Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn rèn luyện kĩ năng học và khai thác kiến thức địa lí trên bản đồ ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.11 MB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. Đặt vấn đề

2

I. Cơ sở lý luận

2

II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

3

1.Thực trạng

3

2. Kết quả quả thực trạng trên

3

3. Phương pháp tiến hành

4

B. Giải quyết vấn đề

4

I. Các giải pháp thực hiện



4

II. Biện pháp tổ chức thực hiện
1. Rèn luyện kĩ năng nhận biết, chỉ và đọc các đối tượng Địa lí
trên bản đồ

5

2. Rèn luyện kĩ năng mơ tả các đối tượng Địa lí trên bản đồ

10

III. Kết quả, hiệu quả của biện pháp trên.

19

C.Kết luận

20

I. Kế hoạch cụ thể

20

II. Đề xuất

20

1



A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.

Địa lý là ngành khoa học có phạm trù rộng lớn và mang tính ứng dụng.
Học tập và giảng dạy và nghiên cứu Địa lí địi hỏi có những kĩ năng nhất định.
Trong số các kĩ năng Địa lí, có những kĩ năng cơ bản được vận dụng phổ biến
trong học tập và nghiên cứu Địa lí. Những kĩ năng này được trang bị và rèn
luyện ngay trong quá trình học tập Địa lí ở nhà Trường phổ thơng nhằm giúp
người học dễ dàng tiếp thu kiến thức, hiểu biết sâu sắc, nâng cao trình độ tư duy,
khả năng thực hành Địa lí và phục vụ cho các kỳ thi, đặc biệt là kỳ thi đối với
những lớp cuối cấp.
Tuy nhiên việc rèn luyện kĩ năng Địa lí trong q trình giảng dạy trong
nhà trường khơng phải là sự tóm tắt nội dung tri thức của khoa học Địa lí. Ngồi
những tri thức Địa lí mà mơn học này cịn bao gồm nhiều trí thức khác giúp việc
học tập, nâng cao hiểu biết thêm về những kiến thức tự nhiên, KT - XH và những
kĩ năng về bản đồ mà không một môn học nào đề cập tới.
Rèn luyện kĩ năng học và khai thác bản đồ không những giúp cho học sinh
lĩnh hội được kiến thức Địa lí một cách nhẹ nhàng, nhanh chóng và ghi nhớ lâu
bền mà cịn là một phương tiện đặc biệt quan trọng để phát triển năng lực tư duy
nói chung và năng lực tư duy Địa lí nói riêng. Trong khi tập sử dụng bản đồ, học
sinh phải ln ln quan sát, tưởng tượng, phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng
hợp, khái quát hoá, xác lập các mối liên hệ Địa lí tư duy của các em luôn luôn
hoạt động và phát triển.
Vậy rèn luyện kĩ năng học và khai thác bản đồ cho học sinh khơng phải
ngày một, ngày hai mà cả một q trình lâu dài, phức tạp, liên tục từ lớp này qua
lớp khác, địi hỏi nhiều cơng sức và sự phố hợp chặt chẽ giữa các lớp nhằm đạt
được mục tiêu cuối cùng là biết sử dụng bản đồ như là một nguồn cung cấp kiến
thức mới ở Trường phổ thông.

Cương vị là một giáo viên giảng dạy ở Trường phổ thông bản thân tôi
cũng rất băn khoăn về việc rèn luyện kĩ năng bản đồ cho học sinh đặc biệt phù
hợp với đối tượng học sinh cũng như phù hợp với phát triển về KT - XH thế giới
bùng nổ về công nghệ thông tin.Thực vậy, với khuôn khổ đề tài này tơi khơng có

2


tham vọng đề cập tới tất cả các kĩ năng bản đồ của tất cả các loại bản đồ trong
dạy học Địa lí ở Trường phổ thơng.
Bản thân là giáo dạy bộ mơn Địa lí tơi đã mạnh dạn nêu một số kinh
nghiệm về kĩ năng bản đồ trong giảng dạy bộ mơn Địa lí ở Trường Nguyễn Thị
Lợi để nhằm giúp học sinh khai thác kiến thức Địa lí có hiệu quả với đề tài:
“Rèn luyện kĩ năng học và khai thác kiến thức Địa lí trên bản đồ ở
Trường THPT”.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

1. Thực trạng.
Trong q trình giảng dạy bộ mơn Địa lí trong nhà Trường THPT, tôi nhận
thấy rằng việc khai thác kiến thức từ bản đồ, kĩ năng đọc, mô tả các đối tượng
Địa lí trên bản đồ của học sinh cịn rất nhiều hạn chế số lượng học sinh có kĩ
năng khai thác kiến thức từ bản đồ không nhiều. Đa số học sinh cịn xem nhẹ
việc học Địa lí từ bản đồ và việc khai thác kiến thức từ bản đồ là không cần thiết,
các em chỉ cần nhớ máy móc những kiến thức thầy cơ giảng bằng kênh chữ và
cứ như thế các em sẽ nhớ kiến thức không sâu, một thời gian không lâu sẽ quên
ngay. Đây là một thực tế không thể phủ nhận được.
Từ thực tế như hiện nay tơi đã cố gắng tìm ra phương pháp giảng dạy học
sinh phù hợp để học sinh có thể nắm kiến thức ghi nhớ lâu hơn và việc khai thác
kiến thức từ bản đồ trở thành kĩ năng, kĩ xảo trong mỗi học sinh.
2. Kết quả của thực trạng trên.

Là một giáo viên giảng dạy bộ Địa lí tôi đã cố gắng sưu tầm các tài liệu,
các loại bản đồ nhằm mục đích soạn thảo giáo án điện tử, sử dụng bản đồ treo
tường lập át lát Địa lí để bài học thêm sinh động, học sinh có thể khắc sâu kiến
thức hơn. Tuy nhiên tôi đã không ngừng học hỏi từ các đồng nghiệp và áp dụng
một số biện pháp nhằm cải thiện và khắc phục phương pháp dạy học truyền
thống từ trước nhằm nâng cao chất lượng học tập, đồng thời đó cũng là cách đổi
mới phương pháp trong việc dạy và học môn này.
Qua thực tế tôi nhận thấy kết quả thu được tương đối khả quan kể cả giáo
viên và học sinh đều nhận thấy rằng việc rèn luyện kĩ năng học và khai thác kiến
thức từ bản đồ cho học sinh là rất cần thiết. Từ đó học sinh có thể nhận biết, đọc

3


và mô tả khai thác tri thức từ bản đồ một cách dễ dàng. Từ thực tế như vậy tôi
xin được rút ra một vài kinh nghiệm nhỏ.
Do điều kiện, thời gian, nhiệm vụ chuyên môn và khuôn khổ đề tài tôi áp
dụng, tổng hợp thành kinh nghiệm trên cơ sở giảng dạy bộ mơn Địa lí ở Trường
THPT Nguyễn Thị Lợi. Để từ đó rèn luyện cho các em những kĩ năng học và
khai thác kiến thức trên bản đồ để học sinh chủ động hơn trong việc lĩnh hội tri
thức.
3. Phương pháp tiến hành.
Quá trình giảng dạy các bước như sau:
Bước 1: Phát hiện những hạn chế của học sinh khi học bộ mơn Địa lí.
Bước 2: Áp dụng biện pháp cụ thể và sử dụng những hình ảnh minh họa
để kích thích những học sinh nhằm khắc phục những hạn chế của học sinh.
Bước 3: Tổng hợp, đúc rút thành kinh nghiệm, biện pháp cụ thể.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.


Việc rèn luyện kĩ năng học và khai thác kiến thức Địa lí trên bản đồ giúp
cho học sinh lĩnh hội được kiến thức Địa lí một cách nhẹ nhàng, nhanh chóng và
ghi nhớ lâu bền. Chẳng hạn khi học về vị trí Địa lí của một châu lục, nếu chỉ
nghe một cách thụ động mà giáo viên mơ tả thì khó mà lĩnh hội và ghi nhớ được,
nhưng nếu tự mình được xác định trên bản đồ các điểm cực Bắc, cực Nam, cực
Đơng, cực Tây, tìm xem có những đại dương, những biển những vịnh nào bao
quanh, những châu lục nào tiếp cận…thì học sinh sẽ hiểu được ngay và nhớ
được lâu hơn vì đã qua một quá trình suy nghĩ, tìm tịi, đối chiếu phân tích, so
sánh. Cách học tập tích cực chủ động như vậy, năm nay qua năm khác ở nhà
Trường phổ thông, chẳng những phương pháp học tập nghiên cứu Địa lí. Những
kiến thức về Địa lí đại cương lĩnh hội gắn với bản đồ dần dần sẽ hình thành nên
trong kí ức của các em một cái “nền” vững chắc trên đó sẽ được bồi bổ thêm
những kiến thức mới mà các em tiếp thu được trong học tập và trong cả đời
sống.
Rèn luyện kĩ năng bản đồ phải qua nhiều bước, từ đơn giản đến phức tạp,
từ thấp lên cao. Cụ thể là qua 5 bước sau đay:

4


- Rèn luyện kĩ năng nhận biết, chỉ và đọc trên các đối tượng, Địa lí trên
bản đồ.
- Rèn luyện kĩ năng xác định vị trí Địa lí, mơ tả từng yếu tố thành phần
của tự nhiện, KT – XH, chính trị được biểu hiện trên bản đồ.
- Rèn luyện kĩ năng xác định phương hướng, đo đạc bản đồ.
- Rèn luyện kĩ năng xác định các mối liên hệ Địa lí trên bản đồ
- Rèn lun kĩ năng mơ tả tổng hợp Địa lí một khu vực
II. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN.

Tuỳ theo đặc thù từng bài học, từng phần trong bài học cụ thể mà giáo

viên có thể chọn bản đồ phù hợp với nội dung bài học để nhằm khai thác sử dụng
đúng mục đích đạt hiệu quả cao. Ngồi ra giáo viên cần phải có kiến thức về lĩnh
vực tin học một cách thành thạo để thao tác soạn giáo án điện tử một cách dễ
dàng hơn và sử dụng tối đa các bản đồ đã có trong nhà trường nhằm nâng cao kĩ
năng bản đồ cho học sinh.
Sau đây tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kĩ năng bản đồ trong dạy học địa
lí ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi
1. Rèn luyện kĩ năng nhận biết chỉ đọc các đối tượng Địa lí trên bản
đồ.
Các đối tượng Địa lí được biểu hiện trên bàn đồ thuộc nhiều loại: tự nhiên,
KT-XH có những đối tượng biến đổi rất chậm không đáng kể (các đối tượng Địa
lí tự nhiên) bên cạnh đó có các đối tượng Địa lí biến động rõ ràng, nhanh chóng
(đối tượng Địa lí KT - XH) chính vì thế mà rèn luyện cho học sinh kĩ năng, xác
định trên cái “nên tự nhiên đó các đối tượng Địa lí thộc những loại khác nhau”.
Kĩ năng nhận biết và đọc các đối tượng Địa lí trên bản đồ đơn giản, nhưng
rất cơ bản. Chính trên cơ sở nắm chắc kĩ năng này mà học sinh sẽ rèn luyện các
kĩ năng khác một cách thuận lợi hơn.
Vậy cách thức tiến hành mà trước hết giáo viên cần phải phát âm rõ ràng,
rành mạch địa danh vừa chỉ trên bản đồ, học sinh theo dõi trên bản đồ treo tường,
đối chiếu với lược đồ và SGK hoặc bản đồ trong át lát để tìm ra đối tượng, sau
đó giáo viên tiếp tục viết rõ ràng và bằng chữ to địa danh lên bảng vào một góc
riêng rồi phát âm lại một cách thong thả và chỉ định một vài nhắc lại, sau đó học

5


sinh ghi vào vở Địa lí. Qua đó học sinh vừa nghe, vừa nhận, vừa phát âm, vừa
viết, các giác quan đều hoạt động nên địa danh dễ được.
Ghi vào trí nhớ. Như vậy chúng ta mới chỉ đạt yêu cầu là làm cho hoạc
sinh đọc đúng và ghi nhớ địa danh.

Bước tiếp theo và cũng rất khó khăn là học sinh chỉ xem bản đồ và làm thế
nào để nhận biết và tìm ra đối tượng địa lí cần phải chỉ. Để giúp cho học sinh
nhận biết và tìm ra được dễ dàng các đối tượng địa lý trên bản đồ thì giáo viên
cho học sinh nắm được điểm hình thù hoặc kích thước của đối tượng vằ đặt câu
hỏi:
Giống cái ghì? Chẳng hạn, bán đảo Xcăngđinavi có hình thù như một con
hổ, bán đảo Apenin cùng với đảo xixin giống như một chiếc ủng, bán đảo
Camsatka như chiếc đuôi của con cáo, Grơnlen là đảo lớn nhất thế giới và có
băng quanh năm, Việt Nam có hình chữ S. Liên Bang Nga là lãnh thổ lớn nhất
thế giới…

6


7


Tuy nhiên không phải là tất cả các đối tượng địa lí đều có những đặc điểm
dễ nhận thấy như vậy. Vì thế biện pháp trên cũng rất hạn chế.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy khi tách riêng một đối tượng địa lí và vẽ
lên bảng hoặc trên giấy, chẳng hạn một con sơng, một hịn đảo, một cái hồ, thì
học sinh rất khó nhận ra. Sở dĩ như vậy là vì khi tri giác một đối tượng địa lí trên
bản đồ, người ta ln ln gắn nó với các đối tượng khác ở xung quanh, nó ln
được tri giác trong mối quan hệ với các đối tượng khác, trong “mơi trường riêng”
của nó. Tách nó ra và biểu hiện nó một cách riêng lẻ thì nó sẽ trở nên khó nhận
ra.
Ví dụ: Khi quan sát sơng Vơnga trên bản đồ, hình ảnh của nó luuon ln
gắn với tồn bộ hệ thống các sơng nhánh của nó, với đồng bằng Nga nơi nó chảy
qua, với biển Catxpi nơi của sơng v.v… Nếu tách riêng sông Vônga ra nvà vẽ lên
bảng hoặc trên giấy chắc chắn nhiều người sẽ không nhận ra.

Từ thực tiễn trên đây, có thể đi đến kết luận là để có thể dễ dàng nhận biết
và tìm ra một đối tượng địa lí trên bản đồ thi học sinh khơng phải chỉ biết dựa
vào đặc điểm hình thù, kích thước của nó mà cịn phải dựa vào tồn bộ khung
cảnh xung quanh, nhận rõ vị trí của nó trong khung cảnh đó. Chẳng hạn, muốn
nhận biết dải Pirênê trên bản đồ châu âu. Học sinh phải gắn nó với lãnh thổ nước
Pháp và bán đảo Ibêrich, với Đại Tây Dương (vịnh Gatxconhơ) và Địa Trung
Hải, phải xác định vị trí của nó là nằm ở ranh giới giữa bán đảo Ibêrich và lãnh
thổ nước Pháp, trải qua từ bờ vịnh Gatxcônhơ tới ven Địa Trung Hải. Hoặc giả,
muốn nhận ra bán đảo Xcăngđinavi, học sinh không chỉ lưu ý đến đặc điểm hình
thù (trơng tựa một con hổ), mà cả vị trí của nó ở bắc châu Âu, giữa các biển Na
Uy, Bắc Hải, Bantich và Baren.
Nói tóm lại, khi chỉ và đọc một đối tượng địa lý trên bản đồ, nếu học sinh
biết nhận xét đặc điểm hình thù, kích thước cũng khác ở xung quanh thì khơng
những các em sẽ ghi nhớ nó trên bản đồ, khắc sâu nó vào trí óc, mà con nhớ
được những đối tượng địa lí khác có liên quan, tự làm giàu thêm vốn hiểu biết
bản đồ của mình.
Điều này hết sức quan trọng, vì rằng càng ghi nhớ được nhiều đối tượng
địa lý trên bản đồ thì học sinh càng có nhiều điểm tựa để nhanh chóng tìm ra
được những đối tượng mà các em cần, nhưng chưa biết. Thật vậy, mỗi khi phải
8


tìm chỉ một đối tượng địa lí trên bản đồ thì bao giờ học sinh cũng phải dựa vào
những đối tượng mà các em đã biết. Chẳng hạn, khi đọc trong SGK, học sinh
được biết eo Gibranta trên bản đồ, các em phải dựa vào những cái đã biết tức là
bản dồ châu Âu đại tây dương, địa trung hải, các em sẽ tìm xem địa trung hải
thơng với đại tây dương ở điểm nào, và như vậy là các em sẽ tìm ra ngay eo
Gibranta. Trong trường hợp các em chưa biết đại tây dương và địa trung hải nằm
ở đâu thì cac em chỉ cịn một chỗ dựa ít ỏi, đó là bản đồ châu âu. Trước hết phải
xác định xem địa trung hải và đại tay dương năm ở đâu đã rồi đó mới tiếp tục tìm

ra eo Gibranta. Đương nhiên là trong trường hợp này các em mất nhiều thời gian
hơn.
Như vây, có thể nói càng tích luỹ được nhiều điểm tựa thị học sinh càng dễ
tìm ra đối tượng cần tìm trên bản đồ, tức là càng đọc bản đồ thành thạo hơn. Việc
hướng dẫn học sinh cách nhận biết, tìm ra và ghi nhớ các đối tượng địa lí trên
bản đồ như trình bày ở trên giúp các em luuon luôn củng cố được cái cũ, nắm
vững cái mới và không ngừng mở rộng vốn hiểu biết bản đồ của minh.
Từ những điều đã nói trên đây có thể rút ra quy trình rèn luyện kĩ năng
nhận biết, chỉ và đọc các đối tượng địa lí trên như sau:
- Giáo viên đọc rõ ràng, rành mạch, chính sác địa danh và chỉ đối tượng
trên bản đồ treo tường.
- Cho học sinh đối chiếu tìm trên bản đồ trông SGK hoặc atlat.
- Giáo viên viết thật rõ ràng địa danh lên bảng đen ở một góc riêng.
- Yêu cầu một số học sinh phát âm lại rõ ràng, to tát địa danh, và khi cần,
cho phát âm tập thể.
- Yêu cầu học sinh ghi chép chính xác địa danh vào sổ tay địa lí.
- Hướng dẫn học sinh ghi chép đặc điểm hình thù hoặc kích thước của đối
tượng địa lí được biểu hiện trên bản đồ.
- Hướng dẫn học sinh nhận xét mối quan hệ vị trí của đối tượng với những
vật khác ở xung quanh (dùng làm điểm tựa) để sau này dễ nhận ra và tìm được
đối tượng trên bản đồ.
- Hướng dẫn cách chỉ đối tượng địa lí trên bản đồ
Ví dụ : Xác định một số quốc gia trên bản đồ Châu Âu

9


2. Rèn luyện kĩ năng mô tả các đối tượng địa lí trên bản đồ
a. Rèn luyện kĩ năng mơ tả địa hình trên bản đồ
Như chúng ta đã biết địa hình là một tác nhân phi địa đới nó có thể hạn

chế, cản trở, vơ hiệu hố thậm trí phá huỷ quy luật địa đới, tạo ra một kiểu khí
hậu riêng, khí hậu địa phương. Những sơn nguyên giữa núi như ơ Tây Nam
Á(Sơn nguyên YRan, Sơn nguyên anatôli…) Trên hệ coocđie (sơn nguyên cô
oôrađô, côlômbia, bồn địa lớn) hoặc trên hệ anđet đều là những thảo nguyên khô
hoặc hoang mạc, nửa hoang mạc dù chúng ở những vĩ độ khác nhau; dải
Himalaya đồ sộ cũng là một bức trường thành tạo ra hai kiểu khí hậu khác hẳn
nhau ở hai bên sườn phía nam (ẩm ướt) và phía bắc (khơ hạn); thậm trí, địa hìng
cịn tạo ra quy luật địa đới riêng cho mình; tính địa đới theo chiều cao; chẳng
hạn, vùng núi anđet ở địa phận pêru nằm ở nhiệt đới, nhưng lại có đủ các đới tự
nhiên như khi ta đi từ xích đạo đến địa cực: Từ rừng nhịêt đới đến rừng lá kim,
10


đông cỏ khô, đồng cỏ ôn đới và cuối cùng là đới băng tuyết vĩnh viễn. Những ví
dụ trên đây cho ta thấy rõ ý nghĩ của kĩ năng mô tả địa hình trên bản đồ, nó giúp
cho việc nghiên cứu và cắt nghĩa các đặc điểm khí hậu, tự nhiên của mỗi địa
phương, mỗi vùng.
Dựa trên bản đồ địa lí tự nhiên, học sinh tập phận tích xem có những dạng
địa hình nào phân bố ra sao chiếm ưu thế, chỗ cao nhất và chỗ thấp nhất là bao
nhiêu mét.
Khi mô tả một vùng núi, học sinh phải xem xét vùng núi đó thuộc loại trẻ
hay già, cao hay thấp hoặc trung bình, nằm ở phần nào của lãnh thổ, tiếp cận với
những dạng địa hình nào, với những vịnh, biển, đại dương nào,bao gồm những
mạch nào chính, chạy theo hướng nào, chiều dài và chiều rộng là bao nhiêu km,
độ cao trung bình và đỉnh cao nhất là bao nhiêu mét, dốc về hướng nào và thoai
thoải về hướng nào, bị cắt sẻ nhiều hay ít bởi các thung lủng sông, gây trở ngại
lớn hay nhỏ đối với giao thơng vận tải, có ảnh hưởng gì đến khí hậu của địa
phương.
Ví dụ:


11


Mơ tả một bình ngun hay cao ngun, học sinh cần phân tích xem bình
ngun hay cao ngun đó nằm ở phần nào của lãnh thổ, hình dạng, kích thước,
tiếp cận với nhũng dạng địa hình nào, nằm sâu trong đất liền hay ở ven biển, ở
độ cao trung bình bao nhiêu, chỗ thấp nhất và chỗ cao nhất, dốc theo hướng nào,
độ dốc lớn hay nhỏ, bị sơng ngịi cắt xẽ nhiều hay ít, có nhng hệ thống hoặc
sơng nào lớn chảy qua.
Việc rèn luyện kĩ năng có thể theo các bước như sau:
- Giáo viên mô tả mẫu địa hình của một châu lục, vừa mơ tả, vừa hướng
dẫn học sinh cách thức, trình tự mơ tả.
- Cho học sinh ghi dàn ý mô tả vào sổ tay địa lý, khuyến khích học sinh
học thuộc dàn ý đó.
- Cho học sinh tập mơ tả địa hình châu lục, bắt đầu bằng một châu lục có
địa hình đơn giản.
- Cho học sinh tập mơ tả từng dạng địa hình theo dàn ý đã ghi trong sổ tay
địa lý.
- Cho học sinh tập mơ tả địa hình của một nước nào đó.
b. Rèn luyện kĩ năng mơ tả khí hậu trên bản đồ
Khí hậu là một yếu tố hình thành hết sức quan trọng của tự nhiên, nó chi
phối những nét đặc trưng của tự nhiên ở từng nơi. Chế độ nước của sơng ngịi,
đặc điểm thổ nhưỡng, thực vật, động vật đều phụ thuộc vào khí hậu. Sinh hoạt và
các hoạt động sản xuất của con người cũng chịu ảnh hưởng rõ rệt của khí hậu.
Kĩ năng mơ tả khí hậu trên bản đồ cho phép phân tích, phát hiện được đặc
điểm khí hậu của mỗi địa phương và từ đấy tìm ra những nét chung về tự nhiên
của nơi đó.
Để mơ tả khí hậu của bất kỳ một lãnh thổ nào(một châu lục, một khu vực
của một nước), đều phải đề cập đến 3 yếu tố: nhiệt độ trung bình tháng 7 (tức là
tháng nóng nhất ở bán cầu bắc, và tháng lạnh nhất ở bán cầu Nam), chữ số màu

đen chỉ nhiệt độ trung bình tháng 1 (tháng lạnh nhất ở bán cầu Bắc, tháng nóng
nhất ở bán cầu nam). Những nơi có cùng nhiệt độ được nối với nhau bằng những
đường cong gọi là đường thẳng nhiệt. Thường người ta dùng các đường đẳng
nhiệt trung bình tháng 7, màu đỏ và các đường đẳng nhiệt trung bình tháng 1,
màu đen, đơi khi cũng dùng đường đẳng nhiệt trung bình năm. Để biểu hiện
12


lượng mưa và phân bố mưa trên bản đồ, người ta dùng màu sắc khác nhau để
khoanh vùng, chẳng hạn vùng tơ màu vàng nhạt có lượng mưa trung bình năm
dưới 300mm, vùng tơ màu vàng thẫm có lượng mưa trung bình năm từ 300 –
500mm…Các gió thịnh hành trong năm được biểu hiện trên bản đồ bằng những
mũi tên, thường mũi tên màu đỏ chỉ gió thịnh hành tháng 7 (tức là vào mùa hạ ở
bán cầu Bắc, mùa hạ ở bán cầu Nam) bản đồ khí hậu thường có bản đồ kèm theo
chỉ diễn biến củae nhiệt độ và lượng mưa qua các tháng trong năm ở một số địa
điểm tiêu biểu, dựa vào đấy có thể phân tích cụ thể hơn đặc điểm và sự phân hố
khí hậu trên lãnh thổ.
Sau khi cung cấp cho học sinh những hiểu biết trên đây, giáo viên giới
thiệu cho các em một giàn ý dựa vào đấy, hướng dẫn các em tập mơ tả khí hậu
trên bản đồ bắt đầu bằng một châu lục, chẳng hạn như bản đồ khí hậu châu Âu.
Châu Âu nằm giữa những vĩ độ nào (360 B và trên 710B).
Thuộc vành đai khí hậu(gần hịn tồn ở ơn đới). đặc điểm của khí hậu ơn
đới là gì?(khơng nóng q khơng lạnh q).
Mùa hạ, có những đường đẳng nhiệt nào chạy qua lãnh thổ châu âu?
Đường đẳng nhiệt cao nhất chạy qua những đâu(miền cực nam và miền đơng
nam). Vì sao?(do ảnh hưởng của vĩ độ và lục địa).
Mùa đơng có những đường đẳng nhiệt nào chạy qua lãnh thổ châu âu?
(+100C, +50C, +00C, -50C, -100C, -150C). Các đường đẳng nhiệt thấp nhất chạy
qua những vùng nào? (Đường đẳng nhiệt -15 0C chạy từ Bắc xuống Nam ở phía
cực Đơng, đường đẳng nhiệt -100C chạy trên bán đảo Xcăngđinavi, vịng thẳng

xuống vùng Đơng Nam rồi chuyển xuống hướng Đông).
Sự phân bố như trên của các đường đẳng nhiệt mùa hạ và mùa Đông trên
lãnh thổ châu Âu cho ta thấy khí hậu châu Âu có đặc điểm chung (Khơng nóng
lắm về mùa hạ và khơng q lạnh về mùa Đơng). Vùng nào có mùa Đơng ẩm
nhất, vì sao (vùng Nam Âu, vì ở vĩ độ thấp nhất) những vùng nào có mùa Đơng
lạnh nhất (vùng Đơng và Đơng Nam, vì chịu ảnh hưởng nhiều của lục địa).
Căn cứ vào nhiệt độ ghi bằng chữ số ở các địa điểm Ln Đơn, VácXaVa,
Matxcơva, ta có nhận xét gì? (Biên độ nhiệt trong năm tăng dần từ Tây sang
Đơng và Đơng Nam) Vì sao? Vì các ở phía Đông và Đông Nam, ảnh hưởng của

13


biển và của dòng biển Bắc Đại Tây Dương càng yếu đi và ảnh hưởng của lục địa
càng mạnh lên).
Gió thịnh hành trong năm là loại gió nào, có ảnh hưởng gì đến khí hậu?
(Gió tây ơn đới thổi hầu như quanh năm, cả mùa hạ và mùa đông, đem hơi ẩm
vào sâu trong đất liền và gây mưa).
Đại bộ phận lãnh thổ châu Âu có lượng mưa là bao nhiêu (500 – 1000mm)
do gió tây mang lại, những vùng nào có mưa nhiều, vì sao (Vùng bờ biển phía
tây của bán đảo Xcăngđinavi, mặt phía Tây của quần đảo Anh – Ailen có lượng
mưa lớn do phía Tây mang đầy hơi ẩm chút xuống nhất là trên sườn tây của dãy
núi Xcăngđinavi. Vùng Núi Anpơ cũng có lượng mưa khá lớn do các sườn phía
Tây hứng gió Tây từ biển vào). Những vùng nào có mưa ít nhất, vì sao? (vùng
Đơng Nam châu Âu ven biển Cátxbi chỉ có lượng mưa tới 300mm vì gió Tây
mùa hạ khi đến được đây đã chút hết gần hơi nước ở dọc đường và lại gặp khơng
khí nóng nên khơng gây mưa được).
Tóm lại, khí hậu nói chung là ơn hồ, càng đi về phía đơng và phía nam,
càng xa đại tây dương và dịng biển nóng bắc đại tây dương tính chất lục địa
càng tăng.

Giàn ý mơ tả khí hậu trên đây cũng có thể áp dụng để mơ tả khí hậu của
một khu vực hay một quốc gia. Chẳng hạn đối với Việt Nam học sinh dưới sự
hướng dẫn của giáo viên sẽ nêu được những nét chính như sau:
Ví dụ:

14


15


Qua bản đồ khí hậu VN hướng dẫn cho học sinh nhận xét
- Việt Nam nằm giữa các vĩ độ 23022’B và 8030’B, có nghĩa là nằm hồn
tồn trong vành đai nhiệt đới.
- Tính chất nhiệt đới cũng thể hiện ở các đường đẳng nhiệt trung bình năm
chạy qua lãnh thổ Việt Nam: +200C, +230C, +260C.
Sự phân bố của các đường đẳng nhiệt cho thấy nhiệt độ tăng theo hướng
từ Bắc vào Nam theo quy luật địa đới. Điều này cũng được thể hiện qua các chỉ
số ghi nhiệt độ chung bình ở các địa điểm Lạng Sơn 21,3 0C, Hà Nội 23,40C,
Vinh 23,90C, Huế 25,20C, Nha Trang 26,30C, TP HCM 26,90C.
- Nhìn vào biến trình của nhiệt độ trong năm thể hiện ở các biểu đồ, chúng
ta thấy ở Lạng Sơn nhiệt độ tháng lạnh nhất xuống tới dưới 14 0C, ở Hà Nội
khoảng 140C, ở Vinh khoảng 180C, Huế 190C, Nha Trang 230C, TP HCM 250C.
Như vậy ở miền Bắc, có một mùa Đơng lạnh, càng đi về phía Nam càng đỡ lạnh,
ở Miền Nam khơng có màu đơng lạnh.
- Nhìn vào các vùng khí hậu được thể hiện bằng màu sắc trên bản đồ, átlát,
chúng ta cũng thấy rõ sự phân hố khí hậu trên đây: Từ Bắc vào Nam từ khí hậu
nhiệt đới có mùa đơng lạnh sang khi hậu nhiệt đới có mùa đơng lạnh vừa, rồi
sang khí hậu nhiệt đới có mùa khơ ẩm, cuối cùng là khí hậu nhiệt đới nóng
quanh năm.

- Về các loại gió thịnh hành trên lãnh thổ Việt Nam, ta thấy về mùa đơng
có gió mùa đơng bắc mang khơng khí lạnh từ phương bắc tới miền bắc, điều đó
cắt nghĩa vì sao ở miền bắc có mùa đơng lạnh, ranh giới Frông lạnh được biểu
hiện trên bản đồ cho thấy ranh giới lãnh thổ có gió mùa đơng bắc cùng là ranh
giới lãnh thổ của mùa đông lạnh, ngồi ra cịn có gió đơng bắc thổi vào lãnh thổ
miền nam, nhưng đây là tín phong thổi thường xuyên trong khu vực nội chí
tuyến, một thứ gió nhẹ, khơng mạnh như gió mùa đơng bắc. Về mùa hạ, có gió
mùa tây nam thổi tới miền nam và gió mùa đơng nam thổi vào miền bắc, đem
mưa tới. Ngồi ra, cịn gió tây nam thổi qua lãnh thổ lào chút hết hơi nước ở đây
rồi vượt qua các đèo của giải Trường Sơn và núi tây bắc bắc bộ trở thành gió
khơ, nóng. Đặc biệt là trên bản đồ cịn biểu hiện đường đi chuyển thông thường
cuả các bão nhiệt đới qua các tháng trong năm. Việc phân tích về các loại gió
thịnh hành trong năm cho phép chúng ta bổ sung vào tính chất nhiệt đới của khí
16


hậu Việt Nam một đặc tính thứ 2 hết sức quan trọng, đó là gió mùa. Như vậy khí
hậu nước ta khơng phải chỉ là khí hậu nhiệt đới đơn thuần mà là khí hậu nhiệt
đới gió mùa.
- Phân tích các biểu đồ chỉ nhiệt độ trung bình tháng và lượng mưa trung
bình tháng, ta thấy lượng mưa trung bình năm ở lạng sơn là 1400mm, ở hà
nội1683mm, ở Vinh là 1869mm, ở Huế 2990mm, ở Đà Lạt 1820mm, TP HCM
1917mm, như vậy Việt Nam có lượng mưa khá lớn trên tồn lãnh thổ, trừ những
nơi kín gió. Các cột mưa tháng trong trên các biểu đồ năm trên các biểu đồ cho
thấy mưa tập trung vào mùa hạ, từ tháng 5 đến tháng 10, do gió mùa Tây nam và
đông nam mang đến. Riêng miền bắc trung bộ, mưa tập trung vào mùa Đơng do
gió mùa đơng bắc qua vịnh bắc bộ lấy hơi ẩm đem đến. Ngoài ra, bão cùng góp
phần làm cho mưa nhiều vào mùa Đơng.
- Tóm lại, Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đơng lạnh trên
nửa phần phía bắc của đất nước, lượng mưa hàng năm tương đối lớn, trải ra khắp

lãnh thổ.
Qua những ví dụ trên đây, có thể rút ra quy trình rèn luyện kĩ năng mơ tả
khí hậu trên bản đồ như sau:
- Làm cho học sinh hiểu rõ mơ tả khí hậu có nghĩa là mơ tả những yếu tố
thành phần của nó tức là nhiệt độ, mưa, gió và phát hiện mối liên hệ giữa chúng
với nhau cũng như với những yếu tố tự nhiên khác.
- Giới thiệu cho các em các yếu tố trên bản đồ khí hậu.
- Cung cấp cho học sinh dàn ý mơ tả khí hậu trên bản đồ.
- Hướng dẫn các em dựa vào dàn ý cho sẵn để mô tả khí hậu trên bản đồ
bắt đầu từ châu lục rồi chuyển sang một khu vực, một quốc gia.
c. Rèn luyện kĩ năng mơ tả sơng ngịi trên bản đồ
Nhìn mạng lưới sơng ngịi bản đồ một khu vực có thể thấy ngay trên bản
đồ một khu vực có thể thấy ngay trên những nét lớn đặc điểm khí hậu, địa hình,
thực vật, động vật và phân bố dân cư ở khu vực đó. Như vậy việc mơ tả sơng
ngịi của chúng ta thấy rõ không những đặc điểm về thuỷ văn của mỗi khu vực
mà cả mặt khác về tự nhiên, kinh tế, xã hội.

17


Tất cả những kĩ năng đã được học như mô tả địa hình, xác định phương
hướng giúp cho học sinh mơ tả được dể dàng sơng ngịi trên bản đồ. Chỉ cần
cung cấp cho các em một dàn ý và dựa vào đấy cho các em miêu tả.
Dàn ý mô tả có thể như sau:
Nêu lên những nét chung của sơng ngịi:
- Sơng chảy theo những hướng nào hoặc đỗ vào biển, đại dương nào, vì
sao?
- Nguồn cung cấp nước cho sông(mưa, tuyết, băng hà,hay nước ngầm) và
chế độ nước.
Các hệ thống sơng chính:

Ví dụ:

Sơng chính lớn hay nhỏ, chảy theo hướng nào, đỗ vào đâu, sơng dai hay
ngắn có nhiều hay ít các sơng nhánh, các sơng chảy từ đâu đến, nguồn tiếp nước
của sơng chính và các sơng phụ, chế độ nước của các sông, ý nghĩa kinh tế. Lấy
ví dụ về sơng ngịi việt nam. Học sinh dễ dàng nhận thấy mạng lưới sơng ngịi
nước ta khá dày đặc phân bố khắp trên lãnh thổ. Đại bộ phận là những sơng nhỏ,
chỉ có hai sơng tương đối lớn là sông hồng và sông cửu long.
Trên bản đồ khí hậu các em thấy từ bắc tới nam, lượng mưa trung bình
năm đều khá lớn:
Lạng sơn 1400mm, Hà nội1683mm, Vinh1869mm, Huế 2890mm, Đà lạt
1820mm , TPHCM 1917mm, Cà mau 2241mm, Điều đó cắt nghĩa vì sao mạng
18


lưới sông dày đặc và phân bố đều trên khắp lãnh thổ. Nhìn trên bản đồ tự nhiên,
học sinh thấy rõ việt nam có hình dạng chữ s. Kéo dài theo hướng kinh tên,
hẹp chiều ngang, phía đơng giáp biển phía tây phần lớn là núi, nơi bắt nguồn từ
nhiều sơng. Riêng bắc bộ và nam bộ có chiều ngang mở rộng hơn cả nên có một
số sơng rất lớn.
Nhìn vào biểu đồ chỉ nhiệt độ và lượng mưa trung bình trong năm và do
lượng mưa khá lớn nên tổng lượng nước của các sông cũng lớn. ở bắc bộ và nam
bộ mưa tập trung vào các tháng 5,6,7,8,9 nên các sơng có lũ và nước lên to về
mùa hạ, cạn về mùa đông, Riêng ở trung bộ mưa tập trung vào các tháng 9-12
nên sơng ngịi có nước lũ và nước lũ lên to vào mùa đông.
Dựa vào bản đồ địa lý việt nam học sinh rể nhận thấy rằng sông hồng bắt
nguồn từ cao nguyên vân quý, trung quốc, một phần trung lưu và toàn bộ hạ lưu
trải trên lãnh thổ nước ta theo hướng núi tây bắc - đông nam và đổ vào vịnh bắc
bộ. Căn cứ vào màu sắc trên bản đồ, các em có thể thấy đoạn trung lưu của sông
chảy ở miền núi thấp, độ dốc nhỏ, khi chảy vào miền đồng bằng, sông chỉ cịn ở

độ cao 50m, độ dốc yếu nên sơng uốn khúc nhiều và cùng với hệ thống sơng
Thái bình tạo lập một tam giác châu mà đỉnh là Việt Trì.
Chảy tới Việt trì sơng hồng nhận được 2 phụ lưu chính: Sơng đà ở bên
phải và sơng lơ ở bên trái, sông đà là phụ lưu lớn nhất. Bắt nguồn từ trung quốc,
chảy ở vùng núi đá vơi, có nhiều ghềnh như ghềnh Bờ, trước khi đổ vào sơng
chính sông đà cũng nhận đựơc một số sông nhánh, lớn nhất là sông nậm na.
Sông lô cũng bắt nguồn trên lãnh thổ trung quốc, chảy về gần đến thị xã tun
quang thì nhận được phụ lưu sơng gâm, về tới đoan hùng nhận được phụ lưu
sông chảy. Sông chảy cũng là sơng có nhiều ghềnh, như ghềnh bà.
Hệ thống sơng Hồng có ý nghĩa lớn về kinh tế, trước hết về mặt thuỷ lợi.
Nó cung cấp nước cho mạng lưới kênh máng, cho phép giữ chủ động trong canh
tác, tăng vụ, nâng cao sản lượng nông nghiệp. Giá trị về mặt thủy điện cũng rất
quan trọng, trữ lượng khá lớn nhưng chưa khai thác được bao nhiêu, ngoài trung
tâm thủy điện hồ bình trên sơng đà, trung tâm thủy điện thác bà trên sông chảy.
Hệ thống sông hồng nối liền với hệ thống sơng thái bình tạo thành một mạng
lưới giao thông đường thông hết sức quan trọng trải ra các hướng trên lãnh thổ
bắc bộ.
19


Việc rèn luyện kĩ năng mơ tả sơng ngịi trên bản đồ có thể theo quy trình
như sau:
- Hướng dẫn học sinh mô tả một con sông dựa trên dàn ý cho sẵn.
- Khi học sinh đã năm được cách mô tả một con sông, chuyển sang hướng
dẫn các em mô tả một hệ thống sông.
- Cuối cùng hướng dẫn các em tập mơ tả sơng ngịi của một nước.
II- KẾT QỦA.

Qua một thời gian giảng dạy tại trường THPT Nguyễn Thị Lợi với đối
tượng học sinh đầu vào thấp thì tơi thấy học sinh rất hứng thú với những tiết học

sử dụng bản đồ - Mục tiêu tới đây là giáo viên nên cố gắng đưa tất cả chương
trình đều sử dụng các phương tiện đặc biệt là bản đồ nâng cao chất lượng dạy và
học của giáo viên và học sinh.
Trên đây là một số ví dụ dẫn chứng cụ thể, trong phạm vi khuôn khổ đề tài
không cho phép nên tôi chỉ dừng lại ở đây. trong q trình giảng dạy giáo viên có
thể linh động hơn.
C. KẾT LUẬN
I- KẾ HOẠCH CỤ THỂ.

Trong quá trình giảng dạy bộ môn địa lý đối với việc sử dụng ccá phương
tiện và thiết bị dạy học hiện đại đặc biệt là các kĩ năng rèn luyện bản đồ chưa
thêt thực hiện tồn bộ chương trình nhưng giáo viên có thể sử dung tối đa cá
phương tiện và thiết bị dạy học hiện đại trong tồn bộ chương trình để nhằm
nâng cao chất lượng dạy học mơn Địa lí.
II- ĐỀ XUẤT.
Trong phạm vi bài viết này tơi chỉ xin đựơc đóng góp ý kiến của mình về
kĩ năng bản đồ trong dạy học Địa lí. để dạy học đạt hiệu quả cao thì giáo viên
cần soạn giáo án điện tử, sử dụng bản đồ treo tường, Atlát địa lý và khai thác
kênh hình trong phần mềm vi tính. Với đề xuất của cá nhân tôi và giáo viên trong
nhà trường đề nghị Bộ GD&ĐT cho nhiều phần mềm có hình ảnh để bài dạy trở
nên sinh động.
Mong các đồng chí đóng góp cho đề tài này được đầy đủ hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
20


Sầm Sơn, ngày 08 tháng 06 năm
2011

21




×