Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nghiên cứu thực trạng bệnh tăng huyết áp và rối loạn chuyển hoá ở nguời tăng huyết áp tại xã hoá thượng huyện đồng hỷ - tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

CHU HỒNG THẮNG

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP VÀ RỐI LOẠN
CHUYỂN HOÁ Ở NGUỜI TĂNG HUYẾT ÁP
TẠI XÃ HOÁ THƯỢNG HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

THÁI NGUYÊN - 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

CHU HỒNG THẮNG

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP VÀ RỐI LOẠN
CHUYỂN HOÁ Ở NGƯỜI TĂNG HUYẾT ÁP
TẠI XÃ HOÁ THƯỢNG HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành Nội khoa
Mã số: 60 72 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG HỒNG THÁI

THÁI NGUYÊN - 2008



Lời cảm ơn !
Để hồn thành luận văn này, tơi đã nhận được sự giúp đỡ về mọi mặt
của các cơ quan, đơn vị, các thầy cô giáo, các nhà khoa học, gia đình và
bạn bè đồng nghiệp.
Tơi xin trân trọng cảm ơn: Ban giám hiệu, các phòng, khoa, bộ môn
Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên; Ban giám đốc, các phòng, khoa
Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên; Ban giám đốc, các phòng ban
Sở Y tế Thái Nguyên; Trung tâm Y tế huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên;
Đảng uỷ, HĐND, UBND, Trạm Y tế và các ban ngành xã Hoá Thượng,
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn thầy cô giáo các bộ môn Trường Đại học YDược Thái Nguyên đã truyền đạt những kiến thức q báu cho tơi trong
suốt q trình học tập.
Xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn: TS. Dương Hồng Thái, người
thầy đã tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong q trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn: Bạn bè, đồng nghiệp và những người thân
trong gia đình, những người ln giúp đỡ và động viên tôi trong học tập,
công tác cũng như trong cuộc sống.

Tác giả
Chu Hồng Thắng


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BMI

Body Mass Index (chỉ số khối cơ thể)


BMMNB

Bệnh mạch máu ngoại biên

CCVC

Công chức viên chức

Cre

Creatinin

CT

Cholesterol toàn phần

DTH

Dịch tễ học

ĐH, CĐ, THCN

Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp

ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu

Glu


Glucose

HA

Huyếp áp

HATT

Huyết áp tâm thu

HATTr

Huyết áp tâm trương

HLA

Human leucocyte antigen
(kháng nguyên bạch cầu người)

ISH

International Society of hypertention
(Hội tăng huyết áp quốc tế)

JNC

Join National Committee
(Uỷ ban phịng chống tăng huyết áp Hoa Kỳ)

KTHA


Khơng tăng huyết áp

NaCl

Natri clorua

NST

Nhiễm sắc thể

PTTH

Phổ thông trung học

TBMMN

Tai biến mạch máu não

THA

Tăng huyết áp

THCS

Trung học cơ sở

WC

Waist Circumference (vòng bụng)


WHO

World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)

WHR

Waist/Hip Ratio (tỷ số vòng bụng/vịng mơng)

YTNC

Yếu tố nguy cơ


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chƣơng 1. TỔNG QUAN

3

1.1.Định nghĩa và phân loại bệnh THA

3

1.2. Cơ chế bệnh sinh bệnh THA


4

1.3. Biểu hiện của bệnh THA

9

1.4. Tổn thương cơ quan đích có thể gặp trong THA

10

1.5. Tình hình bệnh tăng huyết áp và các nghiên cứu bệnh tăng huyết

11

áp ở một số nước trên Thế giới
1.6. Nghiên cứu bệnh tăng huyết áp ở Việt Nam

13

1.7. Một số nghiên cứu trong và ngoài nước về rối loạn chuyển hoá và

15

các yếu tố liên quan đến bệnh THA
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

24

2.1. Đối tượng nghiên cứu


24

2.2. Địa điểm nghiên cứu

24

2.3. Thời gian nghiên cứu

24

2.4. Phương pháp nghiên cứu

24

2.5. Các chỉ tiêu nghiên cứu

25

2.6. Kỹ thuật thu thập số liệu

26

2.7. Xử lý số liệu

33

Chƣơng 3. KẾT QUẢ

34


3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu xã Hóa Thượng

34

3.2. Thực trạng về bệnh THA

36

3.3. Một số rối loạn chuyển hoá và yếu tố liên quan với bệnh THA

41

Chƣơng 4. BÀN LUẬN

49

4.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu

49

4.2. Thực trạng bệnh THA

52

4.3. Một số rối loạn chuyển hoá và yếu tố liên quan với bệnh THA

62

KẾT LUẬN


73

KHUYẾN NGHỊ

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

75

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VÀ PHỤ LỤC

83


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tăng huyết áp (THA) là bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, là mối đe dọa rất lớn đối với sức khoẻ của con người, là nguyên nhân gây
tàn phế và tử vong hàng đầu ở người cao tuổi. Trong số các trường hợp mắc
bệnh và tử vong do tim mạch hàng năm có khoảng 35% - 40% nguyên nhân do
THA [53].
Tỷ lệ bệnh THA rất cao và có xu hướng tăng rất nhanh khơng chỉ ở các
nước có nền kinh tế phát triển mà ở cả các nước đang phát triển. Bệnh THA gây
nhiều biến chứng nguy hiểm như: tai biến mạch máu não, suy tim, suy mạch
vành, suy thận... phải điều trị lâu dài, cần sử dụng thuốc và phương tiện kỹ thuật
đắt tiền. Chính vì thế, bệnh THA khơng những ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống của bản thân người mắc bệnh, mà cịn là gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Theo Tổ chức Y tế thế giới năm 1978, trên thế giới tỷ lệ mắc bệnh THA
chiếm khoảng 10% - 15% dân số và ước tính đến 2025 là 29%. Tại Hoa Kỳ,
hàng năm chi phí cho phịng, chống bệnh THA trên 259 tỷ đô la Mỹ [53].
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của bộ môn Tim mạch và Viện Tim mạch
tại thành phố Hà Nội năm 2001-2002, tỷ lệ THA ở người lớn là 23,2%, cao gần
ngang hàng với các nước trên thế giới [25]. Tỷ lệ THA trong các nghiên cứu về
dịch tễ học luôn vào khoảng từ 20% đến 25% [53]. Một số nghiên cứu mới đây
cho thấy tỷ lệ THA người lớn (trên 25 tuổi) ở một số vùng Việt Nam đã lên đến
33,3% [18]. Bệnh THA còn liên quan đến một số rối loạn chuyển hoá glucose
máu, lipid máu... Các rối loạn chuyển hoá này vừa là nguyên nhân gây THA vừa
là hậu quả của THA và như vậy khi bị THA bệnh ngày càng nặng lên nhanh
chóng và tử vong do các biến chứng tại tim, não, thận. Đây là vòng xoắn bệnh lý
mà chúng ta cần quan tâm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2

Dự báo trong những năm tới số người mắc bệnh THA sẽ còn tăng do các
yếu tố liên quan như: hút thuốc lá, lạm dụng rượu - bia, dinh dưỡng bất hợp lý, ít
vận động vẫn cịn phổ biến. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), khống chế được
những yếu tố nguy cơ này có thể làm giảm được 80% bệnh THA [3].
Điều trị THA cần phải liên tục, kéo dài và phải được theo dõi chặt chẽ.
Trên thực tế việc phát hiện, quản lý và điều trị bệnh nhân THA tại cộng đồng
gặp rất nhiều khó khăn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng như người dân còn nghèo
chưa đủ tiền theo dõi, điều trị, thiếu sự quan tâm, thiếu hiểu biết, trình độ học
vấn thấp... Do đó cần xây dựng một kế hoạch mang tính chất chiến lược trong

phịng, chống bệnh THA. Chúng tơi tiến hành đề tài "Nghiên cứu thực trạng
bệnh THA và một số rối loạn chuyển hố ở người THA tại xã Hóa Thượng,
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên" nhằm đạt được các mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng bệnh tăng huyết áp tại xã Hoá Thượng, huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
2. Đánh giá một số rối loạn chuyển hoá và yếu tố liên quan đến bệnh tăng
huyết áp tại cộng đồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Định nghĩa và phân loại tăng huyết áp
1.1.1. Định nghĩa THA
Theo Tổ chức Y tế thế giới: Một người lớn được gọi là THA khi HA tối
đa, HA tâm thu (HATT) ≥ 140 mmHg và/hoặc HA tối thiểu, HA tâm trương
(HATTr) ≥ 90 mmHg hoặc đang điều trị thuốc hạ áp hàng ngày hoặc có ít nhất 2
lần được bác sỹ chẩn đoán là THA [3], [8], [69].
Đây khơng phải tình trạng bệnh lý độc lập mà là một rối loạn với nhiều
nguyên nhân, các triệu chứng đa dạng, đáp ứng với điều trị cũng rất khác nhau.
THA cũng là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh tim mạch khác như: tai biến mạch
máu não, bệnh mạch vành...
1.1.2. Phân loại THA
Phân loại THA có nhiều thay đổi trong những năm gần đây. Theo
WHO/ISH (năm 2003) chia lại THA làm 3 độ [8], [17], [20], [69]:

Bảng 1.1. Chia tng huyt ỏp theo WHO/ISH (nm 2003)
Huyết áp (mmHg)
Phân độ THA
Tâm thu

Tâm tr-ơng

THA độ I

140 159

90 99

THA ®é II

160 – 179

100 – 109

THA ®é III

 180

 110

- Liên Uỷ ban quốc gia về dự phòng, phát hiện, đánh giá, điều trị THA Hoa
Kỳ (Join National Committee – JNC) lại đưa phân loại hơi khác qua các kỳ họp
(JNC IV 1988, JNC V 1993, JNC VI 1997) và gần đây JNC VII (năm 2003) chia
THA như sau [46]:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





4

Bảng 1.2. Phân độ tăng huyết áp theo JNC VII (nm 2003)
Huyết áp (mmHg)
Phân độ THA
Tâm thu

Tâm tr-ơng

<120

<80

Tiền THA

120 139

80 – 89

THA ®é I

140 – 159

90 – 99

THA ®é II


 160

 100

B×nh th-êng

- Cách phân loại THA tại Việt Nam: xuất phát từ cách phân độ THA của
WHO/ISH và JNC, Hội tim mạch Việt Nam đã đưa ra cách phân độ như sau [12]:
Bảng 1.3. Phân loại tăng huyết ỏp ti Vit Nam hin nay
Huyết áp (mmHg)
Phân loại
Tâm thu

Tâm tr-ơng

< 120

< 80

HA bình th-ờng

120 129

80 84

HA bình th-êng cao

130 – 139


85 – 89

THA ®é 1 (nhĐ)

140 – 159

90 99

THA độ 2 (trung bình)

160 179

100 109

THA độ 3 (nặng)

180

110

THA tâm thu đơn độc

140

< 90

HA tèi -u

Nếu HATT và HATTr ở hai phân độ khác nhau tính theo trị số HA lớn hơn.
1.2. Cơ chế bệnh sinh bệnh THA

Cơ chế bệnh sinh gồm THA nguyên phát và THA thứ phát [41].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5

1.2.1. THA nguyên phát
THA nguyên phát chiếm tới 90% các trường hợp [3], cơ chế bệnh sinh đến
nay chưa được rõ ràng, người ta cho rằng một số yếu tố sau đây có thể gây
THA:
- Tăng hoạt động thần kinh giao cảm sẽ làm tim ở trạng thái tăng động do
tăng hoạt động của tim dẫn đến tăng cung lượng và tăng tần số tim. Toàn bộ hệ
thống động mạch ngoại vi và động mạch thận bị co thắt, làm tăng sức cản ngoại
vi để lại hậu quả cuối cùng l THA ng mch [8].
Sơ đồ cơ chế bệnh sinh THA do tăng hoạt động thần kinh giao cảm và tăng
cung l-ợng tim [41]:
Tăng hoạt động
thần kinh giao cảm

Tăng cung
l-ợng tim

Tăng huyết áp hệ
thống động mạch

Co thắt động mạch
ngoại vi


- Tác dụng co mạch của adrenalin và noradrenalin: hai chất này do tuỷ
thượng thận bài tiết ra, khi hệ giao cảm bị kích thích. Adrenalin có tác dụng co
mạch dưới da nhưng lại làm giãn mạch vành, mạch não, mạch cơ vân nên chỉ
làm THA tối đa. Noradrenalin làm co mạch toàn thân nên làm tăng cả HA tối đa
và HA tối thiểu [22].
- Vai trò của hệ RAA: Renin - Angiotensin - Aldosteron [8], [41].
Renin là enzym được tế bào của tổ chức cạnh cầu thận và một số tổ chức
khác tiết ra khi có yếu tố kích thích. Yếu tố kích thích tiết renin là nồng độ muối
trong huyết tương và kích thích thụ thể  của adrenecgic. Khi renin được tiết ra
sẽ chuyển 2 globulin (được tổng hợp từ gan) gọi là angiotensinogen thành
angiotensin I (là peptid có 10 acid amin), theo máu đến tuần hồn phổi được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6

tách khỏi chất vận chuyển và cắt đi 2 acid amin nhờ coverting enzym ở phổi còn
lại 8 acid amin được gọi là angiotensin II có rất nhiều tác dụng [22]:
+ Trên mạch máu: Angiotensin II làm co các tiểu động mạch sát với mao
mạch nơi mà thành tiểu động mạch còn cơ trơn. Tác dụng co mạch của của
angiotensin II mạnh gấp 30 lần so với noradrenalin.
+ Kích thích lớp cầu của vỏ thượng thận làm tăng bài tiết aldosterol do tác
dụng lên enzym 20α hydroxylase, là enzym chuyển cholesterol thành 20α
hydroxy cholesterol, gây tăng giữ nước và giữ muối.
+ Kích thích trực tiếp lên ống thận làm tăng tái hấp thu natri.
+ Kích thích vùng postrema (diện sau cùng ở nền não thất IV) là vùng có
những tế bào nhạy cảm với tác dụng của angiotensin II, do đó làm tăng trương

lực mạch máu và làm tăng sức cản ngoại vi dẫn đến THA.
+ Kích thích các cúc tận cùng thần kinh giao cảm tăng bài tiết noradrenalin
và giảm sự tái nhập noradrenalin trở lại các cúc tận cùng.
+ Làm tăng tính nhạy cảm của noradrenalin đối với mạch máu.
Từ những hiểu biết trên ta thấy angiotensin II có tác dụng rộng khắp tồn
bộ hệ thống động mạch, làm tăng sức cản noại vi và tăng thể tích dịch lưu hành
là cơ sở THA.
- Giảm chất điều hoà HA: prostaglandin E2 và kali krein ở thận có chức
năng sinh lý là điều hoà huyết áp, hạ canxi máu, tăng canxi niệu khi chất này bị
ức chế hoặc thiếu gây THA.
- Vai trò của natri trong cơ chế bệnh sinh của THA: natri có vai trị trong
bệnh THA cả trên thực nghiệm và trong điều trị. Trong điều kiện bình thường các
hormon và thận sẽ hiệp đồng để thải natri làm cho lượng natri trong máu ổn
định. Hiện tượng ứ natri xảy ra khi lượng natri sẽ tăng giữ nước, hệ thống mạch
sẽ tăng nhạy cảm với angiotensin và noradrenalin [41].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7

Hệ thống cạnh tiểu cầu thận (và
một số các tổ chức khác)

Angiotensinogen
(2 globulin do gan sản xuất)

Renin

Angiotensin I
Converting anzyme
(ở tuần hoàn phổi)
Angiotensin II

Co động mạch

Kích thích vỏ th-ợng thận
tăng sản xuất aldosteron

Chất trung gian
Angiotensin III
Tăng tái hấp thu
muối và n-ớc

Tăng sức kháng của
động mạch ngoại vi

Tăng thể tích máu

Tăng huyết ¸p
Sơ đồ vai trị R.A.A trong tăng huyết áp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8


1.2.2. THA thứ phát
Bệnh nhân THA có nguyên nhân rõ ràng như:
- Bệnh thận ở nhu mơ thận đều có thể gây THA thứ phát. Cơ chế gây THA
do thận liên quan đến thể tích lịng mạch hoặc tăng hoạt động renin - angiotensin
- aldosteron, giảm sản xuất chất giãn mạch cần thiết (có thể là prostaglandin
hoặc bradykinin) giảm bất hoạt các chất giãn mạch hoặc kém thải trừ natri nên
natri bị giữ lại làm THA [36].
- THA do dị dạng động mạch thận: có khoảng 75% bệnh nhân hẹp động
mạch thận là do xơ vữa đặc biệt là bệnh nhân lớn tuổi, 25% còn lại do dị dạng
xuất phát từ lớp cơ (thường gặp ở đối tượng trẻ tuổi). THA do bệnh mạch thận là
do giảm tưới máu nhu mơ thận, do hẹp nhánh chính hoặc nhánh phụ động mạch
thận dẫn đến hoạt hoá hệ R.A.A, angiotensin II được giải phóng gây co mạch
trực tiếp [41].
- U tuỷ thượng thận là nguyên nhân hiếm gặp gây THA (chiếm tỷ lệ 1 - 2%
THA). Là khối u tế bào ưa crơm sản xuất và phóng thích ra lượng lớn
catecholamin (norepinephrine hoặc epinephrin hoặc cả hai) [36].
- Do cường aldosteron và hội chứng cushing: Hậu quả angiotensin II kích
thích làm tăng aldosteron gây giữ natri bằng cách kích thích sự trao đổi natri và
kali ở ống thận gây giữ nước làm tăng thể tích tuần hồn gây THA. Cường
aldosteron có thể do khối u hoặc quá sản vỏ thượng thận hai bên [41]. Cường
aldosteron tiên phát chiếm 0,3% tổng số bệnh nhân THA.
- Hẹp eo động mạch chủ: Chiếm khoảng 7% bệnh nhân tim bẩm sinh.
Đường kính động mạch chủ có thể bị nhỏ hoặc bị thắt ở trên bất kỳ vị trí nào của
động mạch nhưng hay gặp nhất ở đoạn dưới nơi xuất phát của động mạch dưới
đòn trái. Trong hẹp eo động mạch chủ gây THA ở chi trên trong khi lại hạ HA ở
chi dưới, HA ở chi trên cao hơn HA ở chi dưới  30 mmHg [36].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





9

- THA ở phụ nữ có thai: Bệnh THA xuất hiện nặng lên trong thời kỳ có
thai gây tử vong cho bà mẹ và thai nhi. Tỷ lệ tử vong của mẹ là 10%, của con là
33% [12].
- Sử dụng estrogen: Đây cũng là dạng phổ biến nhất của THA thứ phát. Cơ
chế do tăng hoạt động hệ R.A.A do estrogen kích thích tổng hợp angiotensin và
làm tăng angiotensin II làm cường aldosteron thứ phát. Trường hợp này chỉ xảy
ra ở 5% phụ nữ sử dụng thuốc và HA trở lại bình thường sau 6 tháng dừng thuốc
[8].
- Các nguyên nhân khác: THA kết hợp với tăng kali máu, bệnh to đầu chi,
tăng canxi máu do cường tuyến cận giáp.
1.3. Biểu hiện của bệnh tăng huyết áp
1.3.1. Lâm sàng
Bệnh nhân bị THA đa số đều khơng có triệu chứng gì cho tới khi phát hiện
ra bệnh. Hay gặp nhất đau đầu vùng chẩm và hai bên thái dương, ngoài ra có thể
có hồi hộp, mệt, khó thở, mờ mắt, tê đầu chi..., một số các triệu chứng khác tuỳ
thuộc vào nguyên nhân hoặc biến chứng của THA [36].
* Đo HA là động tác quan trọng nhất có ý nghĩa chẩn đoán xác định.
Phương pháp korotkoff dùng huyết áp kế thủy ngân hoặc các loại huyết áp kế
khác được chuẩn lại 6 tháng 1 lần. Số đo HA được đánh giá theo tiêu chuẩn của
Hội Tim mạch học Việt Nam như sau:
Tại phịng khám: Khi bệnh nhân có trị số HA  140/90mmHg. Sau khám lại
lâm sàng ít nhất 2 hoặc 3 lần khác nhau. Mỗi lần khám được đo ít nhất 2 lần [17].
Tại nhà khi đo nhiều lần đúng phương pháp THA có trị số HA >135/85
mmHg.
- Các dấu hiệu lâm sàng khác: Bệnh nhân có thể béo phì, mặt tròn, cơ chi
trên phát triển hơn cơ chi dưới trong hẹp eo động mạch chủ. Tìm các biểu hiện

vữa xơ động mạch trên da (u vàng, u mỡ…).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




10

- Khám tim phổi có thể phát hiện sớm dày thất trái hay dấu hiệu suy tim
trái. Sờ và nghe động mạch để phát hiện các trường hợp nghẽn hay tắc động
mạch cảnh.
- Khám bụng có thể phát hiện tiếng thổi tâm thu hai bên rốn, trong hẹp
động mạch thận, phồng động mạch chủ hoặc phát hiện thận to, thận đa nang.
- Khám thần kinh có thể phát hiện các tai biến mạch máu não cũ hoặc nhẹ.
1.3.2. Cận lâm sàng
Mục đích để đánh giá nguy cơ tim mạch, tổn thương thận và tìm nguyên
nhân.
1.3.2.1. Những xét nghiệm tối thiểu
* Máu: công thức máu, ure, creatinin, điện giải đồ, cholesterol toàn phần,
HDL - C, LDL - C, glucose, acid uric trong máu.
* Nước tiểu: protein, hồng cầu…
* Soi đáy mắt, điện tâm đồ, X quang tim, siêu âm tim…
1.3.2.2. Những xét nghiệm hay trắc nghiệm đặc biệt
* Đối với THA thứ phát hay THA khó xác định nghi ngờ có bệnh mạch
thận: chụp UIV nhanh, thận đồ.
* U tuỷ thượng thận định lượng catecholamin nước tiểu 24h
1.4. Tổn thƣơng cơ quan đích có thể gặp trong THA
- Tim: Suy tim và bệnh mạch vành là hai biến chứng chính và là nguyên nhân tử
vong cao nhất đối với THA: dày thất trái gây suy tim toàn bộ, suy mạch vành

gây nhồi máu cơ tim, phù phổi cấp...[12]. THA thường xuyên sẽ làm cho thất
trái to ra, về lâu dài, thất trái bị giãn; khi sức co bóp của tim bị giảm nhiều thì sẽ
bị suy tim, lúc đầu suy tim trái rồi suy tim phải và trở thành suy tim toàn bộ. Về
lâm sàng, lúc đầu người bệnh mệt mỏi, khó thở khi gắng sức, về sau với gắng
sức vừa cũng khó thở và đến giai đoạn cuối của bệnh thì khó thở cả khi đi ngủ.
Ngồi ra người bệnh cịn có da xanh, phù, tím tái…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




11

Về cận lâm sàng có các biểu hiện sớm trên điện tâm đồ như: thiếu máu cơ tim,
blook nhánh phải hồn tồn, blook nhánh phải khơng hồn tồn, tăng gánh thất
trái, ngoại tâm thu thất, dày thất trái…
- Não: Tai biến mạch máu não thường gặp như: nhũn não, xuất huyết não
có thể tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề. Có thể chỉ gặp tai biến mạch máu
não thoáng qua với các triệu chứng thần kinh khu trú không quá 24 giờ hoặc
bệnh não do THA với lú lẫn, hôn mê kèm co giật, nôn mửa, nhức đầu dữ dội
[12].
- Thận:
+ Vữa xơ động mạch thận sớm và nhanh.
+ Xơ thận gây suy thận dần dần.
+ Hoại tử dạng tơ huyết tiểu động mạch thận gây THA ác tính.
+ Giai đoạn cuối thiếu máu cục bộ nặng ở thận sẽ dẫn đến nồng độ renin và
angiotensin II trong máu tăng gây cường aldosteron thứ phát.
- Mạch máu: THA là yếu tố gây vữa xơ động mạch [65], phồng động
mạch chủ.

- Mắt: Soi đáy mắt có thể thấy tổn thương đáy mắt. Theo Keith-Wagener
Barker có 4 giai đoạn tổn thương đáy mắt [8]:
+ Giai đoạn I: Tiểu động mạch cứng và bóng
+ Giai đoạn II: Tiểu động mạch hẹp có dấu hiệu bắt chéo tĩnh mạch
(dấu hiệu Salus Gunn)
+ Giai đoạn III: Xuất huyết và xuất tiết võng mạc nhưng chưa có phù gai thị
+ Giai đoạn IV: Phù lan toả gai thị
1.5. Tình hình bệnh tăng huyết áp và các nghiên cứu bệnh THA ở một số
nƣớc trên thế giới
Bệnh THA trong cộng đồng ngày càng gia tăng và hiện tại đang ở mức
cao, đặc biệt các nước phát triển. Tại các nước phát triển có hình thái bệnh tật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




12

chuyển đổi từ các bệnh nhiễm trùng là chủ yếu sang các bệnh khơng nhiễm
trùng là chính, trong đó có bệnh THA. Điều tra tại Hoa Kỳ năm 1999 - 2000 trên
đối tượng là người trưởng thành cho thấy tỷ lệ HA bình thường là 39%, 31%
thuộc nhóm tiền THA và 29% là THA [57]. Tỷ lệ hiện mắc hiệu chỉnh theo tuổi
ở nam là 39% so với nữ 23,1%. Nhưng tỷ lệ THA ở nam chỉ cao hơn ở nữ lứa
tuổi trước tuổi 45. Ở độ tuổi 45 - 54, tỷ lệ THA ở nữ bắt đầu nhỉnh hơn ở nam
giới và ở các độ tuổi lớn hơn tỷ lệ THA ở nữ cao hơn nam [55]. THA được coi
là ngun nhân chủ yếu hoặc góp phần chính trong 11,4% các ca tử vong ở Mỹ
năm 2003. Trong vòng 10 năm (1993 - 2003), tỷ lệ tử vong do THA tăng 29,3%,
số ca tử vong tăng 56,1%. THA giai đoạn II trở lên (HA  160/95 mmHg) làm
tăng nguy cơ đột quỵ thêm 4 lần so với người có HA bình thường [51]. THA

cũng tăng nguy cơ phát triển suy tim ứ huyết 2 - 3 lần. Năm 1999 - 2000 có tới
37,5 triệu lượt bệnh nhân phải đi khám vì THA tại Mỹ. Ước tính chi phí trực
tiếp và gián tiếp cho THA năm 2003 đã lên tới 65,3 tỷ USD [57].
Đã có nhiều nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới về bệnh THA ở
người trưởng thành: tại Canada (1995) tỷ lệ THA là 22%, Mêhicô (1998) 19,4%;
Tây Ban Nha (1996) 30%; Cu Ba (1998) 44%; Trung Quốc (2001) 27%; Thái
Lan (2001) 20,5%; Singapore (1998) 26,6%; Châu Phi (2007) 21,3% [60]. Một
nghiên cứu ở Brasil, với nhóm tuổi từ 20 đến 69 tuổi có tỷ lệ THA là 23,6% [56].
Kiểm sốt huyết áp có hiệu quả cũng làm giảm tỷ lệ tử vong và biến
chứng của các bệnh tim mạch. Tuy vậy, tỷ lệ kiểm soát tốt huyết áp bằng thuốc
trên thế giới chỉ đạt từ 25 - 40%. Điều trị thuốc hạ áp tích cực cho phép giảm số
đo huyết áp tâm thu 6,3 mmHg so với nhóm chứng khơng dùng thuốc hạ áp tích
cực, hơn nữa nhóm chứng khơng dùng thuốc hạ áp tích cực lại làm tăng số đo
HA thêm 4,8 mmHg. Các mơ hình như bệnh nhân tự theo dõi HA, nhân viên y
tế theo dõi phải được xây dựng và đánh giá thêm. Giáo dục truyền thống trực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13

tiếp cho người bệnh hoặc thầy thuốc đơn thuần không có tác dụng đáng kể trong
việc làm giảm số đo HA ở bệnh nhân THA.
Phân tích tổng hợp khác trên các thử nghiệm phòng tiên phát bệnh mạch
vành cho thấy: thay đổi các nguy cơ về lối sống (hút thuốc, chế độ luyện tập thể
lực thường xuyên, chế độ ăn) dù không thay đổi đáng kể tử lệ tử vong chung và
tử vong riêng do bệnh động mạch vành song đã có tác dụng làm giảm HA tâm
thu xuống 3,9 mmHg (95% CI: 3,6 - 4,2); giảm HA tâm trương xuống 2,9

mmHg (95% CI: 2,7 - 3,1) thêm ngoài tác dụng của thuốc hạ áp. So sánh việc
dùng thuốc tích cực, thay đổi lối sống đơn thuần cũng đã đạt hiệu quả tương tự
50% khi dùng thuốc. Hơn nữa phân tích này cũng cho thấy các biện pháp can
thiệp yếu tố nguy cơ thông quan tư vấn giáo dục đến từng cá nhân người THA
hay đến từng hộ gia đình có hiệu quả nhiều hơn trong việc giảm các yếu tố nguy
cơ và cũng dẫn đến giảm tỷ lệ tử vong ở nhóm bệnh nhân THA có nguy cơ cao.
Như vậy, để quản lý và giám sát bệnh THA hiệu quả ở cộng đồng, cần
phối hợp việc điều trị thuốc hạ áp với những biện pháp can thiệp các yếu tố nguy
cơ THA nhằm thay đổi các hành vi lối sống theo chiều hướng có lợi cho người
THA. Điều kiện quyết định là phải nâng cao nhận thức, tìm hiểu các rào cản
trong suy nghĩ và thực hành của người dân để có thể xây dựng, thay đổi và điều
chỉnh các biện pháp giáo dục sức khoẻ phù hợp và có hiệu quả với từng địa
phương. Vậy cần phải có nhiều nghiên cứu về bệnh tăng huyết áp và các yếu tố
liên quan ở nhiều địa phương khác nhau để có thể đưa ra những kế hoạch chiến
lược, cũng như kế hoạch chi tiết cho chương trình phịng chống bệnh tăng huyết
áp tại các địa phương.
1.6. Nghiên cứu về bệnh tăng huyết áp ở Việt Nam
Theo điều tra năm 1982, tỷ lệ THA chung là 1,95% và ở người trên 60
tuổi tỷ lệ THA là 9,2% [30].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




14

Năm 1999, theo điều tra của Phạm Gia Khải và cộng sự, tỷ lệ THA là
16,05% [23]. Năm 2002, theo điều tra của Viện Tim mạch trung ương, tỷ lệ
THA là 23,2% [26].

Theo số liệu điều tra y tế quốc gia năm 2001 - 2002 của Việt Nam, tỷ lệ
tăng huyết áp ở nam giới từ 16 tuổi trở lên là 15,1% và nữ giới là 13,5% [4].
Điều tra của Viện Tim mạch Việt Nam về tần suất THA và các yếu tố
nguy cơ tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam năm 2001 - 2002 (trên 5012 người) cho
thấy tần suất THA ở người trưởng thành là 16,5%; trong đó THA độ 1, độ 2, độ
3 lần lượt là 10,2%; 4,2% và 1,9%. Tỷ lệ được điều trị thuốc hạ áp chỉ chiếm
11,5%, trong số đó kiểm sốt HA tốt (đưa HA về bình thường) chỉ chiếm 19,1%
[26]. Các yếu tố nguy cơ bao gồm: tuổi cao, giới nam, chỉ số khối cơ thể tăng,
béo bụng, chỉ số vòng bụng/vòng mông tăng, rối loạn đường máu, rối loạn mỡ
máu, uống nhiều rượu, tiền sử gia đình huyết thống trực hệ có người THA. Yếu
tố liên quan mạnh nhất đến THA là tuổi và mức độ béo phì. Tỷ lệ người dân
hiểu biết đúng tất cả các yếu tố nguy cơ chỉ chiếm 23% (18,8% nông thôn so với
29,5% ở thành thị), trong khi hiểu biết sai về các yếu tố nguy cơ chiếm hơn 1/3
dân số (44,1% ở nông thôn so với 27,1% ở thành thị) [26].
Theo điều tra mới nhất một nghiên cứu của Trường Đại học Y- Dược Thái
Nguyên, cho thấy tỷ lệ THA ở vùng nông thôn Thái Nguyên cũng rất cao chiếm
tỷ lệ 33,3% (đối với đối tượng từ 18 tuổi trở lên) [18].
THA và các yếu tố nguy cơ (nhất là các yếu tố lối sống, vốn có thể thay
đổi được) đã trở thành vấn đề cần giải quyết không những chỉ bằng thuốc điều
trị kiểm soát HA, mà cần hàng loạt các biện pháp giáo dục truyền thông sức
khoẻ nhằm vào các yếu tố nguy cơ đặc biệt là các yếu tố nguy cơ về lối sống có
khả năng thay đổi theo chiều hướng tích cực có lợi cho bệnh nhân bị THA.
Tình trạng quản lý bệnh nhân THA ở Việt Nam, cho đến nay chưa có hệ
thống quản lý và dự phịng đối với bệnh THA. Các hoạt động y tế mới chỉ tập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





15

trung vào công tác điều trị bệnh nhân tại các bệnh viện, chưa có mơ hình dự
phịng, ghi nhận và quản lý bệnh THA tại cộng đồng. Công tác tuyên truyền
bệnh THA tại cộng đồng chưa sâu rộng, các hoạt động điều tra dịch tễ, đào tạo
cán bộ cho công tác phòng chống THA tại các cơ sở còn nhiều hạn chế nên việc
nghiên cứu thực trạng bệnh THA và các yếu tố liên quan ở các địa phương là rất
cần thiết cho phòng và chống bệnh THA ở cộng đồng.
1.7. Một số nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về rối loạn chuyển hoá và các
yếu tố liên quan đến bệnh THA
1.7.1. Tăng glucose máu
Bệnh đái tháo đường hay đi cùng với bệnh tăng huyết áp. Người ta thấy
khoảng 30 -50% bệnh nhân đái tháo đường bị tăng huyết áp, những bệnh nhân
này thường béo. Ngược lại, xét nghiệm glucose máu thấy tăng cao ở 1/3 số bệnh
nhân tăng huyết áp [10].
Năm 1976, Berghen và cộng sự cũng nhận thấy sự gia tăng insulin khi đói
và sau khi uống 100g glucose ở bệnh nhân THA chưa điều trị. Năm 1987,
Ferranini và cộng sự lần đầu tiên đã chứng minh ở người trẻ bị tăng huyết áp
chưa điều trị với trọng lượng và sự dung nạp glucose bình thường có sự kháng
insulin ở mô ngoại biên và liên quan đến mức độ tăng huyết áp. Năm 1988, Shen
và cộng sự so sánh sự đáp ứng glucose, insulin ở người huyết áp bình thường
với người bệnh tăng huyết áp chưa điều trị và tăng huyết áp được điều trị. Kết
quả cho thấy ở các bệnh nhân THA này có tình trạng kháng insulin [trích dẫn 5].
Người ta đã dễ dàng nhận thấy một tỷ lệ đáng kể các bệnh nhân tăng
huyết áp có kháng insulin và tăng insulin máu, nhưng cũng chưa chắc đây là
quan hệ nhân quả. Sự kháng insulin hay gặp ở những bệnh nhân đái tháo đường
typ 2 hoặc béo phì. Hai bệnh này gặp nhiều trong những người bị tăng huyết áp
hơn những người có huyết áp bình thường. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





16

chứng minh rằng tăng insulin máu và kháng insulin có cả ở những bệnh nhân:
THA, gầy và không bị đái tháo đường [23].
Một số nghiên cứu ở Việt Nam cũng cho thấy bệnh đái tháo đường có tỷ
lệ cao hơn ở những người THA. Huỳnh Văn Minh nghiên cứu 181 người tại Huế
gồm 73 người huyết áp bình thường: 33 người dưới 40 tuổi (18%), 40 người trên
40 tuổi (22%) và 108 trường hợp bị THA (60%). Kết quả có sự gia tăng nồng độ
insulin khi đói và nhất là 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp glucose ở bệnh nhân
THA. Sự gia tăng này cao hơn so với nhóm chứng có huyết áp bình thường. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,001, trong khi nồng độ đường máu ở hai
nhóm khơng có sự khác biệt (p> 0,05). Điều này cho phép kết luận rằng: có sự
cường insulin máu, biểu thị sự kháng insulin, một yếu tố nguy cơ mới ở bệnh
nhân THA. Tần suất cường insulin máu và kháng insulin ở bệnh nhân THA
nguyên phát là 41,7% trong đó 30,5% được phát hiện mà khơng cần nghiệm
pháp dung nạp glucose [35].
Phạm Tử Dương điều tra 219 bệnh nhân THA trên 4693 người tại Hà Nội
trong 5 năm (1994-1998) thì có 5 trường hợp đái tháo đường (2,3%) [10].
Trương Thanh Hương nghiên cứu 38 bệnh nhân THA điều trị ngoại trú
tại Viện Tim Mạch từ tháng 6/1995 đến tháng 3/1996 thấy mức glucose máu lúc
đói lớn hơn 7,77 mmol/l có 1/38 ca = 3% [21].
Năm 1998, Nguyễn Thị Dung nghiên cứu 1160 bệnh nhân THA tại bệnh
viện Việt Tiệp, trong số 79,3% trường hợp xét nghiệm đường máu lúc đói có
14,5% số trường hợp bị đái tháo đường (glucose máu tĩnh mạch lúc đói >7,8
mmol/l) [9].
Phạm Gia Khải nghiên cứu 571 người THA tại Hà Nội trong 2 năm

(1998-1999) thì có 17 trường hợp đái tháo đường, chiếm 2,97% [23].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




17

1.7.2. Rối loạn lipid máu
Được gọi là rối loạn lipid máu khi có rối loạn một hoặc nhiều thành phần
sau: tăng cholesterol toàn phần, tăng triglycerid, tăng LDL-C, giảm HDL-C,
giảm apoprotein AI, tăng apoprotein B [11].
Chẩn đoán rối loạn lipid máu khi:
- Cholesterol toàn phần:

> 5,2 mmol/l

- Triglycerid :

> 2,3 mmol/l

- HDL- C:

< 0,9 mmol/l

- LDL- C:

> 3,12 mmol/l.


Nghiên cứu về các mức lipid máu ở những trường hợp THA khơng có tai
biến. Một phân tích lượng lipid máu tại chỗ trên 3182 bệnh nhân không bị đái
tháo đường, chưa có biến chứng (2425 nữ và 757 nam) có mặt ở thành phố
Patna - Ấn Độ trong khoảng từ 1992 - 1998, được so với nhóm chứng có 4131
người. Kết quả: cholesterol tồn phần trung bình có tăng nhẹ ở những người có
THA (191,8 mg/dl) so với nhóm chứng (190,1 mg/dl) (p ≤0,05) và tỷ lệ
cholesterol HDL toàn phần trung bình cũng cao hơn (4,65 so với 4,48) ở những
người THA (p<0,05), 1069 (chiếm 33,6%) bệnh nhân có cholesterol ở mức lớn
hơn 200 mg/dl trong khi ở 850 (chiếm 26,7%) có lượng triglycerid vượt quá 200
mg/dl ở những người trong nhóm có THA. Tỷ lệ cholesterol HDL tồn phần
khơng bình thường (>4,5) xuất hiện trong 1600 (50,3%) người có THA; kết quả
này đã chỉ ra rằng tỷ lệ cholesterol HDL tồn phần khơng bình thường là phổ
biến ở hầu hết những người THA chưa biến chứng có rối loạn lipid máu ở mức
độ khác nhau [67].
Thực tế cho thấy rằng THA động mạch và tăng cholesterol máu thường
được phối hợp với sinh bệnh học về gen. Điều này làm cho nguy cơ bệnh tim
mạch tăng lên theo cấp số nhân ở những bệnh nhân này. Vì vậy cần phải thấy
được tầm quan trọng của tăng lipid máu ở những bệnh nhân THA.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




18

Năm 1998, ở Việt Nam nghiên cứu trên 118 bệnh nhân bị bệnh tim mạch
cho thấy cholesterol tăng trong 44% bệnh nhân nhồi máu cơ tim, 51,9% số bệnh
nhân tăng huyết áp, triglycerid tăng trong 24% và 40,4%, apoprotein B tăng
trong 92% và 75%, HDL- C giảm trong 68% và 67,3%, apoprotein AI giảm

trong 80% và 71,1% [11]. Nghiên cứu 144 bệnh nhân tăng huyết áp cho thấy:
khi xét nghiệm sinh hố lipid máu: 37,2% có tăng cholesterol máu; 25% tăng
triglycerid máu; 33,6% có giảm HDL-C [33].
1.7.3. Béo phì
Béo phì là hậu quả của tình trạng mất cân bằng năng lượng, trong đó năng
lượng ăn vào vượt quá năng lượng tiêu hao trong một thời gian dài. Béo phì
ngày càng phổ biến ở trên thế giới, cũng như ở Việt Nam. Hiện nay số người
mắc béo phì trên tồn cầu đã vượt quá 250 triệu, chiếm 7% dân số người trưởng
thành trên thế giới. Các nước ở Đông Âu, Tây Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ tỷ lệ béo
phì đã lên trên 20%. Ở các nước phát triển tỷ lệ người béo phì cũng đang có xu
hướng tăng nhanh. Ở Việt Nam tỷ lệ thừa cân (BMI ≥ 23) ở nam giới trưởng
thành là 10,1% và ở nữ giới trưởng thành là 13,2% [3].
Béo phì rất có hại cho tim mạch vì hay dẫn đến THA và xơ vữa động
mạch, cuối cùng dẫn đến rút ngắn tuổi thọ rõ rệt. Nhiều nghiên cứu cho thấy
béo phì có tương quan thuận với huyết áp. Tỷ lệ THA tăng theo mức độ béo phì,
tỷ lệ THA tăng dần theo mức độ thừa cân ở cả nam và nữ giới. Người béo phì độ
II có tỷ lệ THA từ 33% - 39% so với người tiền béo phì tỷ lệ THA chiếm 17% - 24% [26].
Phạm Gia Khải và cộng sự điều tra 7610 người tại Hà Nội từ tháng 4/1998
đến tháng 4/1999 thấy chỉ số BMI trung bình của quần thể nghiên cứu là 20,09 
2,72. Nhóm BMI từ 22 trở lên đã có nguy cơ THA [23].
Tại Nam Phi, tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố: trọng
lượng, chiều cao, vịng mơng và vịng bụng tới THA (điều tra trên 431 sinh viên)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




19


Kết quả cho thấy: 18% sinh viên bị tăng cân (BMI 25 - 29,9), 6,5% béo phì
(BMI  30) và 26,8% giảm cân. HA, BMI, WHR, WC đều tăng đáng kể cùng
với tuổi. Chỉ 1,6% sinh viên có THA, 1% hút thuốc lá và 4,4% nghiện hút.
Nghiên cứu cho thấy BMI, WC và WHR có mối tương quan với HA và tuổi [66].
Gus, Moreira và cộng sự (Brazil - 1998) nghiên cứu sự liên quan giữa
BMI, WHR và chu vi vòng bụng với tỷ lệ THA trong một mẫu đại diện 1088
người trưởng thành ở Porto Alegre - Brazinl. Tiêu chuẩn được gọi là béo bệu
khi: hoặc BMI  27 (cho cả hai giới); hoặc WHR  0,95 (với nam) và  0,80
(với nữ); hoặc WC  96cm (với nam) và  92 cm (với nữ). Kết quả nghiên cứu
cho thấy: béo phì tính theo BMI có sự liên quan với THA ở cả hai giới [58].
Một số nghiên cứu khác cũng nhận thấy béo phì có mối liên quan với các
mức HA. Nguy cơ THA ở người thừa cân, béo phì cao gấp 2 lần so với người
bình thường và cao gấp 3 lần so với người nhẹ cân [9], [23], [30].
Tại Việt Nam, trong một nghiên cứu của Phạm Gia Khải và cộng sự,
WHR  0,80 có nguy cơ tương đối liên quan chặt chẽ (theo chiều thuận) với
THA. Điều này có nghĩa là: vịng bụng càng to thì nguy cơ THA càng cao [23].
Ngồi ra, trên các đối tượng béo phì có sự thay đổi bất lợi về các chỉ số sinh hố
như tăng lipid máu tồn phần, tăng cholesterol ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ [3].
Ở những người béo phì có THA, chỉ cần giảm 5 kg là HA đã giảm nhiều. Người
ta tính rằng, nếu giảm 10 kg thì HA tâm thu có thể giảm từ 5 đến 20 mmHg,
đồng thời cịn có nhiều lợi ích khác như giảm tỷ lệ mắc đái tháo đường, hạ lipid máu...
1.7.4. Thói quen hút thuốc lá
Khói thuốc lá chứa hơn 4000 loại hố chất. Trong đó có hơn 200 loại hố
chất có hại cho sức khoẻ. Nicotin là chất có trong thuốc lá. Nicotin được hấp thụ
qua da, niêm mạc miệng, mũi hoặc hít vào phổi. Khi hút một điếu thuốc, người
hút đưa vào cơ thể từ 1 đến 2 mg nicotin. Nicotin có tác dụng chủ yếu làm co
mạch ngoại biên, làm tăng nồng độ serotonin, catecholamin ở não, tuyến thượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





20

thận làm THA [3]. Hút một điếu thuốc lá, HA tâm thu có thể tăng lên tới 11
mmHg, HA tâm trương tăng lên đến 9 mmHg, kéo dài 20 – 30 phút. Hút thuốc
nhiều có thể có cơn THA kịch phát [12]. Một nghiên cứu trên công nhân viên
nhà máy thuốc lá, nơi chịu đựng bụi và khói thuốc lá nhiều thấy tỷ lệ bệnh THA
cao hơn rõ rệt [26].
Monocit carbon (khí CO) có nồng độ cao trong khói thuốc và được hấp
thụ vào máu, nó gắn với hemoglobin với lực mạnh hơn 20 lần so với ô xy [3], do
đó làm giảm lượng ơ xy chuyển đến các bộ phận trong cơ thể, gây thiếu máu và
góp phần hình thành các mảng vữa xơ động mạch. Vì vậy, hút thuốc lá là một
nguy cơ tiềm tàng dẫn đến phát triển bệnh xơ vữa động mạch. Mặc dù không
phải là một nguyên nhân THA song đây cũng là một yếu tố đe doạ quan trọng
đến bệnh THA. Nguy cơ mắc bệnh mạch vành ở người THA có hút thuốc lá cao
hơn 50 - 60% so với những người THA không hút thuốc lá [29].
Tại Việt Nam, trong một nghiên cứu về dịch tễ học bệnh THA kết quả cho
thấy: ở nhóm người hút thuốc lá nhiều (trên 8 điếu/ngày) có tỷ lệ THA cao hơn
hẳn nhóm khơng hút thuốc lá, nhưng nếu hút thuốc lá dưới 8 điếu/ngày thì tỷ lệ
THA giữa nhóm có hút thuốc lá và nhóm khơng hút thuốc là khơng có sự khác
biệt rõ ràng [53].
Năm 1998 - 1999, Phạm Gia Khải và cộng sự tại Hà Nội đã tiến hành
nghiên cứu trên các đối tượng nghiện thuốc lá, có 1450 người chiếm tỷ lệ
19,03% (nam: 1399 người chiếm 96,48%; nữ 51 người chiếm 3,51%). Số điếu
hút trung bình là 22,14  4,7 điếu/ngày tức khoảng 1 bao (20 điếu)/ngày/người.
Tỷ lệ THA chung ở nhóm những người nghiện thuốc lá là 15,86% [23].
Hút thuốc làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch lên gấp 2-3 lần [3]. Khi
hít khói thuốc vào cơ thể sẽ gây ra một số tác động ngay lập tức lên tim và mạch
máu. Khói thuốc gây THA cấp tính và THA dao động. Hút thuốc còn giảm tác

dụng của các thuốc điều trị THA [29].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×