế sẽ khơng tin rằng chính

sách này sẽ vẫn tồn tại; kỳ vọng lạm phát của họ vẫn ở mức cao, và do đó sẽ lạm


24

phát. Mặt khác, nếu các NHTW có tiếng cứng rắn hơn đối với lạm phát, thì một
thơng báo chính sách như vậy sẽ được tin tưởng và kỳ vọng lạm phát sẽ giảm xuống
nhanh chóng, do đó cho phép lạm phát đi xuống nhanh chóng với sự gián đoạn kinh
tế tối thiểu. Như vây, sự kỳ vọng có tác động ảnh hưởng đến lạm phát, tùy vào cách
ứng xử của NHTW đưa ra.
Tuy quan điểm về lý thuyết và mô hình minh chứng cho mối quan hệ giữa
tăng trưởng và lạm phát của các trường phái có sự khác nhau, nhưng điểm chung
của các trường phái là mối quan hệ ấy không phải một chiều, mà là sự tác động qua
lại; nếu muốn tăng trưởng cao thì phải chấp nhận lạm phát, mối quan hệ này không
tồn tại mãi và đến một lúc nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tăng
trưởng; trong dài hạn, khi tăng trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác
động đến tăng trưởng nữa mà lúc này lạm phát là hậu quả của việc tăng cung tiền
quá mức vào nền kinh tế.
2.2 Tổng quan nghiên cứu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trước đây
Từ những thập niên 60 các nhà kinh tế đã sử dụng mơ hình kinh tế lượng khác
nhau để kiểm chứng bằng số liệu của các nước và khu vực trên thế giới nhằm tìm ra
câu trả lời có hay khơng tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Một số nghiên cứu trước đây cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Trong luận văn này, tác giả
giới thiệu một số nghiên cứu thực nghiệm ở nước ngoài và ở Việt Nam để làm tài
liệu tham khảo về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế cũng như
nghiêm cứu về ngưỡng lạm phát của các nhà kinh tế:
2.2.1

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế


Nghiên cứu “Vai trị của các yếu tố vĩ mơ trong tăng trưởng kinh tế” của
Stanley Fisher (1993). Ông là người đầu tiên nghiên cứu về vai trò của các yếu tố vĩ
mô trong tăng trưởng kinh tế. Bằng cách sử dụng bộ số liệu về các chỉ tiêu kinh tế
vĩ mô của 93 nước với phương pháp hồi quy theo nhóm và hồi quy hỗn hợp để xây
dựng lược đồ nhằm xác định “kênh chuyền tải” từ thực thi chính sách kinh tế vĩ mơ
đến tăng trưởng. Nghiên cứu này đã kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ thấp, mối
quan hệ này có thể khơng tồn tại hoặc mang tính đồng biến, khi lạm phát ở mức cao


25

thì mối quan hệ này là nghịch biến. Trong nghiên cứu Fisher cũng đã xác định
những tác động trở lại của tăng trưởng kinh tế đối với lạm phát, thâm hụt ngân sách,
sự méo mó của thị trường ngoại hối; nghiên cứu quan hệ nhân quả và các kênh vận
hành của chúng. Kết quả có những phát hiện chủ yếu sau:
- Lạm phát có mối tương quan rất chặt chẽ với tăng trưởng;
- Lạm phát làm suy giảm đầu tư và suy giảm tỷ lệ tăng năng xuất của nền kinh
tế dẫn tới suy giảm tăng trưởng kinh tế. Đây là kênh chuyền tải từ lạm phát đến suy
giảm tăng trưởng;
- Qua nghiên cứu một số trường hợp riêng biệt cho thấy lạm phát thấp không
nhất thiết là điều kiện để có tăng trưởng cao trong dài hạn và lạm phát cao không
phù hợp với tăng trưởng kinh tế bền vững.
Một nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế,
Robert J. Barro (1995) đã nghiên cứu “Lạm phát và tăng trưởng kinh tế”. Robert J.
Baro sử dụng số liệu về chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân
đầu người và tỷ lệ đầu tư so với GDP của trên 100 quốc gia cho giai đoạn 1960 1990 để nghiên cứu tác động của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế, Barro sử
dụng hệ phương trình hồi quy với giả thuyết các yếu tố tăng trưởng khác không đổi.
Kết quả nghiên cứu phát hiện: Khi lạm phát bình quân năm tăng 10 điểm phần trăm
làm giảm tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đầu người là

0.2 – 0.3 điểm phần trăm của một năm và làm giảm tỷ lệ đầu tư so với GDP từ 0.4 0.6 điểm phần trăm. Nghiên cứu của Robert J. Barro (1995) đã cho thấy về quan hệ
nghịch biến giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, lạm phát gia tăng làm giảm tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế với yếu tố tăng trưởng kinh tế được tính bằng tổng sản phẩm
trong nước bình quân đầu người trong giai đoạn 1960-1990.
Cũng trong giai đoạn này, Atish Ghosh và Steven Phillips (1998) nghiên cứu
“Lạm phát và tăng trưởng kinh tế” đã sử dụng số liệu về tăng trưởng GDP bình
quân đầu người hằng năm theo giá so sánh và số liệu về lạm phát theo CPI bình
quân năm của 145 nước, sử dụng phương pháp hồi quy đa biến theo nhóm để kiểm
chứng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Atish Ghosh và Steven
Phillips cho rằng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng không phải là mối quan


×