Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4 trường tiểu học ba đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.5 KB, 20 trang )

SỞ GD&ĐT THANH HĨA
PHỊNG GD&ĐT BỈM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

DẠY GIẢI TỐN CĨ LỜI VĂN CHO HỌC SINH
LỚP 4, TRƯỜNG TIỂU HỌC BA ĐÌNH

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trường Tiểu học Ba Đình
SKKN thuộc lĩnh vực: Toán

BỈM SƠN NĂM 2019
0


MỤC LỤC
T

NỘI DUNG

TRANG

T
1
2
3
4
5
6


7
8
9

10
11
12
13

A. MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
Thực trạng
Thực trạng chung
Thực trạng của lớp 4A
Các giải pháp
- Củng cố những kiến thức, kĩ năng cần thiết cho việc giải toán.
- Hướng dẫn kĩ năng đọc đề và hiểu được những từ ngữ trong đề.
- Hướng dẫn kĩ năng tóm tắt và lập kế hoạch giải bài tốn
- Hướng dẫn kĩ năng trình bày bài giải và thực hiện các phép tính
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo


2
2
3
3
3
4
4
4
5
6
7
7
9
11
14
16
17
17
17
17

A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
* Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của dạy giải tốn có lời văn ở lớp 4.
Giải tốn có lời văn là một trong 5 nội dung kiến thức toán được dạy
trong chương trình Tiểu học. Và đây cũng là một trong những nội dung được
đánh giá là học sinh thường hay gặp khó khăn nhất. Bởi vì, nội dung các bài
tốn có lời văn đều liên quan chặt chẽ đến các kiến thức, kĩ năng của 4 mạch
kiến còn lại, bao gồm: các kiến thức về số học, về đo đại lượng, về các yếu tố
1



ban đầu của đại số và hình học. Đồng thời, những bài tốn có lời văn thường
liên quan đến nhiều lĩnh vực trong thực tế cuộc sống và nó thể hiện ở mn hình
vạn trạng các tình huống và văn phong khác nhau. Vậy nên, khi giải tốn có lời
văn ở bất kì dạng nào, học sinh cũng phải huy động tích hợp các kiến thức, kĩ
năng đã có vào các tình huống khác nhau và ở mức cao hơn một chút, học sinh
phải biết tư duy năng động, sáng tạo thì mới giải được bài tốn.
Đối với lớp 4, giải tốn có lời văn lại là sự mở đầu cho một giai đoạn mới
của dạy toán ở Tiểu học, giai đoạn này, việc giải tốn đã có những địi hỏi cao
hơn, như: học sinh phải biết phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn; biết
biến đổi bài toán , đưa bài toán từ phức tạp về các bài toán đơn giản hơn mà các
em đã biết cách giải; biết vận dụng phép phân tích - tổng hợp trong quá trình
tìm, xây dựng kế hoạch giải và thực hiện kế hoạch giải vv… Vì thế, đây lại là cơ
sở ban đầu rất quan trọng của một giai đoạn mới trong q trình học tốn ở Tiểu
học nói chung và giải tốn có lời văn nói riêng. Chính vì thế mà nó được đơng
đảo đội ngũ cán bộ giáo viên Tiểu học quan tâm, nghiên cứu để tìm ra những
giải pháp giảng dạy tối ưu cho quá trình dạy- học ở trên lớp.
* Xuất phát từ tình hình thực tế dạy - học trên lớp.
Trong năm học 2018 - 2019 này, tôi được nhà trường phân công giảng
dạy và chủ nhiệm lớp 4A. Ngay từ những ngày đầu năm, khi dạy đến các dạng
tốn có lời văn, tơi đã nhận thấy trong lớp mình phụ trách cịn nhiều học sinh
gặp khó khăn trong giải tốn. Điều tra cụ thể có tới hơn 35% số học sinh trong
lớp kĩ năng giải toán chưa đạt yêu cầu. Nếu cứ để cho các em tiếp tục gặp khó
khăn khi giải tốn như vậy thì tương lai học tốn của các em sẽ không mấy khả
quan. Vậy làm thế nào để giúp các em học sinh trong lớp học tốt mơn tốn nói
chung và mạch kiến thức giải tốn có lời văn nói riêng? Đó chính là những băn
khoăn, trăn trở của bản thân tôi.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn lựa chọn một số biện
pháp nhằm giúp học sinh lớp 4A do tơi chủ nhiệm có được những kĩ năng giải

tốn có lời văn tốt hơn. Và qua q trình áp dụng những biện pháp đó vào thực
tế giảng dạy, kết quả giải toán của lớp 4A trường Tiểu học Ba Đình, Bỉm Sơn đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Với mong muốn được chia sẻ và trao đổi, học hỏi
kinh nghiệm dạy - học với bạn bè đồng nghiệp, tôi mạnh dạn gửi tới Hội đồng
khoa học của nhà trường “ Một số kinh nghiệm dạy giải tốn có lời văn cho
học sinh lớp 4, trường Tiểu học Ba Đình.

II - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
* Đối với học sinh lớp 4 :
+ Có khả năng phân tích, tổng hợp để định dạng và giải tốt các bài tốn
có lời văn ở tất cả các dạng trong chương trình tốn 4.
+ Biết cách giải các bài tốn có lời văn ở lớp 4 một cách linh hoạt.
+ Biết trình bày bài tốn một cách khoa học, chính xác.
+ Rèn luyện một số kĩ năng tính tốn và phương pháp làm việc khoa học.
+ Rèn luyện đức tính chăm chỉ, cần cù, khơng ngại khó cho học sinh.
2


* Đối với giáo viên:
+ Tự tìm tịi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy nói
chung và giảng dạy mạch kiến thức tốn có lời văn ở lớp 4 nói riêng.
III - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là các bài tốn có lời văn trong chương trình lớp 4.
Bao gồm:
- Giải các bài tốn về Tìm số trung bình cộng.
- Giải các bài tốn về ý nghĩa của bốn phép tính: cộng, trừ, nhân, chia đối
với số tự nhiên và phân số.
- Giải các bài tốn về tìm hai số khi biết tổng và hiệu (tổng và tỉ).
- Giải các bài tốn có nội dung hình học.
IV - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Phương pháp chính:
- Nghiên cứu lí luận ( Đọc tài liệu có liên quan tới đề tài. Nghiên cứu nội
dung chương trình tốn 4 mạch kiến thức : Dạy giải tốn có lời văn.)
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp thu thập dữ liệu.
- phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
2. Phương pháp bổ trợ
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.

B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong cuốn Phương pháp dạy học toán (giáo trình dùng trong các
trường sư phạm đào tạo giáo viên Tiểu học, xuất bản năm 1992 tại Hà Nội, của
Bộ Giáo dục và đào tạo) đã nêu rõ: Trong dạy - học tốn ở phổ thơng nói chung,
ở Tiểu học nói riêng, giải tốn có một vị trí quan trọng. Có thể coi dạy - học giải
tốn là “ hịn đá thử vàng”. Bởi vì, trong giải tốn học sinh phải tư duy một cách
3


tích cực và linh hoạt, huy động tích hợp các kiến thức và khả năng đã có vào các
tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện
hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong một chừng mực
nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán là
một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh.
Dạy giải tốn có lời văn cho học sinh Tiểu học nhằm giúp học sinh luyện
tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học, rèn luyện kĩ
năng tính tốn, từng bước tập dượt, vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ năng
thực hành vào thực tiễn;
Qua việc dạy - học giải toán, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển

năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận lôgic, khêu gợi và
tập dượt khả năng quan sát, phỏng đốn, tìm tịi.
Qua giải tốn, học sinh rèn luyện những đức tính và phong cách làm việc
của người lao động như ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đốn có căn cứ,
tính cẩn thận chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối
cùng; từng bước hình thành và rèn luyện thói quen và suy nghĩ độc lập, linh
hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc, rập khn, xây dựng lịng ham thích
tìm tịi, sáng tạo ở mức độ khác nhau, từ đơn giản nhất mà nâng dần lên từng
bước.
Đối với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng, tính hiếu
động, ham chơi, chưa ý thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc học tập đó là
một trong những đặc điểm phát triển tâm lý của các em. Điều này đã ảnh hưởng
khơng nhỏ đến q trình học tập cũng như nhiều hoạt động khác nữa của các
em. Bên cạnh đó, các em cịn chịu sự tác động của gia đình và xã hội trong thời
buổi nền kinh tế thị trường cùng với những chi phối của ngành khoa học cơng
nghệ đang phát triển như vũ bão, nên tình trạng các em ham chơi, sa sút việc học
đang là căn bệnh nan giải địi hỏi những người làm cơng tác giáo dục phải tìm ra
được những phương thuốc chữa trị.
Vì vậy, muốn giúp các em học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4
nói riêng học tốt các mơn học, đặc biệt là mơn tốn (trong đó có giải tốn) thì
người giáo viên cũng phải nắm bắt được những đặc điểm tâm lý này của các em
để tránh phạm những sai lầm đáng tiếc trong quá trình dạy - học, như: nóng vội,
chủ quan, áp đặt cách suy nghĩ, tư duy của người lớn khi hướng dẫn học sinh
giải tốn , hay đánh giá khơng đúng năng lực của các em khi các em chưa thật
sự chú tâm vào việc học vv…

II. THỰC TRẠNG
1. Thực trạng chung
a. Thuận lợi:
+ Thuận lợi về phía nhà trường và giáo viên

- Nằm ở trung tâm thị xã, trường Tiểu học Ba Đình (Thị xã Bỉm Sơn) ln
nhận được sự quan tâm cao nhất của các cấp lãnh đạo địa phương. Có ban giám
4


hiệu luôn quan tâm, sát sao và tạo mọi điều kiện để giáo viên hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
- Nhà trường và phòng Giáo dục & đào tạo thị xã thường xuyên mở các lớp
chuyên đề để giáo viên dự giờ, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau trong đó có mơn
tốn. Trong các buổi sinh hoạt chun mơn, trường đều tạo điều kiện cho giáo
viên trao đổi, tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên môn. Trong các buổi sinh
hoạt khối tổ, giáo viên cũng có điều kiện trình bày những khó khăn, vướng mắc
trong cơng tác giảng dạy để mọi người cùng nhau tháo gỡ.
- Trường có một đội ngũ đơng đảo các giáo viên có trình độ chuẩn và trên
chuẩn, ln tâm huyết với nghề, có ý thức học hỏi, nhiệt tình đóng góp ý kiến
lẫn nhau, sẵn sàng chia sẻ những hiểu biết về chuyên môn để cùng nhau tiến bộ.
Trình độ cơng nghệ thơng tin của đội ngũ giáo viên trong trường luôn được chú
trọng và phát huy trong quá trình giảng dạy cho học sinh.
+ Thuận lợi về phía học sinh
`

- Các em có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập phục vụ cho môn học.
- Đa số học sinh ham học hỏi, ham tìm tịi khám phá các kiến thức khoa

học.
- Phần lớn phụ huynh quan tâm, lo lắng đến việc học của con em mình, ln
đồng hành, chung tay, góp sức để tạo điều kiện tốt nhất cho con em mình học
tập.
b. Khó khăn
+ Về phía nhà trường và giáo viên:

- Mặc dù nhà trường rất được quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương
nhưng do trường nằm ở vị trí trung tâm của thị xã, khu đô thị mới được xây
dựng nhiều nên dân số trên địa bàn phường không ngừng được tăng lên,vì thế
mà số lượng học sinh trong trường liên tục tăng, không đáp ứng kịp về cơ sở vật
chất, phịng học cho các lớp. Do đó, nhà trường còn thiếu nhiều phòng học, phải
dồn số lượng học sinh trong trường lại, dẫn đến sĩ số các lớp đơng ( bình qn
trên 40 em một lớp) điều này gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy - học của
nhà trường.
5


- Mơn tốn là mơn học khơ khan và trừu tượng nên giáo viên gặp nhiều
khó khăn trong việc gây hứng thú cho học sinh khi học môn học này.
+ Về phía học sinh:
- Học sinh lớp 4 kĩ năng đọc đề, tìm hiểu đề và xác lập mối quan hệ giữa
các dữ kiện của bài tốn cịn nhiều hạn chế.
- Tư duy của các em chủ yếu vẫn còn là tư duy trực quan, thế nhưng, ở
mơn tốn, nhất là tốn có lời văn lại cần nhiều đế tư duy trừu tượng, nên học
sinh lúng túng, gặp nhiều khó khăn, thậm chí khơng làm được các dạng tốn cơ
bản.
- Một số em chưa hứng thú với mơn tốn (đặc biệt là giải tốn có lời văn)
nên các em chưa thật sự hợp tác trong giờ học, dẫn đến kết quả học tập của các
em chưa được như mong muốn.
2. Thực trạng của lớp 4A.
Lớp 4A do tôi chủ nhiệm có tổng sĩ số học sinh là 39 em, trong đó gồm
21 em nam và 18 em nữ. Đa số các em đều ngoan, điều kiện hồn cảnh gia đình
tương đối ổn định. Tuy nhiên nói về vấn đề học tập thì ngay từ những ngày đầu
năm, tơi đã nhận thấy có sự chênh lệch rất lớn về trình độ tiếp thu bài của các
học sinh trong lớp, đặc biệt là trình độ tiếp thu về giải tốn có lời văn.
Tơi đã tiến hành khảo sát chất lượng giải tốn của các em từ những ngày

đầu năm học để nắm bắt đối tượng, tìm hiểu nguyên nhân và tìm cách tháo gỡ.
Đề bài khảo sát như sau: (Thời gian làm bài trong 35 phút)
Câu 1: Tùng có 250 viên bi, Tồn có 175viên bi. Hỏi Tùng có nhiều hơn Tồn
bao nhiêu viên bi?
Câu 2: Có 5 bao gạo, mỗi bao đựng 50 kg gạo. Hỏi có tất cả bao nhiêu ki - lơ
gam gạo?
Câu 3: Có một tấm vài dài 75 mét, ngưởi ta cắt thành một số mảnh, mỗi mảnh
dài 5 m. Hỏi người ta cắt được tất cả bao nhiêu mảnh?
Câu 4: Mẹ có 3 kg đường, mẹ đã dùng hết 600g. Sau đó mẹ chia đều số đường
còn lại bào 6 túi nhỏ. Hỏi mỗi túi nhỏ có bao nhiêu gam đường?
6


Và đây là kết quả thu được:
TỔNG

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SỐ HS

SL

TL

SL


TL

SL

TL

39

8

20,5%

17

43,6%

14

35,9%

III. CÁC GIẢI PHÁP
1. Củng cố những kiến thức, kĩ năng cần thiết cho việc giải toán.
Là giáo viên, ai cũng hiểu được rằng: việc củng cố kiến thức, kĩ năng
cho học sinh là điều hết sức cần thiết. Nó cần thiết khơng chỉ ở mình mơn tốn
mà nó cịn cần thiết cho bất kỳ một mơn học nào. Tuy nhiên, mơn tốn lại là một
mơn học có tính lơgic cao, những kiến thức, kĩ năng mới của mơn tốn đều có
liên quan mật thiết đến các kiến thức, kĩ năng cũ của nó. Nếu khơng nắm được
kiến thức cũ thì sẽ khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức mới. Chính vì thế mà
việc củng cố những kiến thức, kĩ năng đã có cho học sinh để các em tiếp tục học
kiến thức cao hơn lại càng quan trọng và cần thiết hơn.

Và như chúng ta đã biết, khi giải tốn có lời văn ở bất kỳ dạng nào học
sinh cũng phải huy động tích hợp các kiến thức, kĩ năng đã có vào các tình
huống khác nhau để giải bài tốn. Nhưng đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học
là nhanh nhớ nhưng cũng nhanh qn. Chính vì thế, những kiến thức, kĩ năng đã
học nếu khơng được củng cố thì chỉ một thời gian ngắn sau các em sẽ lại quên đi
hết. Lúc đó, việc giải toán của các em tất yếu sẽ gặp khó khăn.
Vì vậy, đối với tơi, cơng việc đầu tiên để chuẩn bị cho các em học sinh
lớp 4 học tốt mơn tốn nói chung và có kĩ năng giải tốt các bài tốn có lời văn
nói riêng là phải củng cố vững chắc cho các em những kiến thức và kĩ năng toán
đã học và dạy cho các em biết vận dụng linh hoạt nó vào giải bài tốn. Tơi đã tự
lên cho mình kế hoạch củng cố cho các em như sau:
a. Lựa chọn những kiến thức, kĩ năng cần củng cố.
Để lựa chọn những kiến thức, kĩ năng cần củng cố cho học sinh trong việc
giải toán có lời văn ở lớp 4, tơi đã tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu kĩ nội dung
chương trình mơn tốn ở lớp 2, lớp 3 và các dạng tốn có lời văn ở lớp 4 để nắm
bắt được sự logic về kiến thức và kĩ năng giữa chúng, để từ đó lựa chọn các
kiến thức kĩ năng cần củng cố cho học sinh. Những kiến thức, kĩ năng được tôi
lựa chọn để củng cố cụ thể như sau:
- Kiến thức và kĩ năng thực hành tính tốn đối với bốn phép tính: Cộng,
trừ, nhân, chia số tự nhiên.
- Dạng tốn về nhiều hơn, ít hơn.
- Dạng tốn gấp một số lên nhiều lần.
- Dạng toán giảm một số đi một số lần.
- Dạng tốn tìm một phần mấy của một số.
- Các bài tốn về chu vi, diện tích hình vng, hình chữ nhật và một số
yếu tố hình học.
b. Cách củng cố những kiến thức, kĩ năng đó.
7



Mặc dù ở những tiết đầu của chương trình tốn 4 có dành một số tiết
để ơn tập, củng cố kiến thức lớp 3. Nhưng trong thực tế dạy học, những giáo
viên có kinh nghiệm thường căn cứ vào tình hình thực tế của học sinh từng lớp
mà lên kế hoạch củng cố cho học sinh lớp mình. Bản thân tơi cũng vậy, đối với
những lớp mà trình độ học sinh tương đối đồng đều, năng lực tiếp thu khá tốt thì
tơi chỉ cần dựa vào các nội dung ơn tập trong sách giáo khoa toán 4 để củng cố
lại cho các em một số tiết như vậy là đủ. Nhưng với những lớp có nhiều học sinh
có năng lực tiếp thu chậm như lớp 4A của tôi hiện nay thì việc củng cố kiến thức
cũ cho các em, được tôi tiến hành song song với việc dạy kiến thức mới và
được tiến hành trong suốt cả năm học. Cách thức thực hiện của tôi như sau:
Trước hết tôi cũng tiến hành ôn tập những kiến thức của lớp 3 theo nội
dung chương trình sách giáo khoa tốn 4. Sau đó, căn cứ vào nội dung mỗi bài
dạy và các đối tượng học sinh trong lớp để tôi lựa chọn những nội dung cần
nhắc lại cho học sinh để giúp các em huy động kiến thức đó vào giải bài tốn.
Chẳng hạn, khi học về Tìm số trung bình cộng có bài tốn: Có 9 ơ tơ chuyển
thực phẩm vào thành phố, trong đó có 5 ơ tơ đi đầu, mỗi ô tô chuyển được 36 tạ
và 4 ô tô đi sau, mỗi ô tô chuyển được 45 tạ. Hỏi trung bình mỗi ơ tơ chuyển
được bao nhiêu tấn thực phẩm?( Bài 4 tiết Luyện tập – trang 28 SGK tốn 4)
Với bài tốn này, những học sinh có năng lực tiếp thu chậm thường làm
như sau:
Trung bình mỗi ơ tô chuyển được số tấn thực phẩm là:
( 36 + 45) : 2 = ...
Và đến đây là các em sẽ lúng túng khơng tính tốn được nữa. Điều đó cho ta
thấy, các em không nắm vững dạng bài Gấp một số lên nhiều lần mà các em đã
được học ở lớp 3.
Là một giáo viên giảng dạy lâu năm tơi thường lường trước được điều này.
Vì vậy trong phần kiểm tra bài cũ hay ngay trong lúc giải bài tốn này, tơi
thường củng cố cho học sinh bằng cách nêu câu hỏi về kiến thức liên quan cho
học sinh nhớ lại để trả lời hoặc cũng có thể cho học sinh trả lời nhanh kết quả
của một bài toán mà do mình tự đặt ra vv… với mục đích gợi nhớ cho học sinh

những kiến thức đã học, chẳng hạn: Mỗi bạn có 3 quyển vở. Hỏi 5 bạn có bao
nhiêu quyển vở? Từ những bài tốn đơn giản và ngẫu hứng đó, tơi chỉ cho học
sinh thấy sự liên quan giữa bài toán lớp 3: Gấp một số lên nhiều lần mà các em
đã học để áp dụng giải bài tốn lớp 4 nói trên.
Hay với bài tốn: Một hình chữ nhật có nửa chu vi là 16m, chiều dài hơn
chiều rộng 4m. Tính diện tích của hình chữ nhật đó ( Trang 56 – SGK). Những
kiến thức có liên quan là cơng thức tìm số lớn, số bé, khái niệm dài hơn, ngắn
hơn, chu vi, nửa chu vi, diện tích của hình chữ nhật vv…Với bài tốn này,
những học sinh nào không nắm vững về đặc điểm của hình chữ nhật cũng như
khơng hiểu rõ về chu vi, nửa chu vi của hình chữ nhật thì các em rất khó nhận ra
đây là dạng tốn nào để mà giải bài toán.
Vậy để vừa giúp học sinh nắm lại kiến thức cũ vừa có hướng vận dụng để
giải bài tốn, khi phân tích đề, tơi có thể ghi lại kết quả phân tích của học sinh
bằng sơ đồ (như ở bên dưới) rồi hỏi học sinh: Ta có thể biểu diễn những điều
kiện đã cho của bài toán như thế này được khơng? Vì sao?
8


Chiều dài:
Chiều rộng :

4m

16m

Với sơ đồ phân tích như vậy, tơi sẽ giúp học sinh dựa vào đó nhớ lại
được: nửa chu vi của hình chữ nhật là tổng của một chiều dài và một chiều rộng
và cũng chính là tổng của 2 số, chiểu dài hơn chiều rộng 4m chính là hiệu 2 số.
Đến đây nhiều em đã dễ dàng nhận ra cách tìm chiều dài và chiều rộng bằng
cách áp dụng dạng bài Tìm hai số khi biết tổng và hiệu để sau đó các em đi đến

tính diện tích của hình chữ nhật một cách nhanh chóng.
Hay để giúp học sinh tiểu học hiểu rõ ý nghĩa phép tính và thực hành
thành thạo các phép tính nhằm phục vụ tốt cho việc giải tốn có lời văn, ngay từ
những bài đầu tiên ( ôn tập kiến thức lớp 3) của chương trình tốn 4, tơi đã củng
cố các kiến thức về thực hành với 4 phép tính trên hệ thống số tự nhiên, đặc biệt
là phép nhân và phép chia ( chia hết, chia có dư...) bằng cách cho các em làm
nhiều bài toán về bốn phép tính + , - , x , : , tồn tại với nhiều văn phong khác
nhau. Ví dụ : Một nhóm học sinh có 12 bạn, trong đó số bạn trai bằng một nửa
số bạn gái ( bằng 1/2, kém số bạn gái 2 lần, hoặc: số bạn gái gấp 2 lần số bạn
trai vv…). Hỏi nhóm bạn đó có mấy bạn trai, mấy bạn gái? Khi đó, các em sẽ
hiểu rõ ràng hơn về ý nghĩa của phép tính.
Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy, tôi đều coi trọng biện pháp này.
Đặc biệt là năm nay, khi mà các đối tượng học sinh trong lớp của tơi cịn rất
nhiều em bị rỗng kiến thức và chưa có kĩ năng tính tốn thành thạo thì biện pháp
này, là một biện pháp quan trọng để tôi giúp các em học được mơn tốn nói
chung và biết cách giải các bài tốn có lời văn nói riêng.
2. Hướng dẫn kĩ năng đọc đề và hiểu được các từ ngữ trong đề bài
a. Hướng dẫn học sinh đọc đề đúng
Đối với học sinh lớp 4, việc đọc đề đã được hướng dẫn rất nhiều qua các
lớp 1, 2, 3 nên kĩ năng đọc đề của các em nhìn chung là tốt. Tuy nhiên trong
thực tế, ta vẫn thấy cịn một số ít em, khi gọi các em đọc đề vẫn cịn có những
chỗ chưa ổn, như: ngắt nghỉ chưa đúng, đọc sai, đọc thiếu từ…mà dẫn đến giải
sai bài tốn. Vì vậy, khi dạy giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 4, tơi vẫn chưa
cho phép mình bỏ qua việc rèn kĩ năng đọc đề cho các em.
Ví dụ khi dạy bài Nhân một số với một hiệu (Trang 68 – SGK tốn 4) có bài
tốn: Một cửa hàng bán trứng có 40 giá để trứng, mỗi giá để trứng có 175 quả.
Cửa hàng đã bán hết 10 giá trứng. Hỏi cửa hàng đó cịn lại bao nhiêu quả
trứng?
Có một học sinh trong lớp tôi đã đọc như sau:
Một cửa hàng/ bán trứng có / 40 giá để trứng,/ mỗi giá để trứng có/175

quả./ Cửa hàng đã bán/ hết 10 giá trứng.// Hỏi/ cửa hàng đó cịn lại/ bao nhiêu
quả trứng?//
Với những học sinh đọc đề theo kiểu này thì việc hiểu đề của các em gặp
khó khăn là điều đương nhiên. Vì vậy cần phải hướng dẫn các em biết cách đọc
đề cho đúng. Và tôi đã sử dụng các cách hướng dẫn học sinh đọc đề đúng như
sau:
9


Cách 1: Dùng dấu gạch xiên để đánh dấu chỗ cần ngắt, nghỉ trong đề bài
rồi yêu cầu học sinh đọc đến những chỗ có dấu gạch xiên đó mới được ngắt
nghỉ.
Ví dụ: Một cửa hàng bán trứng/ có 40 giá để trứng,/ mỗi giá để trứng có 175
quả./ Cửa hàng đã bán hết 10 giá trứng.// Hỏi cửa hàng đó cịn lại bao nhiêu
quả trứng?//
Cách 2: Gọi những học sinh có kĩ năng đọc đề tốt đọc to đề bài trước lớp
đồng thời yêu cầu các học sinh ở dưới lắng nghe đọc thầm theo và dùng bút chì
đánh dấu chỗ bạn ngắt nghỉ trong đề bằng dấu gạch xiên, sau đó giáo viên yêu
cầu các bạn có kĩ năng đọc đề chưa tốt đọc lại đề bài và ngắt nghỉ cho đúng như
bạn vừa đọc.
Cách 3: GV gọi những em đọc đề chưa tốt đứng lên đọc to đề bài, nếu
các em đọc sai chỗ ngắt nghỉ nào, giáo viên chỉnh sửa ngay chỗ đó và sau đó
cho em đọc lại một lần nữa toàn bộ đề các em định hình lại cách đọc và hiểu đề
bài tốt hơn.
Ngoài ra để giúp học sinh biết đọc đề đúng, tơi cịn tiến hành kiểm tra
xem trong lớp tơi có những em nào kĩ năng đọc đề chưa ổn. Tôi tập trung vào
việc rèn kĩ năng đọc cho các em đó. Việc rèn kĩ năng đọc, khơng chỉ được tiến
hành trong mình tiết Tốn và tiết Tập đọc mà cịn được rèn trong các tiết học:
Luyện từ và câu; Lịch sử; Khoa học vv…
Tôi đã phân công cho các em học sinh trong lớp có kĩ năng đọc tốt kèm

cặp, hướng dẫn thêm cho bạn đọc yếu trong giờ ra chơi, trong các buổi sinh hoạt
15 phút đầu giờ…
Bên cạnh việc học sinh chưa biết đọc lưu loát, chưa biết ngắt nghỉ đúng dẫn
đến việc đọc đề mà không hiểu đề hoặc hiểu đề sai thì vẫn cịn tình trạng do đặc
điểm tâm, sinh lí của các em học sinh Tiểu học là hay vội vàng, hấp tấp dẫn đến
nhiều em đọc đề sai, đọc thiếu từ, chưa đọc kĩ đầu bài đã vội vàng giải nên dẫn
đến giải sai. Chẳng hạn với đề tốn Một hình chữ nhật có nửa chu vi là 16cm,
chiều dài hơn chiều rộng 4cm. Tính diện tích của hình chữ nhật đó? ( Trang 56
– SGK tốn 4). Có em do vội vàng, hấp tấp mà đọc thiếu đề như sau: Một hình
chữ nhật có chu vi là 16cm, chiều dài hơn chiều rộng 4cm. Tính diện tích của
hình chữ nhật đó?
Đối chiếu lại đề, ta thấy đề các em đọc chỉ thiếu đi có mỗi từ “nửa” trong
cụm từ “ nửa chu vi” và chỉ cần thiếu đi có mỗi một từ như vậy thì hậu quả sẽ là
rất lớn. Vì thế, mỗi khi giải tốn có lời văn, tơi thường u cầu các em phải đọc
đi, đọc lại đề nhiều lần để nhớ và tránh sai sót đáng tiếc khi giải tốn.
b. Hướng dẫn học sinh hiểu được các từ ngữ trong đề bài
Như chúng ta đã biết, việc giúp các em đọc đề tốt khơng đồng nghĩa hồn
tồn với việc các em đã hiều đề tốt. Bởi vì, học sinh lớp 4 vẫn cịn nhiều hạn chế
về trình độ ngơn ngữ nhất là các ngơn ngữ tốn học, đồng thời vốn sống của các
em cũng cịn q ít. Chính vì vậy mà có nhiều từ ngữ trong bài, các em đọc mà
khơng hiểu được . Điều đó khiến các em gặp khó khăn khi giải tốn. Chẳng hạn
với bài tốn: Người ta đổ đều 128 610 lít xăng vào 6 bể. Hỏi mỗi bể có bao
nhiêu lít xăng?( Trang 77- SGK, toán 4)
10


Hai từ “ đổ đều” ở trong bài được sử dụng bằng ngơn ngữ tự nhiên trong
cuộc sống nên có nhiều em khơng thể hiểu “ đổ” có nghĩa là “ chia” cịn “
đều” có nghĩa là “ bằng nhau” và hiểu đầy đủ cả hai từ là “ Chia bằng nhau”.
Chính vì thế mà có nhiều em lúng túng khơng biết lựa chọn phép tính nào để

giải nên có em thì lấy 128 610 trừ đi 6 có em lại lấy 128 610 cộng với 6 vv…
Hay khi học về dạng bài Tìm hai số khi biết Tổng và tỉ số của hai số đó
với bài tốn: Một sợi dây dài 28m được cắt thành hai đoạn, đoạn thứ nhất dài
gấp 3 lần đoạn thứ hai. Hỏi mỗi đoạn dài bao nhiêu mét? (Trang 149 – SGK,
Toán 4)
Với bài toán này, “ tổng” của hai số đã được thay bằng “ một sợi dây dài
28m” và “tỉ số” của hai số được thay bằng “ dài gấp 3 lần”. Việc sử dụng các
văn phong khác nhau như vậy, cũng khiến cho nhiều học sinh bối rối. Ở đây,
nếu các em khơng có kiến thức vững vàng, khơng có sự hiểu biết nhiều về từ
ngữ cũng như vốn sống thì các em sẽ không nhận ra được đây là dạng toán quen
thuộc mà các em đã học để mà giải bài tốn đó.
Ngồi những trường hợp ở trên, nhiều bài tốn cịn chứa các từ thường gọi
là từ “ cảm ứng” tức là các từ mà nội dung quen thuộc của nó gợi ra một phép
tính nào đó. Chẳng hạn từ “thêm vào” gợi ra phép tính “cộng”, từ “bớt đi” gợi
ra phép “tính trừ”, các từ “nhiều hơn/ít hơn” thường tương ứng với “phép
cộng/phép trừ”…Nhưng trong nhiều trường hợp, do không đọc kĩ và hiểu đúng
nghĩa của từ nên các em đã bị ám ảnh bởi tác dụng cảm ứng của từ đó và chọn
sai phép tính. Ví dụ: Tổ Một góp được 36 quyển vở. Tổ Hai góp được nhiều hơn
tổ Một 2 quyển nhưng lại ít hơn tổ Ba 2 quyển. Hỏi trung bình mỗi tổ góp được
bao nhiêu quyển?( trang175 – SGK, tốn 4)
Có học sinh đã giải bài này như sau:
Tổ Hai góp được số quyển vở là:
36 + 2 = 38 ( quyển)
Tổ Ba góp được số quyển vở là:
36 – 2 = 34 (quyển)
………………………………...
Ở đây rõ ràng các em đã bị ám ảnh bởi từ ít hơn. Từ này đã làm lạc hướng
học sinh nên các em mới chọn phép tính trừ trong lời giải thứ hai, trong khi
đúng ra các em phải chọn phép tính cộng.
Để khắc phục tình trạng học sinh khơng hiểu đề do trình độ ngơn ngữ cịn

hạn chế, thì ngồi việc rèn cho học sinh biết đọc đề lưu lốt, biết ngắt nghỉ đúng
như đã trình bày ở trên. Tơi cịn dùng các cách làm sau:
Cách 1: Giáo viên ghi đề bài lên bảng rồi gạch chân dưới các từ ngữ quan
trọng trong đề và hỏi học sinh cách hiểu của các em về từ ngữ đó:
Ví dụ trong bài toán ở trên: Người ta đổ đều 128 610 lít xăng vào
6 bể. Hỏi mỗi bể có bao nhiêu lít xăng?( Trang 77- SGK, tốn 4). Tơi đã gạch
chân dưới từ “ đổ đều” và tôi hỏi các em:
+ Em hiểu “ đổ đều” ở đây là đổ như thế nào? ( là đổ bằng nhau)
+ Có thể thay từ “ đổ đều” bằng từ nào? ( chia đều)
Cách 2: Cho học sinh nêu những từ ngữ mà em thấy khó hiểu trong bài
để cơ giáo giải thích.
11


Ví dụ với bài: Tổ Một góp được 36 quyển vở. Tổ Hai góp được nhiều hơn
tổ Một 2 quyển nhưng lại ít hơn tổ Ba 2 quyển. Hỏi trung bình mỗi tổ góp được
bao nhiêu quyển?( trang175 – SGK, tốn 4), học sinh có thể thắc mắc về câu:
“Tổ Hai góp được nhiều hơn tổ Một hai quyển nhưng lại ít hơn tổ Ba 2
quyển” có nghĩa là thế nào? Lúc này giáo viên có thể giải thích cho học sinh
bằng nhiều cách, có thể giải thích bằng lời hay giải thích bằng sơ đồ đoạn thẳng
như ở dưới đây:
Tổ 1:
Tổ 2:
Tổ 3:

2 quyển
2 quyển

Ngoài ra, nếu nghi ngờ có từ nào trong đề bài có khả năng học sinh
khơng hiểu, nó ảnh hưởng đến việc giải bài tốn thì sẽ bằng nhiều cách khác

nhau, tơi phải giúp học sinh hiểu được từ đó.
Ngồi những biện pháp như trên, tơi cịn chú ý kết hợp việc dạy các em biết
đọc và hiểu đề bài với việc củng cố, nâng cao trình độ tiếng Việt, bổ sung vốn từ
bồi dưỡng vốn sống thông qua nhiều môn học khác nhau trong chương trình tiểu
học, nhằm giúp học sinh có kĩ năng đọc đề và hiểu đề tốt.
3. Hướng dẫn kĩ năng tóm tắt đề và lập kế hoạch giải bài tốn.
a. Hướng dẫn tóm tắt đề
Như chúng ta đã biết, việc học sinh biết tóm tắt đầu bài tốn một cách rõ
ràng, cơ đọng có một ý nghĩa rất lớn trong việc tìm ra phương pháp giải và xây
dựng kế hoạch giải bài tốn. Việc tóm tắt đề giúp học sinh lược bỏ được những
ngôn ngữ tự nhiên, rườm rà với nhiều chi tiết thừa hay màu sắc cảm xúc không
cần thiết về mặt tốn học. Nhờ đó mà cái đã cho và cái cần tìm hiện ra rõ ràng
hơn, giúp các em nhanh chóng tìm ra cách giải bài tốn.
Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy, trong một lớp thường có khơng ít học
sinh gặp khó khăn trong việc tóm tắt đề. Nhiều em đã được giáo viên hướng dẫn
đọc đề, phân tích đề một cách rõ ràng, cặn kẽ nhưng khi thể hiện điều đó thành
một tóm tắt thì các em vẫn rất lúng túng, nhiều em khơng tóm tắt đúng hoặc có
đúng thì cũng cịn rườm rà, khơng khoa học.
Chẳng hạn với đề tốn: Có 8 phịng học, mỗi phịng học có 15 bộ bàn ghế,
mỗi bộ bàn ghế có 2 em học sinh đang ngồi học. Hỏi có tất cả bao nhiêu học
sinh đang ngồi học?(Trang 61- SGK, tốn 4.)
Với đề bài này, nhiều em khơng biết tóm tắt như thế nào cho ngắn gọn mà
thường ghi lại tất cả như sau:
Có: 8 phịng học.
Một phịng học có: 15 bộ bàn ghế.
Một bộ bàn ghế ngồi: 2 học sinh.
Có tất cả: … học sinh?
Nhìn vào tóm tắt này, ta có thể đốn được khả năng em học sinh ấy giải
được bài toán chỉ là khoảng 70 – 80%, khác với những em biết tóm tắt đề này
một cách cơ đọng, rõ ràng sau đây:

Một phịng có: 15 bộ bàn ghế
12


Một bộ bàn ghế có: 2 học sinh
8 phịng học có: … học sinh?
Vậy làm thế nào để học sinh có thể tóm tắt đề bài một cách cơ đọng nhất?
Tôi đã làm như sau:
Bước 1: yêu cầu học sinh đọc kĩ đề.
Bước 2: Dẫn dắt học sinh tìm hiểu đề. (Bước 1 và bước 2 như đã minh
họa ở phần trên.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh lược bỏ những từ ngữ khơng cần thiết bằng
các câu hỏi. Ví dụ như trong bài tốn trên:
Có 8 phịng học, mỗi phịng học có 15 bộ bàn ghế, mỗi bộ bàn ghế có 2
em học sinh đang ngồi học. Hỏi có tất cả bao nhiêu học sinh đang ngồi học?
(Trang 61- SGK, tốn 4.) Tơi sẽ đặt câu hỏi:
+ Trong câu “Có 8 phịng học, mỗi phịng học có 15 bộ bàn ghế, mỗi bộ
bàn ghế có 2 em học sinh đang ngồi học” ta thấy cần lựa chọn những từ ngữ
nào?
Học sinh trả lời, giáo viên gạch dưới các từ ngữ đó, chẳng hạn gạch dưới các từ
như sau: Có 8 phòng, mỗi phòng 15 bộ, mỗi bộ 2 em .
+ Trong câu: Hỏi có tất cả bao nhiêu học sinh đang ngồi học? Ta cần lựa
chọn những từ ngữ nào? HS sẽ trả lời giữ lại các từ như: Có tất cả, học sinh
Bước 4: Hướng dẫn học sinh sắp xếp các từ ngữ vừa lựa chọn thành một
tóm tắt hoàn chỉnh, khoa học nhất .
Sau khi đã lựa chọn và gạch dưới những từ ngữ quan trọng, tơi có thể cho
học sinh tự phát hiện và sắp xếp rồi sau đó giáo viên sửa chữa thành một tóm tắt
cơ đọng và u cầu học sinh nhìn tóm tắt đó nêu lại bài toán, hoặc trường hợp
học sinh lúng túng tơi có thể gợi ý bằng các câu hỏi:
+ Tất cả học sinh chính là số học sinh có trong mấy phịng? (8 phịng)

+ Mỗi phịng có mấy bộ bàn ghế?
+ Mỗi bộ bàn ghế có mấy em học sinh?
+ Vậy 8 phịng có bao nhiêu học sinh?
Từ cách làm như vậy nhiều học sinh trong lớp tôi đã nhanh chóng nhận ra
cách tóm tắt đề một cách cơ đọng như đã minh chứng ở trên:
Một phòng : 15 bộ bàn ghế
Một bộ bàn ghế : 2 học sinh
8 phòng học có: … học sinh?
Và qua cách tóm tắt đề như vậy các em cũng nhanh chóng định hình ra
cách giải bài toán.
Đối với các bài toán giải trong chương trình lớp 4, ngồi một số dạng bài
liên quan đến các phép tính: Cộng, trừ, nhân, chia ta thường hay cho học sinh
tóm tắt bằng lời thì đại đa số là những dạng bài có những điều kiện dễ minh họa
bằng sơ đồ đoạn thẳng như dạng bài: Tìm hai số khi biết tổng và hiệu; Tìm hai
số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó vv…
Khi cho học sinh lớp 4 tóm tắt bằng sơ đồ của dạng bài tổng – tỉ, hiệu- tỉ,
cũng có nhiều vấn đề giáo viên cần lưu tâm để giúp đỡ học sinh, chẳng hạn
như: các em không biết thể hiện “cái A gấp rưỡi cái B” hay “ giảm cái A đi 3 lần
thì được cái B” “ gấp cái A lên 5 lần thì được cái B” vv… thì thể hiện như thế
13


nào trên sơ đồ đoạn thẳng. Bởi vậy, giáo viên cần phải hướng dẫn tỉ mỉ cho học
sinh các thao tác vẽ. Ví dụ hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ thể hiện “ cái A gấp
rưỡi cái B” thì giáo viên phải vừa vẽ sơ đồ để minh họa vừa kết hợp giảng giải
cách vẽ như sau: Trước hết, ta vẽ đoạn thẳng thứ nhất biểu thị cho cái B rồi vẽ
đoạn thẳng thứ 2 bằng đoạn thẳng thứ nhất sau đó đo một nửa đoạn thẳng thứ
nhất kẻ nối tiếp vào đoạn thẳng thứ hai để thể hiện cho cái A, lúc này ta được A
gấp rưỡi B hay nhìn vào sơ đồ vừa vẽ học sinh sẽ hiểu A gấp rưỡi B hay A= 3/2
của B. Từ việc hướng dẫn các thao tác như vậy, học sinh sẽ nắm được thành

thạo các dạng tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng - một trong những cách tóm tắt
ngắn gọn, xúc tích và khoa học nhất của một số dạng tốn điển hình ở lớp 4.
b. Lập kế hoạch giải bài toán.
Trên cơ sở học sinh đã hiều đề và biết tóm tắt đề. Cơng việc tiếp theo là
giáo viên giúp học sinh lập kế hoạch giải bài toán tức là giúp học sinh xác định
trình tự các bước giải trong một bài tốn . Cơng việc này cũng là vấn đề nan giải
đối với nhiều học sinh. Với những bài tốn có liên quan đến nhiều dữ kiện thì
các em khơng biết gỡ rối từ chỗ nào. Ví dụ với bài tốn: Một thửa ruộng hình
chữ nhật có chiều dài 120m, chiều rộng bằng 2/3 chiều dài. Người ta cấy lúa ở
đó, tính ra cứ 100m2 thu hoạch được 50 kg thóc. Hỏi đã thu hoạch được ở thửa
ruộng đó bao nhiêu thóc?( trang 177- SGK, tốn 4)
Với đề bài này, những học sinh năng lực tiếp thu tốt đều xác định được trình
tự các bước giải một cách đơn giản. Nhưng với những học sinh có năng lực từ
trung bình trở xuống nhiều khi cũng rất lúng túng khơng biết tìm cái gì trước,
cái gì sau. Vì vậy giáo viên cần nắm bắt được các đối tượng đó để có phương
pháp giúp đỡ các em.
Thơng thường, để giúp học sinh xác định được trình tự các bước giải và giải
bài tốn này, tơi thường sử dụng các phương pháp như sau:
Phương pháp 1: phân tích – tổng hợp và đàm thoại để dẫn dắt các em.
Ví dụ tơi đặt câu hỏi:
+ Bài tốn cho ta biết gì?
+ Bài tốn hỏi ta điều gì?
+ Muốn tính được số lượng thóc ta phải biết gì ? ( Biết diện tích)
+ Muốn tính được diện tích thửa ruộng thì cịn phải tìm gì?vv….
Phương pháp 2: Hỏi ngược từ cuối
Ví dụ tơi đặt câu hỏi cho bài tốn ở trên như sau:
+ Bài tốn hỏi ta điểu gì? (Bài tốn hỏi ta về số thóc thu hoạch được trên
thửa ruộng)
+ Muốn tính được số thóc thu hoạch được trên thửa ruộng ta phải tính
được gì? ( tính được diện tích thửa ruộng)

+ Muốn tính được diện tích thửa ruộng ta đã biết số đo cạnh nào cịn cạnh
nào phải đi tìm?)
+ Vậy lời giải và phép tính đầu tiên của bài này là gì?
Từ những cách hỏi đáp, trao đổi như vậy giữa cơ và trị. Tơi đã giúp các
em xác định được trình tự các bước trong bài giải bài tốn. Ngồi ra, có những
14


bài tôi lại tổ chức cho các em thảo luận nhóm để các em giúp đỡ lẫn nhau. Với
những cách làm như vậy, việc tóm tắt đề và lập kế hoạch giải bài tốn của lớp
tơi hiện nay đã có những bước tiến rõ rệt.
4. Hướng dẫn kĩ năng trình bày bài giải và thực hiện các phép tính
trong bài giải.
Trong giải tốn có lời văn thì việc rèn cho học sinh kĩ năng trình bày bài
giải là một việc làm rất quan trọng. Bởi thực tế cho thấy, có nhiều học sinh có
năng lực tư duy tốn tốt, phát hiện vấn đề nhanh, tìm ra đáp số bài tốn một cách
mau chóng. Nhưng khi làm bài, kết quả vẫn bị đánh giá thấp hơn so với nhiều
học sinh khác có năng lực kém hơn. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đó
là do kĩ năng trình bày bài của các em chưa tốt. Bài giải của những em này
thường mắc những lỗi như sau:
- Chữ viết xấu, nét chữ nguệch ngoạc, khơng rõ ràng, hay sai, hay gạch
xóa… khiến cho người đọc không luận ra được là các em viết gì.
- Khơng biết trình bày bố cục bài giải sao cho hợp lí.
- Câu lời giải có nhiều em diễn đạt chưa được rõ ràng, rườm rà nhưng
ngược lại có em lại viết quá cộc lốc.
- Viết các phép tính đơi lúc khơng đầy đủ, chính xác, chẳng hạn như: Viết
nhầm số, viết thiếu dấu ngoặc, thiếu hoặc nhầm lẫn tên các đơn vị ở kết
quả của phép tính vv…
Bởi vậy, bản thân tơi, khi dạy giải tốn cho học sinh Tiểu học nói chung và học
sinh lớp 4 nói riêng, tơi rất chú trọng rèn cho học sinh có được kĩ năng trình bày

bài giải. Cụ thể như sau:
Trước hết nói về chữ viết. Nếu thấy trong lớp có những học sinh nào chữ
viết chưa đạt yêu cầu thì tơi tập trung uốn nắn cho các em. Việc rèn chữ viết cho
các em được tôi thực hiện thơng qua nhiều tiết dạy trong chương trình nhưng tập
trung nhiều nhất vẫn là giờ chính tả. Ngồi ra tơi còn tổ chức cho các em thi đua
viết chữ đẹp giữa các nhóm với nhau, tạo ra cho các em sự hứng thú trong việc
rèn luyện chữ viết.
Nói về kĩ năng trình bày bố cục bài giải, điều này tơi phải căn cứ vào mỗi
bài giải cụ thể mà dạy cho các em cách trình bày bố cục sao cho hợp lí. Chẳng
hạn với những bài có câu lời giải dài thì phải hướng dẫn các em viết câu lời giải
sát lề mới đủ, cịn với những bài có câu lời giải ngắn thì phải hướng dẫn các em
viết cách lề mấy ơ thì mới đẹp. Phép tính cũng vậy, khi viết phép tính phải tập
cho các em viết sao cho cân đối với câu lời giải ở trên, để khi nhìn vào bố cục ta
thấy nó hợp lí và đẹp mắt. Mặt khác, khi viết phép tính, nhiều em do vội vàng,
thiếu cẩn thận mà hay viết sai số, lộn số hoặc thiếu một số điều kiện trong phép
tính như thiếu dấu ngoặc đơn trong cơng thức tính chu vi hình chữ nhật, trong
tìm số lớn, số bé của dạng bài Tìm hai số khi biết tổng và hiệu (tổng và tỉ), thiếu
tên đơn vị ở kết quả của các phép tính vv…
Vì vậy, tơi phải tập cho học sinh có thói quen kiểm tra lại phép tính vừa viết
được trước khi thực hiện tính tốn. Và sau khi thực hiện tính tốn xong tơi lại
u cầu học sinh một lần nữa kiểm tra lại thứ tự thực hiện của các phép tính xem
đã đúng chưa. Bởi khi giải toán, nhiều em luống cuống quên mất thứ tự thực
15


hiện các phép tính trong một biểu thức nên cứ thế thực hiện lần lượt từ trái sang
phải dẫn đến kết quả bài toán sai.
Đối với kĩ năng viết câu lời giải, tôi thường tập cho học sinh diễn đạt bằng
nhiều cách khác nhau. Ví dụ sau khi cho một học sinh lên bảng trình bày một bài
tốn giải nào đó, tơi sẽ cho học sinh nhận xét bài làm trên bảng của bạn. sau đó,

tơi đặt vấn đề: Ngồi câu lời giải của bạn, em nào có thể nêu cho cô một câu
lời giải khác được không? Trong các câu lời giải các bạn vừa nêu, em thấy câu
lời giải nào hợp lí nhất? Bằng những cách làm như vậy, tơi đã giúp cho học
sinh trong lớp có kĩ năng viết câu lời giải khá phong phú và chuẩn xác.
VI. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Việc rèn kĩ năng giải tốn có lời văn cho học sinh Tiểu học nói chung và
học sinh lớp 4 nói riêng, về thực chất đã được tôi thực hiện trong nhiều năm.
Nhưng bắt đầu từ tuần thứ 4 của năm học 2018 – 2019 trở về đây, tôi đã áp dụng
các biện pháp rèn kĩ năng giải toán cho học sinh lớp 4A do tơi phụ trách một
cách tồn diện và triệt để hơn nên kết quả thu được cũng đáng khích lệ. So với
trước đây thì nhiều em học sinh trong lớp 4A đã tiến bộ rất nhiều, Các em đã biết
vận dụng những điều tôi hướng dẫn vào việc thực hiện các bước giải của một bài
toán; xác định được dạng bài và nắm được cách giải; biết đặt lời giải và phép
tính phù hợp; kĩ năng tính tốn đã nhanh và chính xác hơn; trình bày bài giải khá
rõ ràng, đẹp mắt. Kết quả học tập của các em đã được nâng cao rõ rệt giúp các
em tự tin và hứng thú hơn với việc học mơn tốn, nhất là học về tốn có lời văn.
Mặc dù đây mới chỉ là kết quả bước đầu hết sức khiêm tốn, chưa được coi là
một bước đột phá. Nhưng tôi cũng cảm thấy vui vì mình đã vận dụng giải pháp
có hiệu quả. Điều này chứng tỏ những giải pháp mà tơi đưa ra đã góp một phần
khơng nhỏ giúp các em học tốt mơn tốn nói chung và các bài tốn có lời văn nói
riêng.
Để kiểm chứng tính hiệu quả về những việc làm của mình, cuối tháng 3 vừa
qua, tôi đã tiến hành khảo sát lại chất lượng giải tốn có lời văn của lớp 4A.
Đề bài khảo sát lần này như sau:
Câu 1: Một ô tô chở muối lên các huyện miền núi, ba chuyến đầu, mỗi chuyến
chở được 45tạ muối, hai chuyến sau, mỗi chuyến chở được 5 tấn muối. Hỏi
trung bình mỗi chuyến ơ tơ đó chở được bao nhiêu tạ muối?
9

Câu 2: Một trường Tiểu học só 216 học sinh nữ, số học sinh nam bằng 8 số

học sinh nữ. Hỏi trường Tiểu học đó có bao nhiêu học sinh nam?
Câu 3: Một sân vận động hình chữ nhật có chiều dài hơn chiều rộng 20 mét và
có chu vi là 240 mét. Tính diện tích của sân vận động đó.
Câu 4: Người ta trồng lúa trên một thửa ruộng hình bình hành, có độ dài đáy là
2

75 m và chiều cao bằng 3 cạnh đáy. Biết cứ 10 m2 thu hoạch được 5 kg thóc.
Hỏi thửa ruộng thu hoạch được tất cả bao nhiêu ki - lơ - gam thóc?
Kết quả thu được:
TỔNG
SỐ HS

Hồn thành tốt
SL

TL

Hoàn thành
SL

TL

Chưa hoàn thành
SL

TL
16


39


18

46,1%

21

53,9%

0

0%

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Qua thực tế giảng dạy chúng ta biết, trong một lớp học bao giờ cũng có
nhiều đối tượng học sinh với những khả năng, trình độ hiểu biết, năng lực tư duy
khác nhau. Chính vì vậy mà trong q trình học tốn nói chung và học giải tốn
có lời văn nói riêng nhiều em gặp phải khó khăn đó là điều khơng tránh khỏi.
Vậy muốn giúp học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng có kĩ
năng giải tốt các bài tốn có lời văn thì:
* Đối với giáo viên
- Cần phải quan tâm, sát sao, nắm bắt đối tượng học sinh để có kế hoạch dạy học
phù hợp.
- Chú trọng việc đầu tư soạn bài.
- Chuẩn bị tốt các nội dung để hướng dẫn HS qua từng bước của từng bài cụ thể.
- Kịp thời uốn nắn, sửa sai cách làm bài, trình bày bài làm của học sinh.
- Tăng cường sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tính
tích cực của học sinh.
- Giáo viên cần có lịng u nghề, mến trẻ, tận tụy với học sinh. Trong quá trình

giảng dạy thường xuyên nhắc nhở học sinh phải thực hiện đầy đủ các bước khi
tiến hành giải bài tốn có lời văn.
- Chú trọng tổ chức cho học sinh luyện tập, thực hành nhiều để trau dồi kĩ năng
giải toán cho các em.
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá để có biện pháp giúp đỡ học sinh kịp thời.
* Đối với học sinh
- Tăng cường học tập tốn, đặc biệt là giải tốn có lời văn.
- Tập trung nghe giảng, có tinh thần tự học, tự rèn.
- Nắm chắc về lý thuyết, cách giải từng dạng bài.
- Cần có thói quen đọc sách để tham khảo những dạng bài mới.
2. KIẾN NGHỊ
Nhà trường cần có giải pháp để giảm bớt số lượng học sinh đông trong một
lớp để tạo điều kiện cho giáo viên có điều kiện sát sao được nhiều hơn đến các
đối tượng học sinh.
17


3. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo viên và sách giáo khoa mơn Tốn lớp 2; lớp 3 và lớp 4.
- Phương pháp dạy học Tốn (giáo trình dùng trong các trường sư phạm đào tạo
giáo viên Tiểu học – nhà xuất bản Hà Nội năm 1992)
- SKKN rèn kĩ năng giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 4 (của bản thân tôi
thực hiện từ năm 2015 - 3016).

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Ba Đình, ngày 20 tháng 3 năm 2019
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép của người khác.

NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Thị Tuyên
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT
THỊ XÃ BỈM SƠN

18


PHỤ LỤC

NHỮNG SÁNG KIẾN ĐƯỢC XẾP LOẠI
TRONG NHỮNG NĂM HỌC GẦN ĐÂY
Năm học

Tên SKKN

Kết quả XL
Cấp thị
Cấp tỉnh

2015- 2016

Rèn kĩ năng giải tốn có lời văn cho học
sinh lớp 4

B

2016 - 2017


Rèn một số kĩ năng làm văn tả cảnh cho
học sinh lớp 5, trường Tiểu học Ba
Đình, Bỉm Sơn

A

2017 - 2018

Một số biện pháp nâng cao chất lượng
dạy - học văn tả cảnh cho học sinh lớp 5,
trường Tiểu học Ba Đình, Bỉm Sơn.

B

2018 - 2019

Một số kinh nghiệm dạy giải tốn có lời
văn cho học sinh lớp 4, trường Tiểu học
Ba Đình, Bỉm Sơn

A

B

19



×