Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.97 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
(ảnh minh họa: vnu.edu.vn)
Về thành tựu của phát triển giáo dục, đào tạo (GDĐT), Đại hội XI của Đảng
đánh giá: “Đổi mới giáo dục đạt được một số kết quả bước đầu. Chi ngân
sách nhà nước cho giáo dục đào tạo trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy
động các nguồn lực xã hội cho GDĐT phát triển GDĐT ở vùng sâu vùng xa,
vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm… Đến năm
2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ
sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động
đang làm việc”.
- Đổi mới nội dung chương trình theo hướng cuốn chiếu từ Tiểu học đến
THPT: ngay khi bắt đầu thay đổi chương trình ở cấp Tiểu học, dư luận đã
xơn xao chuyện học sinh học chữ “e” trước chữ “a”. Lên cấp THPT, những
người làm chương trình có sáng kiến cho song song tồn tại 2 bộ sách giáo
khoa (Cơ bản và Nâng cao), học sinh đăng ký học theo ban (ban KHTN, ban
cơ bản, ban KHXHNV)… Để rồi gần đây, chúng ta lại điều chỉnh, giảm tải.
Việc phân ban có nguy cơ lại tiếp tục phá sản, khi số lượng học sinh đăng ký
học ban cơ bản ngày càng cao. Bộ sách giáo khoa (SGK) nâng cao ít học
sinh chọn học ở cấp THPT.
Dự đốn được nguy cơ phá sản của việc phân ban, gần đây Bộ lại triển khai
quy chế xếp loại mới được áp dụng từ 1/2012, hồn tồn khơng đề cập gì
đến cụm từ “phân ban” hay “nâng cao”. Như vậy, việc đổi mới chương trình
SGK một lần nữa đứng trên bờ vực thẳm. Công sức và tiền của đổ ra rất
nhiều nhưng kết quả đạt được không như mong đợi mặc dù chúng ta cũng tổ
chức lấy ý kiến, thí điểm ở nhiều vùng miền khác nhau trên cả nước.
- Chấn chỉnh tình trạng thi cử : Có thể nói dấu son trong lịch sử giáo dục
nước nhà trong thập kỷ qua phải kể đến việc chấn chỉnh công tác thi cử, mà
nguyên Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đã phát động, sau giọt nước làm tràn
ly của thầy giáo Đỗ Việt Khoa. Nhưng thành cơng đó theo từng năm có dấu
hiệu giảm dần về tính hiệu quả, có xu hướng trở lại điểm xuất phát của nó.
Điều này ai cũng biết song rất ít người đang trực tiếp chỉ đạo dám nhìn nhận.
- Triển khai hàng loạt phong trào, cuộc vận động: Chúng ta thử liệt kê các
phong trào trong ngành giáo dục trong thời gian qua. Đầu tiên là cuộc vận
động “Hai khơng” (nói khơng tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục). Sau đó, vẫn phong trào “Hai khơng” nhưng phát triển hơn với 4
nội dung (nói khơng tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục,
nói khơng với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc cho học sinh ngồi nhầm
lớp).
Tìm mọi phương cách để nâng chất lượng của sản phẩm là mục tiêu hướng
đến của mọi ngành nghề sản xuất trong xã hội. Giáo dục cũng khơng nằm
ngồi quỹ đạo đó. Tuy nhiên, sự chuyển biến về lượng trong nỗ lực cải cách
thì khá rõ ràng, cịn về chất thì vẫn “bóng chim tăm cá”.
Hàng loạt trường Đại học mọc lên như nấm sau mưa, với mục tiêu đến năm
2020 chúng ta sẽ có 20 vạn tiến sĩ, chúng ta đã phổ cập thành công bậc
học .v.v.. Rõ ràng căn bệnh thành tích trong giáo dục hiện nay không lây
truyền qua những kênh thơng tin chính thống, ít hiện hữu trong câu từ, văn
Nguy hại hơn là hệ lụy của nó, mà qua các nguồn thơng tin đại chúng gần
đây đã dấy lên nhiều hồi chuông báo động về thực trạng giáo dục nước nhà.
Tình trạng bạo lực học đường với những biến tướng đã làm đau lịng các bậc
phụ huynh học sinh. Hình ảnh uy nghi, đạo đức của người thầy dần nhạt
nhòa trong tâm trí học trị, khi người thầy với những lỗi lầm tày đình khơng
thể dung thứ như các vụ việc liên quan tới bảo mẫu Trần Thị Phụng (Bình
Dương), thầy Hiệu trưởng THPT Sầm Đức Xương (Hà Giang), giảng viên
Cao đẳng Đỗ Tư Đông (Hà Nam) …
Đáng buồn hơn, có những tỉnh ký Quyết định cho ra đời những trường Đại
học tư thục bề thế. Để rồi 4 năm sau cũng chính tỉnh ấy ra “sắc lệnh” khơng
tuyển sinh viên ngồi cơng lập vào làm việc, để lại bao xót xa, ngao ngán
với khơng ít sinh viên hăm hở ra trường khóa đầu tiên. Nhiều quan chức
đương nhiệm khi phát biểu vẫn hô hào, ngợi ca trường A, trường B…tuy
nhiên, con em họ lại gửi ra nước ngoài học tập. Hơn lúc nào hết niềm tin của
người học bị rung lắc mạnh.
Tại sao hàng loạt những nhà cải cách giáo dục thành tâm hiến kế, góp ý để
xây dựng cho giáo dục Việt Nam, nhưng các nhà quản lý hình như vẫn phớt
lờ, mặc dù họ vẫn nói và viết “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”?
Lý giải cho hiện tượng nghịch lý này, chúng ta thử đi tìm nguyên nhân :
<b>1. Cịn đâu “Sĩ, Nơng, Cơng, Thương”? </b>
Nông, Công, Thương. Trong quan niệm người Việt ta xưa cho rằng nghề
kinh doanh (Thương) chỉ là buôn nước bọt, mua chỗ này rẻ rồi bán chỗ kia
đắt, ăn chênh lệnh, không làm ra của cải vật chất, sản phẩm tinh thần cho xã
Quan niệm này đến nay đã thay đổi. Những doanh nhân thành đạt góp phần
rất lớn kiến thiết đất nước, họ tạo cơng ăn việc làm cho người dân, họ đóng
thuế thu nhập cao. Thậm chí, Nhà nước ta cịn dành riêng một ngày để nhớ
ơn họ, gọi là ngày Doanh nhân Việt Nam (ngày 13 tháng 10 hàng năm). Rõ
ràng đã có một sự thay đổi ngoạn mục về thứ bậc nghề nghiệp giữa 2 giai
tầng “sĩ” và “thương” trong xã hội. Từ một góc nhìn nào đó, doanh nhân,
thương gia được trọng vọng hơn tầng lớp trí thức, trong đó có những thầy
giáo, cơ giáo. Và hướng sắp tới, Bộ GDĐT chuẩn bị đưa nội dung “nghề
kinh doanh” vào chương trình dạy nghề lớp 11 THPT (theo báo Thanh Niên,
ngày 09/10/2103). Theo tôi, đây là một sự “cổ súy” làm lu mờ thêm giá trị
của “nghề cao quý trong những nghề cao quý”!
Để cải tạo môi trường sống của con người, đơi khi chúng ta phải uốn
nắn dịng chảy cho phù hợp. Quan niệm tức thời, vội vàng ca tụng
một hiện tượng cũng là một nhược điểm thường thấy ở những nhà
quản lý. Vì vậy, đề cao tầng lớp doanh nhân là chủ trương đúng đắn,
nhưng không thể xem nhẹ vai trị của những người trí thức, đặtcbiệt
là đội ngũ trí thức trong ngành giáo dục.
Trong thực tế ngành giáo dục không làm ra của cải vật chất, mà ngược lại
ngành giáo dục còn “tiêu” rất nhiều tiền. Mà muốn tiêu tiền, ngành giáo dục
phải “xin”: Xin kinh phí, xin sửa cái này, xin xây dựng cái kia, xin chủ
trương, thậm chí xin được bổ nhiệm người nọ, kẻ kia …tất cả trăm điều đều
phải xin. Khi chúng ta đi “xin” thì tâm lý thường nhún nhường, khép nép,
nhỏ nhẹ, một sự “lép vế” dần hình thành.
Mà tiếng nói nhỏ nhẹ, tư thế khép nép, nguyện vọng lúc nào cũng… “mong
được chấp thuận”, vô tình tạo nên một phong thái yểm thế ngay ở những
Hãy xem thêm đoạn chất vấn về “dạy thêm học thêm” trong ngành giáo dục
giữa Bí thư Đà Nẵng (ông Nguyễn Bá Thanh) và GĐ Sở GD-ĐT (Lê Trung
Chinh) trong một buổi họp HĐND thành phố được đăng trên Dân trí, ngày
06/12/2012:
Qua đó có thể thấy những “truy vấn đến cùng” của lãnh đạo theo kiểu
“miệng nhà quan có gang có thép” mà khơng thấy giải pháp, nhiệm vụ gì cụ
thể nhằm giúp cấp dưới hồn thành tốt nhiệm vụ. Cịn đồng chí GĐ Sở, dưới
quyền mình có tới cả ngàn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, kỹ sư, những danh hiệu
ưu tú này nọ…nhưng “chấp nhận” chọn giải pháp ôn hòa, tránh đối đầu,
đành làm con cua đi ngang con ếch cho nó vỗ vài cái, thậm chí cho nó nuốt
cũng chẳng sao (!).
<b>3. Chất lượng ảo của sản phẩm giáo dục</b>
Chúng tôi thử đưa ra những so sánh như thế này : Việt Nam có 1.6% dân số
hiện là sinh viên, Trung Quốc hiện chỉ 1.1%. Tuy nhiên, nước Mỹ hiện nay
phải sang Trung Quốc để nghiên cứu vì sao những năm gần đây Trung Quốc
Minh chứng cho chất lượng ảo đó, chúng ta thử nêu vài hiện tượng nóng
bỏng của xã hội Việt Nam gần đây. Tân Tư lệnh ngành giao thông vận tải
Đinh La Thăng khi mới lên nhậm chức tìm mọi giải pháp để chống ùn tắc
giao thông ở 2 thành phố lớn, một vấn nạn được cảnh báo ngay từ rất sớm.
Mà thực tế ngành GTVT có đến 1000 GS, TS (theo tác giả Trần Đình Bá
nêu trong bài “Trí thức khơng thể “trùm chăn” chờ hiến kế!”, đăng trên Tuần
Việt Nam) với biết bao cơng trình nghiên cứu…
Tuy nhiên, kết quả tai nạn giao thông vẫn tăng, đường sá vẫn tắc. Hay tình
trạng hàng loạt xe 2 hánh, 4 bánh, thay nhau bốc cháy, đang chạy cũng cháy,
tắt máy cũng cháy, để trong nhà ban đêm cũng cháy…mà các nhà khoa học
chẳng thấy ai giải thích nguyên nhân ? Trong khi đó trong cả nước có biết
bao nhiêu là trung tâm, viện nghiên cứu…chẳng biết họ đang làm gì?
Mấy hiện tượng kể trên khơng biết có liên quan gì đến giáo dục khơng,
nhưng phải nhìn nhận chun mơn sâu của các nhà khoa học chúng ta có vấn
đề.