Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 4 trường TH tén tằn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.56 KB, 11 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Chính tả là chuẩn mực của ngôn ngữ viết, được thừa nhận trong ngơn ngữ
tồn dân. Mục đích của nó làm phương tiện thuận lợi cho việc giao tiếp bằng
chữ viết, bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất những điều
đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, một sự quy định có
tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó khơng cho phép vận dụng quy tắc một
cách linh hoạt, có tính chất sáng tạo cá nhân.
Để giúp học sinh nói, viết đúng tiếng phổ thông trước hết người giáo viên
cần phải hiểu và nắm vững thuật ngữ “Chính tả” được hiểu theo nghĩa gốc là
“Phép tính đúng” hoặc “Lối viết hợp chuẩn”.
Phân mơn Chính tả trong nhà trường giúp học sinh hình thành năng lực và
thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng
Tiếng Việt. Vì vậy phân mơn Chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực
hiện mục tiêu của môn Tiếng Việt là rèn và phát triển tiếng phổ thơng cho học
sinh, trong đó có năng lực chữ viết.
Từ việc thấy được vị trí đặc biệt quan trọng của phân mơn Chính tả và qua thực
tế giảng dạy tôi xin đưa ra “Một số kinh nghiệm giúp nâng cao chất lượng dạy
học chính tả cho HS lớp 3 khu Chiên Pục trường tiểu học Tén Tằn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra những giải pháp giúp nâng cao chất lượng giờ học chính tả cho
học sinh.
Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân dẫn đến những lỗi học sinh thường mắc
phải trong giờ chính tả.
Đề xuất giải pháp để khắc phục lỗi thường gặp trong giờ chính tả cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số kinh nghiệm giúp nâng cao chất lượng dạy học chính tả cho HS
lớp 3 khu Chiên Pục trường tiểu học Tén Tằn
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phương pháp điều tra.


Phương pháp quan sát.
Phương pháp thảo luận – trao đổi chuyên môn cùng các đồng nghiệp.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó
việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở của viết đúng. Tuy
nhiên do yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi mỗi khác. Mặc dù những quy
tắc, quy ước về chính tả được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng việc viết
đúng chính tả trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp tơi nói riêng cịn
gặp nhiều khó khăn.
Một bài viết có sức thuyết phục khơng chỉ hay và đúng về nội dung mà
cịn cần phải trình bày rõ ràng, viết đúng chính tả, viết đẹp. Ở lớp 3 học sinh tiếp
tục hoàn thiện kỹ năng viết đúng chính tả đã học ở lớp dưới. Các tiết dạy đều
1


nhằm mục tiêu nói chung là giúp cho học sinh có thể viết đúng mọi (âm tiết)
trong Tiếng Việt.
Người giáo viên muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng phải
thơng qua năng lực viết đúng chính tả của các em. Chính vì vậy mỗi thầy, cơ giáo
cần phải nhiệt tình trong cơng tác giảng dạy, rèn cho học sinh viết đúng chính tả
ngay từ đầu để giúp nâng cao được chất lượng giờ học chính tả cho học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung
Trong những năm gần đây, các nhà trường tiểu học luôn quan tâm đến
chữ viết qua các phong trào thi “Viết chữ đẹp”. Đây là một hình thức để tun
truyền sâu rộng cho tồn dân trong việc giáo dục con em viết chữ đẹp. Viết đẹp
khơng phải chỉ đẹp về hình thức mà cịn đúng cả về luật chính tả.
Hiện nay, tình hình viết sai lỗi chính tả của học sinh khá phổ biến. Vấn đề
này có thể do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ yếu là do giáo viên và học

sinh đôi khi cịn phát âm theo tiếng địa phương (chưa nói chuẩn theo tiếng phổ
thơng). Hơn nữa trình độ Tiếng Việt của một số giáo viên còn hạn chế, năng lực
nắm luật chính tả chưa sâu nên cịn lúng túng trong việc giảng dạy chính tả. Mặt
khác do điều kiện gia đình các em làm nông nghiệp, bố mẹ suốt ngày bận rộn
với cơng việc đồng áng, nương rẫy khơng có thời gian dạy dỗ con cái. Phần nữa
là ý thức học tập của các em cịn hạn chế, khơng đồng bộ. Cơ sở vật chất của
nhà trường còn thiếu thốn như: phòng học chưa đủ ánh sáng, bàn học cho HS
chưa đúng kích cỡ, khơng phù hợp với lứa tuổi các em….Do đó, một yêu cầu
bức xúc là giáo viên phải thực sự quan tâm tới từng đối tượng học sinh, có biện
pháp cụ thể, sát thực trong việc luyện cho học sinh viết đúng, đẹp để nâng cao
chất lượng giờ chính tả cho HS lớp 3.
2.2.2. Thực trạng lớp chủ nhiệm
a. Thuận lợi
Lớp học gồm 20 em, trong đó có 12 em nam, 8 em nữ. Các em đều ngoan
ngoãn, biết nghe lời thầy cơ giáo.
b. Khó khăn:
Học sinh trong lớp là con em dân tộc Thái nên Tiếng Việt vốn không
phải là tiếng mẹ đẻ của các em. Mặt khác các em là con em gia đình nơng
nghiệp nên việc chăm lo đến học tập của các bậc phụ huynh đối với con em
mình cịn hạn chế. Có em đi học cịn qn vở, qn bút sách.
Vì vậy sau khi ổn định tổ chức lớp trong vòng hai tuần đầu, tôi đã tiến
hành điều tra học sinh. Qua bài kiểm tra đầu năm của các em tôi đã thu được kết
quả như sau:
Tổng số HS
Thời điểm đầu năm học
Đạt
Chưa đạt
SL
TL
SL

TL
20
7
35%
13
65%
Qua thực tế kết quả điều tra cho thấy tình trạng các em viết xấu, viết sai
nhiều lỗi chính tả chiếm số đơng trong lớp. Nếu như khơng có biện pháp khắc
2


phục sớm, giúp các em viết đúng, viết đẹp thì lên lớp 4 các em sẽ học như thế
nào? Điều này đã thơi thúc tơi tìm ra và áp dụng một số giải pháp cụ thể, sát
thực giúp nâng cao chất lượng giờ học chính tả cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm.
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Rèn nền nếp tác phong cho học sinh khi ngồi viết chính tả
Muốn các em có nét chữ đẹp thì tư thế ngồi viết là rất quan trọng. Chính
vì thế ngay từ buổi đầu bước vào lớp, tôi chú ý ngay đến tư thế ngồi viết của
từng em. Nhiều em lên lớp 3 mà khi viết mắt vẫn cúi sát xuống bàn, rồi cầm bút
thấp quá nên mực hay ra tay làm bẩn vở. Để giúp các em biết ngồi ngay ngắn,
đúng tư thế khi viết tôi đã giải thích cho các em hiểu việc ngồi viết đúng tư thế
sẽ giúp chữ viết đẹp hơn và có lợi cho sức khoẻ. Ngược lại, nếu ngồi xiêu vẹo
người thì sẽ bị tật vẹo cột sống suốt đời. Nếu em nhìn vào vở sát quá thì mắt sẽ
bị cận thị ….Sau đó giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và làm theo tư thế
ngồi viết. Ngồi viết ngay ngắn, lưng thẳng, khơng tì ngực vào bàn. Đầu hơi cúi,
mắt cách vở khoảng 25 – 30cm. Tay phải cầm bút, tay trái đặt phía trước bên
trái quyển vở, giữ mép vở khi viết không bị xê dịch, quyển vở được để hơi
chếch về phía tay trái, hai chân để song song, thoải mái.
Tiếp đến tôi hướng dẫn cho các em cách cầm bút sao cho dễ viết, không
cao q khó viết và khơng thấp q mực vào tay làm bẩn bài viết. Khi hướng

dẫn tỉ mỉ, tôi khuyến khích các em thực hiện. Bạn nào ngồi đúng nhất được cơ
tun dương trước lớp. Trong các tiết dạy chính tả tiếp theo, tôi luôn nhắc nhở
để các em nhớ và ngồi đúng, tạo thói quen cho học sinh.
2.3.2. Luyện viết đúng phụ âm đầu
Để giúp học sinh viết đúng 1 số phụ âm đầu dễ lẫn lộn, trong mỗi giờ
chính tả tơi phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt.
Chẳng hạn, với phương pháp trực tiếp, tôi cho học sinh nghe, đọc, nhận
xét các chữ viết đúng bằng mắt, tập viết vài lần chữ khó vào bảng con cho quen
tay. Bước đầu tơi đọc tồn bài, sau đọc từng câu, từng cụm từ, chú ý nhấn mạnh
những tiếng khó để luyện tập cách nghe cho học sinh. Tiếp theo tôi đặt câu hỏi
bằng phương pháp gợi mở vấn đáp để giúp các em nhận ra những tiếng từ các
em hay viết sai. Sau đó tơi cho một số em nhắc lại một số luật chính tả mà các
em đã được học như:
Trước e, ê và i âm c được viết bằng chữ k.
Ví dụ: kể; kẻ…
Hoặc trước e, ê và i âm g được viết bằng chữ gh (gh ghép) hay ng viết
bằng ngh (ngờ ghép).
Ví dụ: ghế; ghé…
nghỉ; nghé…
Sau khi các em nhắc lại được 1 số luật chính tả, thì cho các em được
luyện viết nhiều lần trên bảng con để các em nhớ.
Trong những giờ chính tả có phần luyện tập s/d/gi đa số các em khó tìm
ra quy tắc phân biệt khi nào viết, d hay gi. Vì vậy với bài tập so sánh trên tôi cho
các em phân biệt bằng nhiều cách. Đầu tiên cho các em dựa vào nghĩa để phân
biệt.
3


Bước 1: Cho học sinh đọc kỹ đoạn văn, tìm ra những tiếng, từ có phụ âm
đầu r/d/gi có trong bài.

Học sinh tìm được là: dạo, rụt, rè, giờ, giỏi, dành,…
Bước 2: Cho học sinh viết bảng con (nhận xét, giảng giải cách viết) phát
âm, giải nghĩa từ, tìm từ có tiếng đó.
Chẳng hạn: với tiếng “dạo”.
Học sinh viết bảng con, giáo viên nhận xét và giảng cách viết.
d + ao + dấu nặng - dạo.
+ Phát âm (gv làm mẫu, gọi 2 học sinh phát âm lại) d – ao – nặng – dạo.
+ Giải nghĩa (giáo viên có thể gợi ý cho học sinh giải nghĩa).
Em hãy đọc lại câu có chứa tiếng “dạo” cho trong bài và cho cơ biết “dạo”
ở đây ý nói gì? (chỉ khoảng thời gian ngắn chưa lâu)
+ Học sinh tìm từ có tiếng “dạo”; dạo này, một dạo…
Bước 3: Cho học sinh phân biệt r/ d/ gi bằng cách tìm các tiếng lập bảng.
r
- rạo: rạo rực
rào rạo, rệu rạo….

d
dạo: dạo nào
dạo chơi, dạo này

gi
khơng có

Gợi ý cho học sinh điền từ bằng cách dùng câu hỏi gợi ý. Em tìm từ có
tiếng “rạo”, “dạo”. Học sinh tìm đến đâu tơi ghi lên bảng đến đấy.
Hoặc dạng bài tìm và viết tiếp vào vở tên các đồ vật, con vật:
Bắt đầu bằng r
Bắt đầu bằng d
Bắt đầu bằng gi
-rổ,…

dế,….
giường,….
Học sinh thảo luận nhóm kể ra một số đồ vật, con vật theo yêu cầu và
chốt lại ghi vào vở.
Dù sử dụng phương pháp nào đi nữa tôi đều phải theo dõi, quan tâm uốn
nắn từng em. Những em viết sai s/ x là do các em phát âm sai. Khi dạy tôi phải
phát âm lại cho các em nghe, phát âm s cong lưỡi, đầu lưỡi chạm ngạc phía trên.
Cịn viết là x khi đọc lưỡi thẳng, đầu lưỡi đưa ra phía ngồi, luồng hơi thẳng ra
ngồi. Sau đó tơi cho cả lớp phát âm lại nhiều lần cho đúng, viết bảng con theo
sự phát âm của cô như: thi viết nhanh và đúng. Cô đọc “xanh” cả lớp viết vào
bảng con, bạn nào viết sai bị đứng lên phát âm lại 10 lần hoặc một số từ có tiếng
khác như (mùa xuân, sương,…). Hoặc khi dạy chính tả tiết 1 tuần thứ 2 ở phần
luyện tập tôi chọn bài tập 3a (bài lựa chọn) giúp các em làm quen với cách phân
biệt s/x qua các dạng bài tập.
Bài tập: Hãy chọn từ nào trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống?
a) - (xấu, sấu): cây…….., chữ …….
- (sẻ, xẻ): san ………., ……gỗ
- (Sắn, xắn): …….tay áo, củ……
Hoặc - (Chiều, triều): buổi …….., thủy …….., ……….đình
4


………chuộng, ngược ………, ………..cao
Trước khi làm bài tôi cho 2 em đọc to nội dung yêu cầu của bài tập, cả lớp
đọc thầm.
Sau khi học sinh hiểu được nội dung u cầu bài tập, tơi tiến hành tổ chức
các hình thức luyện tập như sau:
Giáo viên phát 3 băng giấy cho 3 em học sinh thi làm bài tại chỗ. Cả lớp
làm bài trên giấy nháp.
Mỗi em làm bài xong (trên băng giấy) dán bài lên bảng đọc kết quả. Cả

lớp và giáo viên nhận xét về nội dung lời giải, phát âm, kết luận bài làm đúng.
Bạn nào mà làm đúng, nhanh nhất là thắng cuộc.
Cả lớp và giáo viên nhận xét và sửa lỗi bài làm trên bảng lớp được dán.
Cây sấu, chữ xấu.
San sẻ, xẻ gỗ.
Xắn tay áo, củ sắn.
Những em thắng cuộc được cô khen ngợi và cả lớp thưởng một tràng vỗ
tay khuyến khích.
Để phân biệt được s/x tôi đưa ra cho các em nhiều dạng bài tập như dạng
câu đố giúp học sinh học tập sơi nổi hơn. Từ đó các em làm quen và biết cách
dùng đúng khi viết chính tả.
Dạng bài tập: Điền vào chỗ trống s hay x
Giàu đôi con mắt, đơi tay.
Tay …..iêng làm lụng, mắt hay kiếm tìm (siêng)
Hai con mắt mở, xa nhìn
Cho sâu, cho ….áng mà tin cuộc đời (sáng)
Xuân Diệu
Hoặc dạng bài tập:
Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng s hay x có nghĩa như sau:
- Cùng nghĩa với chăm chỉ
(siêng năng).
- Trái nghĩa với gần
(xa).
- Nước chảy rất mạnh và nhanh (xiết)
Với những dạng bài tập trên tôi đều tổ chức cho các em trao đổi theo nhóm.
Sau đó đại diện nhóm lên thực hiện hay trình bày, các nhóm khác nhận xét bổ sung.
Giáo viên chốt lại lời giải đúng và tuyên dương những nhóm làm đúng.
Để giúp các em viết đúng chính tả, cũng như biết phân biệt được các phụ
âm đầu, tơi thường linh hoạt khi dạy chính tả như dạy tiết 3 tuần 5. Các bài tập
trong sách giáo khoa được đưa ra phân biệt l/n hoặc en/eng. Song khi dạy học

sinh lớp tơi các em khơng nói sai và không viết sai l/n hoặc en/eng nên tôi chủ
động thay bài tập này bằng bài tập phân biệt ch/tr hoặc b/v để các em được
luyện đọc, viết nhiều, hiểu nghĩa của từ sẽ giúp cho các em dễ nhớ và viết đúng
chính tả.
Với việc dạy phân biệt ?/ hay tr/ch các em hay nói sai và dẫn đến viết
sai nên tơi ln cho các em được luyện tập như hình thức luyện tập s/x nói trên.
VD : Điền vào chỗ trống tr hay ch
5


Mèo con đi học ban ....ưa
Nón nan khơng đội, ....ời mưa ào ào
Hiên ....e không .....ịu nép vào
Tối về sổ mũi cịn gào ‘‘meo meo’’.
Khi dạy chính tả dạng bài tập này, trước khi viết bài tôi luôn coi trọng
việc tìm và luyện viết chữ khó(chữ các em hay viết sai) trong bài. Đối với bước
luyện viết từ khó này tiết nào tôi cũng thực hiện. Trước hết tôi cho các em tìm
trong đoạn bài viết những từ nào em thấy khó viết. Học sinh nêu ra trước lớp,
giáo viên sẽ cho các em được luyện viết trên bảng con và gọi vài em lần lượt lên
bảng viết. Cả lớp và giáo viên nhận xét đúng sai.
Song song với việc phân biệt phụ âm đầu, tôi luyện cho các em viết đúng
các vần khó trong các tiếng từ.
2.3.3. Luyện viết đúng tiếng có vần khó
Trong q trình viết các em thường gặp phải những tiếng, từ có vần khó
(uyu, oang, uyết…) một số tiếng có vần dễ lẫn lộn (oe/ eo/ uê/ oa/ ao…) một số
từ khó “khuỷu tay” trong bài “ai có lỗi”, “khốt tay” trong bài “người lính dũng
cảm” …
Để rèn viết đúng các lỗi này, trước khi viết bài tôi gọi học sinh phân biệt
từng tiếng, cho học sinh khác nhau nhận xét và thống nhất cách viết.
kh + uyu + thanh hỏi = khuỷu

kh + oat + thanh sắc = khốt
Vần khó nên khi phân tích tơi chú ý nhấn giọng vào phần vần, sau đó cho
học sinh viết bảng con, lớp nhận xét và tự sửa sai. Với những bài viết có ít
những vần khó tơi có thể lấy thêm một số tiếng có vần khó đó, đọc cho học sinh
viết để khắc sâu vần cần chú ý.
Trong các tiết chính tả tơi thường chọn các dạng bài tập khác nhau cho
các em được làm nhiều, luyện viết nhiều để các em nhớ cách viết đúng.
2.3.4. Nhận xét, chữa bài tập chính tả
Để nâng cao chất lượng giờ chính tả, việc nhận xét, chữa bài cũng rất
quan trọng. Nó giúp các em biết tự sửa lỗi sai của mình, nhớ viết đúng lần sau
khơng bị mắc lỗi sai đó.
Có nhiều hình thức nhận xét, chữa bài. Ví dụ như sau khi học sinh viết bài
xong, cơ đọc chậm lại tồn bài cho các em tự soát lỗi hoặc cho các em đổi chéo
vở cho nhau để soát lỗi. Nếu phát hiện ra lỗi sai của bạn, kịp thời bảo bạn sửa lại
ngay.
Từ việc học sinh tự chữa lỗi theo tơi có những điểm tích cực sau đây.
- Các em được tiếp xúc (có thức) với văn bản viết một lần nữa, qua đó góp
phần củng cố những kiến thức vừa được hướng dẫn.
- Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự phát hiện ra những lỗi chính
tả. Từ đó các em có điều kiện để tái hiện lại quy tắc viết đúng chính tả cho mỗi
trường hợp. Điều này góp phần củng cố, khắc sâu hơn cho học sinh những khả
năng chính tả.
- Trường hợp những em học sinh yếu, chuyên viết sai lỗi chính tả thì khơng
6


tự phát hiện được lỗi của bạn. Đối với những em này, giáo viên đi đến từng em
để hướng dẫn cách chữa lỗi. Từ đó giúp các em có thể nắm bắt được luật chính
tả một cách thuận tiện.
- Thơng qua việc tự chữa lỗi của các em, tôi đã giáo dục các em tính cẩn

thận, chính xác, khơng để sai sót đồng thời cũng kết hợp giáo dục lịng trung
thành cho các em, sai lỗi nào bảo bạn sửa lỗi ấy.
- Hình thành ý thức giữ gìn đồ dùng của bạn cũng như của mình (giữ vở
sạch, viết chữ đẹp), không được làm rách, bẩn vở của bạn trong q trình chữa
sốt lỗi.
- Hình thành ở các em ý thức hồn thành nhiệm vụ được giao (tính tự giác).
Để thực hiện mục tiêu này, cần phải được tiến hành thường xuyên đối với
các tiết chính tả. Tạo cho các em thói quen và giữ trật tự khi trao đổi bài. Giáo
viên ln tun dương và khuyến khích những em viết đúng, viết đẹp.
Với giải pháp trên đã khích lệ học sinh viết đúng để cho bạn khơng tìm ra
lỗi sai của mình và được cơ khen trước lớp. Chính vì thế chỉ một thời gian
khơng lâu tơi đã thu được kết quả đáng khả quan.
2.3.5. Luyện viết chữ đúng, đẹp
Để nâng cao chất lượng giờ chính tả, thì việc luyện chữ viết cho các em là
rất cần thiết. Viết đẹp nó cịn thể hiện được tính cách của con người “Nét chữ nết người”. Trong lớp tôi đầu năm học có rất nhiều em viết chữ chưa đẹp. Các
em viết chưa đúng kích cỡ: độ cao, độ rộng của các con chữ, khoảng cách giữa
các chữ hay các con chữ chưa đều, các nét chữ chưa liền mạch….
Để giúp các em khắc phục những tình trạng trên tơi đã hướng dẫn các em
cách nhớ độ cao con chữ bằng cách chia độ cao các chữ cái thành 5 nhóm (đối
với chữ viết thường).
Nhóm 1: Nhóm chữ cao 1 đơn vị: a, ă, â, c, e, ê, i, m, n, o, ơ, ơ, u, ư, v, x.
Nhóm 2: Nhóm chữ cao 1,25 đơn vị: r, s
Nhóm 3: Nhóm chữ cao 1,5 đơn vị: t.
Nhóm 4: Nhóm chữ cao 2 đơn vị: d, đ, q, p.
Nhóm 5: Nhóm chữ cao 2,5 đơn vị: h, l, b, k, g, y.
Khi học sinh học thuộc độ cao của các chữ cái trên tôi tiến hành hướng
dẫn viết trên dòng kẻ bảng lớp. Trong khi viết giáo viên nhắc nhở các em viết
đúng độ rộng của chữ. Muốn viết đẹp thì các con chữ cần phải có độ cao bằng
nhau, độ rộng bằng nhau, khoảng cách giữa các chữ với nhau không rộng lắm
mà cũng không hẹp lắm, khoảng bằng nửa thân chữ là vừa. Các nét hất trong

một chữ phải được nối liền nhau. Trong khi viết một chữ hạn chế nhấc bút mà
thường viết liền các con chữ với nhau.
Sau khi học sinh nắm được cách viết chữ sao cho đẹp tôi cho các em được
luyện vào bảng con theo đúng các dịng kẻ cơ hướng dẫn. Giáo viên kịp thời sửa
lại những nét các em viết chưa đúng và tuyên dương những em viết đúng hàng
kẻ, viết đẹp.
Luyện viết vào vở, giáo viên đọc cho học sinh 1 hoặc 2 câu thơ với tốc độ
chậm để các em tập viết đúng li. Trong khi học sinh viết, giáo viên đến từng bàn
quan sát. Em nào viết chưa đúng, chưa đẹp cô viết mẫu cho em đó 1, 2 chữ vào
7


vở để các em bắt trước viết cho đẹp. Khi các em đã biết viết đúng, tôi tiếp tục
tập cho các em viết nhanh dần để đạt theo đúng tốc độ viết cần yêu cầu đối với
học sinh lớp 3. Kết quả chữ viết của học sinh lớp tôi đạt được như sau :

Bài viết của em Vi Thu Thuý
Ngoài việc luyện viết chữ đẹp ở tiết chính tả tơi luôn quan tâm nhắc nhở
các em cần phải viết đúng, viết đẹp ở tất cả các phân môn khác. Do đó trong mỗi
tiết dạy, nếu học sinh nào viết bài đúng, đẹp tơi đều tun dương trước lớp để
khuyến khích các em viết đẹp hơn. Bên cạnh đó từng tuần, từng tháng tôi tổ
chức cho học sinh trong lớp thi vở sạch, chữ đẹp. Giáo viên nhận xét, đánh giá.
Song song với việc rèn chữ cho học sinh ở lớp, tơi cịn gặp gỡ gia đình
các em để trao đổi với phụ huynh kèm cặp thêm cho các em ở nhà. Cứ như vậy,
sau một thời gian chữ viết của học sinh lớp tôi đã tiến bộ rõ rệt, chất lượng giờ
học chính tả được nâng cao.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Từ chỗ kèm cặp và động viên học sinh đúng lúc, kịp thời nên học sinh lớp
tôi chủ nhiệm đã có ý thức tự giác viết đúng, viết đẹp hơn và làm đúng các dạng
bài tập chính tả.

Điều đó đã được minh chứng qua kết quả khảo sát học lực phân mơn
chính tả của học sinh đến thời điểm hết tháng 3 như sau:
Tổng số HS
Thời điểm đầu năm học
Đạt
Chưa đạt
SL
TL
SL
TL
20
19
95%
1
5%
Những kết quả các em đạt được chính là sự thành cơng lớn của tơi và sự
tiến bộ của các em là nguồn động viên, khuyến khích tơi càng hăng say thực
hiện mong muốn của mình. .
3. Kết luận, kiến nghị
8


3.1. Kết luận
Một số kinh nghiệm nhỏ đã giúp tôi nâng cao được chất lượng giờ chính tả
cho HS lớp chủ nhiệm. Tuy kết quả bước đầu chưa cao, nhưng với sự nhiệt tình và
nổ lực của bản thân, tơi hi vọng trong thời gian cuối học kì II, học sinh lớp tơi sẽ
học tốt phân mơn chính tả, sẽ viết đúng, đẹp hơn để làm hành trang cho các em học
tốt các môn học khác và làm nền tảng cho những năm học tiếp theo.
Nâng cao chất lượng giờ học chính tả cho học sinh lớp 3 là góp phần nâng
cao chất lượng môn Tiếng Việt ở các trường tiểu học hiện nay. Đây là vấn đề mà

mỗi trường học luôn cần phải quan tâm.
3.2. Kiến nghị
+ Đối với phụ huynh học sinh:
Mua sắm đầy đủ đồ dùng học tập cho con em mình như: bút chì (dùng để
chấm lỗi chính tả), bảng con, phấn, giẻ lau bảng (viết từ khó trước khi viết chính
tả), một cuốn sổ tay chính tả (dùng viết những từ khó có trong bài Tập đọc và
bài Chính tả)…
Thường xuyên nhắc nhở các em tự học bài ở nhà, đọc trước các bài Tập
đọc và luyện viết các từ khó có trong bài Tập đọc hoặc trong bài Chính tả.
Rèn cho các em thói quen nói từ đúng, câu hay khi giao tiếp trong gia
đình.
+ Đối với nhà trường:
Trang bị thêm sách tham khảo, tài liệu, từ điển (Chính tả) Tiếng Việt để
giáo viên mượn và sử dụng trong giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân
mơn Chính tả nói riêng.
Trang bị phịng học, bàn ghế đảm bảo chất lượng, kích cỡ để học sinh
ngồi học đạt hiệu quả cao.
Mở các chuyên đề về phân mơn Chính tả tại trường để giáo viên được học
tập, rút kinh nghiệm lẫn nhau.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã vận dụng vào giảng dạy phân
mơn Chính tả trong năm học 2018 -2019. Rất mong Hội đồng khoa học, các bạn
đồng nghiệp đóng góp ý kiến để sáng kiến của tơi được hồn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết


Vi Thị Thu

9


10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Stt
1

2
3

Tên tài liệu
Tiếng Việt 3 -Tập
một, Tập hai

Sổ tay chính tả
Từ điển chính tả
học sinh

Tác giả
Nguyễn Minh Thuyết
Hồng Hịa Bình
Trần Mạnh Hưởng
Lê Thị Tuyết Mai
Trịnh Mạnh
Hồng Anh

Nguyễn Như Ý

Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam –
Bộ GD&ĐT

Nhà xuất bản văn hóa thơng tin
Giáo dục Việt Nam –
Bộ GD&ĐT

Sáng kiến có sử dụng ảnh chụp, số liệu được khảo sát thực tế học sinh lớp
3 điểm trường Chiên Pục – Trường tiểu học Tén Tằn – huyện Mường Lát năm
học 2018 – 2019.

11



×