Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số kinh nghiệm dạy giải toán có lời văn ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.84 KB, 31 trang )

MỤC LỤC

Trang

A. LỜI MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu

2
2
2
2

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận và thực tiễn
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
III. Những giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
1. Họp phụ huynh thống nhất biện pháp.
2. Chuẩn bị cho việc giải tốn
3. Áp dụng qua các tiết dạy
4. Khích lệ học sinh hứng thú học tập

3
4
5
5
5
7
12



C. KẾT LUẬN
1. Kết quả kinh nghiệm
2. Bài học kinh nghiệm
3. Ý kiến đề xuất
* Lời kết

13
14
15
15

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cùng với các mơn học khác ở bậc Tiểu học, mơn Tốn có vai trị vơ cùng
quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng khơng gian
của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những biện pháp, kĩ năng nhận
thức một số mặt của thế giới xung quanh. Mơn Tốn cịn góp phần rèn luyện
phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, góp phần phát
triển trí thơng ming, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt
khác, các kiến thức kĩ năng mơn Tốn ở Tiểu học cịn có nhiều ứng dụng trong
đời sống thực tế.
Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt nhiều năm đứng lớp ở khối
3, tơi thấy tốn lời văn, có vị trí rất quan trọng trong chương trình tốn ở tiểu
học. Các em được làm quen với tốn có lời văn ngay từ lớp 1, đặc biệt ở học kỳ
2 của lớp 1 các em đã viết lời giải cho phép tính. Vì vậy đây cũng là một vấn đề
mà chúng tôi luôn luôn trao đổi, thảo luận trong những buổi sinh hoạt chun

mơn, tích lũy nghiệp vụ do nhà trường tổ chức. Làm thế nào để học sinh hiểu
được đề tốn, viết được tóm tắt, nêu được câu lời giải hay, phép tính đúng. Điều
đó địi hỏi rất nhiều công sức và sự nỗ lực không biết mệt mỏi của người giáo
viên đứng lớp.
Là một giáo viên đã có nhiều năm trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy ở
khối lớp 3. qua kinh nghiệm của bản thân và học hỏi trao đổi kinh nghiệm cùng
đồng nghiệp tôi đã rút ra được: "Một số kinh nghiệm giải tốn có lời văn ở
lớp 3". Để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung
và đối với học sinh lớp 3 nói riêng.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của bản thân là góp phần làm đổi mới phương pháp dạy học
Toán ở tiểu học theo phương hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo
của học sinh đồng thời rèn kỹ năng giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 3 được
tốt hơn.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng chung: Toàn thể học sinh khối 3
- Đối tượng cụ thể: 17 học sinh lớp 3B, năm học 2015 - 2016
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp khảo sát tài liệu
Sách giáo khoa; sách giáo viên; vở bài tập toán lớp 3; Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên của giáo viên, Tạp chí Giáo dục Tiều học,...
2. Phương pháp khảo sát thống kê
Khảo sát tại lớp 3B

2


B.NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận

Giải tốn có lời văn thực chất là những bài tốn thực tế, nội dung bài tốn
được thơng qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc,
có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài tốn có lời
văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che
đậy bản chất tốn học của bài tốn. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra
được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài tốn và tìm
được câu lời giải, phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải tốn theo u cầu của chương
trình mới, đó là điều cần trao đổi nhiều đối với chúng ta những người trực tiếp
giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.
Như chúng ta đã biết trước khi cải cách giáo dục thì đến lớp 4 các em mới
phải viết câu lời giải, còn những năm đầu tiên của cải cách giáo dục thì đến học
kỳ 2 của lớp 3 các em mới phải viết câu lời giải... Nhưng với yêu cầu đổi mới
giáo dục hiện nay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải đây quả là
bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình tốn. Nhưng nếu như nắm bắt được
cách giải tốn ngay từ lớp 1,2,3 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu,
nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của
mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau.
2. Cơ sở thực tiễn.
Ta thấy rằng, giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận
dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp
học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lơgic.
Thơng qua giải tốn mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động
mới: "Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong
công việc".
Qua thời gian giảng dạy học sinh lớp 3 tôi nhận thấy các em khi giải bài
tốn có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường
lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính
xác nhưng khơng làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù
hợp với đề tốn đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn

vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số.
Việc đặt lời giải là một khó khăn lớn đối với một số học sinh. Các em mới
chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu ngay được đề bài và chưa trả lời được các
câu hỏi như: Bài tốn cho biết gì?, Bài tốn hỏi gì?...Đến khi giải tốn thì đặt
câu lời giải chưa đúng. Những ngun nhân trên khơng thể đổ lỗi về phía học
sinh được mà phần lớn chính là do phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của
người giáo viên.
Đây cũng chính là lý do mà tơi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải
pháp nhằm góp phần nâng cao kỹ năng giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 3
3


nói riêng và mơn tốn lớp 3 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn
với những bài tốn có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng về kĩ năng giải tốn có lời văn của học sinh lớp 3
a) Thực trạng chung của trường
Đầu năm học 2015-2016, được sự phân công của Ban giám hiệu nhà
trường, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 3B, đồng thời kiêm nhiệm khối
trưởng khối 3. Ngay trong tháng đầu khảo sát và qua việc giảng dạy, tôi đã phát
hiện ra khối mình đang gặp phải một vấn đề. Đó là sự khơng nhất qn trong
ngơn ngữ cũng như trong phương pháp truyền thụ và giữa các giáo viên trong
khối. Đặc biệt, trong mơn tốn, phần giải tốn, các câu trả lời của HS khơng có
sự thống nhất, em trả lời kiểu này, em trả lời kiểu kia. Rồi danh số, đáp số cũng
ghi khơng hợp lí. Tất cả điều đó chứng tỏ, khi dạy mảng kiến thức này, giáo viên
các lớp chưa thật sự đi sâu vào phương pháp tìm lời giải, mỗi cơ lại hướng dẫn
trình bày một kiểu, một cách khác nhau, dẫn đến sự bất hợp lí nói trên.
b) Thực trạng của lớp
Lớp 3B do tơi chủ nhiệm năm học này có 17 học sinh nhưng trong đó có
1 học sinh mồ cơi, 2 học sinh hộ nghèo, các em thiếu sự quan tâm của gia đình.

Bên cạnh đó, trong lớp cỏc em cịn ở rải rác ở các thôn từ 1 đến 6, bố mẹ đều
làm nghề nông hoặc đi làm ăn ở xa gửi con cho ơng bà chăm sóc đời sống kinh
tế khó khăn, một số em phải ở nhà giúp đỡ gia đình nhiều việc nên chất lượng
học tập cũng bị ảnh hưởng. Chính vì thế mà trình độ nhận thức của các em
không đồng đều.
Qua thực tế giảng dạy tơi nhận thấy.
+ Việc tóm tắt, tìm hiểu đề đang cịn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp
3.
+ Thực tế trong 1 tiết dạy có 35 phút, thời gian dạy kiến thức mới nhiều,
phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian tìm cách giải và cách trình bày
bài giải khụng cịn là bao, bởi vậy với vai trị là khối trưởng, tơi đã cùng với chị
em trong khối xây dựng chuyên đề: Dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3
để tháo gỡ những khó khăn mà học đang mắc phải.
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng ban đầu
Để nắm được tình hình cụ thể về khả năng giải tốn có lời văn tôi đã tiến
hành khảo sát chất lượng cả lớp và thu được kết quả như sau:
Sĩ số

Điểm 9 - 10

Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5

SL

TL


SL

TL

SL

TL

SL

TL

4

23,5%

7

41,2%

5

29,4%

1

5,9%

17 em


4


Từ thực trạng trên để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh
có hứng thú học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã
mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong dạy học như sau:
III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Họp phụ huynh thống nhất biện pháp giáo dục.
Chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói
riêng đến trường cịn phụ thuộc hồn tồn vào sự quan tâm, nhắc nhở của cha
mẹ và thầy cô. Các em chưa có ý thức tự giác học tập, chính vì vậy giáo dục ý
thức tích cực học tập cho các em là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp
các em học tập tốt hơn.
Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức của các
em chưa cao. Để thực hiện được cuộc vận động "hai khơng" của ngành giáo dục
và giúp phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con em mình, tôi
đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và
những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ
dùng học tập, hướng dẫn các em cách tự học ở nhà, đặc biệt nhất là đối với các
phụ huynh vào buổi tối cố gắng bớt đi một chút thời gian trò chuyện với bạn bè,
tắt hoặc vặn nhỏ tivi, dành thời gian nhắc nhở và quan tâm các con học tập,...
Rất mừng là đa số phụ huynh đều nhiệt tình hưởng ứng biện pháp nêu trên vì lâu
nay các phụ huynh cịn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học các con. Các phụ
huynh chưa rõ yêu cầu bài tập trong sách giáo khoa, nhiều ông bố bà mẹ ngại
hướng dẫn con em mình...
Tuy nhiên cuộc họp phụ huynh lần này vẫn còn một số gia đình vắng mặt
do có việc đột xuất, do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc học và do
điều kiện gia đình cịn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học của con cái cho
giáo viên. Đối với phu huynh vắng mặt, tơi sẽ tìm cách gặp gỡ, trao đổi tại gia
đình. Các gia đình này phần lớn trình độ văn hóa của bố mẹ cịn hạn chế, thậm

chí có phụ huynh mới đọc thơng viết thạo nên chỉ biết nhắc con mình học bài đi
rồi con học gì, làm gì ở trên bàn bố mẹ khơng hay biết... Đối với những em này
tôi phải hướng dẫn nhiều trên lớp để về nhà các em tự học.
2. Chuẩn bị cho việc giải tốn
Để giúp học sinh có kỹ năng thành thạo trong giải tốn thì chúng ta
khơng chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố khơng kém phần
quan trọng đó là luyện kỹ năng nói trong giờ Tiếng Việt. Để giúp các em mạnh
dạn, tự tin khi phát biểu và trả lời câu hỏi của giáo viên thì giáo viên cần ln
ln gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trị chơi học tập, giúp
các em được trao đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng Việt. Trong các tiết
học khác các em có thể nhận xét và trả lời một cách tự nhiên nhanh nhẹn không
rụt rè, tự ti. Bên canh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kỹ năng đọc
cho học sinh đặc biệt là đọc nhanh, đọc đúng tốc độ, ngắt nghỉ hơi đúng ở các
dấu câu có như thế các em mới hiểu được yêu cầu bài tập nêu ra.
Tóm lại: để giúp học sinh giải tốn lời văn thành thạo, tơi ln ln
chú ý đến việc rèn luyện kỹ năng đọc, nói, viết cho học sinh trong các giờ học
5


khác, bởi học sinh có đọc thơng viết thạo có nhanh nhẹn thì mới hiểu rõ được đề
tốn và tìm cách giải toán một cách thành thạo.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy khả năng suy luận của học sinh chưa tốt,
chưa có kỹ năng phân tích, tổng hợp trước một đề toán. Khả năng chuyển bài
toán hợp về các bài tốn đơn cịn yếu. Khi giải tốn các em chưa tập hợp được
kiến thức, nhiều em còn lúng túng. Điều đáng chú ý ở đây là cách đặt lời giải
cho phép tính, rất nhiều em chưa biết cách đặt lời giải hoặc lời giải đặt chưa hợp
lý. Do các em không được uốn nắn, luyện tập nhiều trong quá trình học tập.
Như vậy nguyên nhân cơ bản dẫn đến các em không làm được bài là:
Năng lực tư duy của các em phát triển không đồng đều, khả năng suy luận còn
kém. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn cho các em nêu đề tốn, tìm hiểu đề, tóm

tắt đề và gợi ý, nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt lời giải
của các em chưa được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em, ở
những tiết tốn có bài tốn giải tơi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng
dẫn kỹ cách tìm hiểu đề bài qua tóm tắt và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp
các em ghi nhớ và hình thành kỹ năng.
Ví dụ 1: Sau khi đọc đề toán ở trang 50 SGK toán 3 "Thùng thứ nhất
đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả
hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?".
- Tơi u cầu học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài tốn.
- Sau khi học sinh nêu được bằng lời để tóm tắt bài tốn, tơi hướng dẫn
học sinh tập tóm tắt bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng.
18 l
Thùng thứ nhất

6l

?l

Thùng thứ hai
- Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt được bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng,
tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm lời giải:
+ Nhìn vào sơ đồ ta thấy muốn tìm số lít dầu ở cả hai thùng trước hết ta phải
làm gì? (Tìm số dầu ở thùng thứ hai).
Yêu cầu học sinh nêu miệng lời giải:
Số lít dầu ở thùng thứ hai (Thùng thứ hai đựng được số lít dầu) là:
Học sinh nêu miệng phép tính 18 + 6 = 24 lít
Yêu cầu học sinh nêu miệng tiếp lời giải và phép tính thứ hai:
Số lít dầu ở cả hai thùng (Cả hai thùng đựng được số lít dầu): 18 + 24 = 42 lít
Tuy nhiên ở phép tính thứ hai tơi thấy có một số học sinh thực hiện tìm số
dầu cả hai thùng bằng cách lấy 24 + 6 = 30 lít.

Đối với những em này, tơi nhận thấy các em có khả năng tư duy chưa tốt,
chưa nắm vững u cầu đề tốn. Tơi phải hướng dẫn các em để các em hiểu rõ
muốn tìm số dầu cả hai thùng ta phải làm gì để các em nêu được lấy số dầu ở

6


thùng thứ nhất cộng với số dầu ở thùng thứ hai và giúp các em hiểu được số dầu
ở thùng thứ nhất là 18 lít và số dầu ở thùng thứ hai là 24 lít.
Ví dụ 2: Bài tập 3( trang 50 SGK tốn 3) Nêu bài tốn theo tóm tắt sau rồi
giải bài tốn đó:

27 kg
Bao gạo:
5 kg

? kg

Bao ngơ:
Tơi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng rồi tóm tắt bài toán, nêu đề toán bằng
lời theo yêu cầu:
Bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả hai bao gạo và
ngô nặng tất cả bao nhiêu ki - lơ - gam?
Sau khi nêu đề tốn xong giáo viên cho học sinh luyện cách trả lời miệng
Bao ngô nặng số ki - lô - gam là:
27 + 5 = 32 kg
Cả hai bao nặng số ki - lô - gam là: 32 + 27 = 59 kg
Rồi tự trình bày bài giải
3. Áp dụng qua các tiết dạy
Với chương trình tốn 3 bây giờ thường có các dạng sau: Một cửa hàng buổi

sáng bán được 432 lít dầu, buổi chiều bán được gấp đơi buổi sáng. Hỏi cả hai
buổi cửa hàng bán được bao nhiêu lít dầu? ( bài 4 trang 103)
Hoặc: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ
nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?.
Hoặc Một đội trồng được 948 cây, sau đó trồng thêm được bằng

1
số cây đã
3

trồng. Hỏi đội đó trồng được tất cả bao nhiêu cây?( bài3 trang 106).
Dù dùng ở hình thức nào, dạng nào tơi cũng tập trung luyện cho học sinh các
kĩ năng trình bày bài giải được tiến hành cụ thể qua các bước sau:
bước 1. Tìm hiểu nội dung bài tập qua các cách tóm tắt bài tốn.
Cần cho học sinh đọc kĩ đề tốn giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ
khóa quan trọng nói lên những tình huống tốn học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn
từ thông thường như: "gấp đơi", "tất cả",...
Nếu trong bài tốn có từ nào mà học sinh chưa hiểu thì giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài
tốn đang làm sau đó giúp học sinh tóm tắt đề tốn bằng cách đặt câu hỏi đàm
thoại: "Bài toán cho biết gi? Bài toán hỏi gì?" và dựa vào tóm tắt để nêu đề
tốn,...

Như chúng ta đã biết, phần tóm tắt bài tốn khơng phải là một thành
phần trong khâu trình bày bài giải, nhưng là phần quan trọng giúp HS có
cái nhìn tổng thể về tồn bộ nội dụng bài tốn, từ đó tìm được mối liên hệ
7


cần thiết giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua đó, giúp các em biết lựa chọn

phép tính thích hợp. Đối với lớp 3 (cũng như đối với häc sinh tiểu học nói
chung), sử dụng sơ đồ đoạn thẳng (SĐĐT) để tóm tắt là hợp lí nhất. SĐĐT
khơng những giúp các em có một cái nhìn khái qt về bài tốn mà cịn
giúp các em nhận ra cái đã biết, cái phải tìm và mối liên hệ giữa chúng.
Trong những trường hợp khơng thể sử dụng được SĐĐT thì ta mới nên
dùng quy ước bằng lời để tóm tắt.
Một điều giáo viên cần ghi nhớ là để học sinh làm tốt các bài tốn hợp thì
giáo viên cần hướng dẫn học sinh rèn luyện tốt kĩ năng giải các bài tốn đơn. Vì
vậy, việc rèn cho học sinh thuần thục khâu tóm tắt các bài tốn đơn là khơng thể
thiếu. Việc thuần thục khâu tóm tắt bài tốn đơn khơng những giúp học sinh
nhanh chóng tìm ra lời giải, mà nó cịn là cơ sở giúp học sinh có kĩ năng tóm tắt
và giải các bài tốn hợp.
Ví dụ 1: ( Bài 1 - SGK Toán 3 trang 12) Đội Một trồng được 230 cây, đội
Hai trồng được nhiều hơn đội Một 90 cây. Hỏi đội Hai trồng được bao nhiêu
cây?
Với dạng tốn này sẽ tóm tắt bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau:
230 cây
Đội Một :
90 cây
Đội Hai:
? cây
Ví dụ 2: ( Bài 2 - SGK Tốn 3 trang 50) Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng
thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao
nhiêu lít dầu?.
Ta cũng có dạng sơ đồ tóm tắt cho bài tốn hợp tương ứng:
18 l
Thùng thứ nhất
6l

?l


Thùng thứ hai
Khi hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ, giáo viên cần lưu ý học sinh dóng thẳng
các vị trí đầu mút có giá trị so sánh. Với các bài toán dạng chia phần hoặc gấp,
giảm, các đoạn thẳng tỉ lệ được chia đều trên sơ đồ cần đảm bảo tính chính xác

8


tuyệt đối (sử dụng thước có chia vạch cm hoặc dịng kẻ ơ li). Cịn những bài
tốn dạng hơn, kém ( hoặc nhiều hơn, ít hơn) thì các phần được chia ra chỉ mang
tính ước lệ song cũng phải đảm bảo được sự chính xác tương đối (ước lượng
bằng mắt). Khi đã hiểu được rõ gốc gác của sơ đồ như vậy thì học sinh sẽ chọn
được ngay phép tính để giải bài toán.
Đối với những học sinh kỹ năng đọc hiểu cịn chậm, tơi dùng phương pháp
giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh họa hoặc dùng quy ước bằng lời để
tóm tắt giúp các em tìm hiểu, nhận xét nội dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó
học sinh hiểu được u cầu của bài tốn và dựa vào câu hỏi của bài, các em nêu
miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài tốn rồi cho các em tự trình bày bài
giải vào vở bài tập.
Bước 2: Tìm cách giải bài tốn
a. Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái
phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn "phép chia" nếu
bài tốn u cầu "tìm", chọn "tính trừ" nếu bớt hoặc tìm "phần cịn lại" hay là
"lấy ra" chọn "phép nhân" nếu "gấp đơi, gấp ba"...
Ví dụ 1: ( Bài 2 - SGK Toán 3 trang 50) Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng
thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao
nhiêu lít dầu?.
- Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt được bài tốn bằng sơ đồ đoạn

thẳng, tơi tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm lời giải:
+ Nhìn vào sơ đồ ta thấy muốn tìm số lít dầu ở cả hai thùng trước hết ta phải
làm gì? (Tìm số dầu ở thùng thứ hai).
Số lít dầu ở thùng thứ hai (Thùng thứ hai đựng được số lít dầu) là: 18 + 6 =
24 lít
Số lít dầu ở cả hai thùng (Cả hai thùng đựng được số lít dầu): 18 + 24 = 42 lít
Ví dụ: Một đội công nhân phải sửa quãng đường dài 1215m, đội đã sửa được
1
qng đường. Hỏi đội cơng nhân đó cịn phải sửa bao nhiêu ki- lơ- mét
3

đường? (Bài 2 trang 119)
Để giải bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã cho
và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải tốn thơng qua các câu hỏi
gợi ý như:
+ Bài tốn cho biết gì? (phải sửa qng đường dài 1215m)
+ Bài tốn cịn cho biết gì nữa? (đã sửa được

1
qng đường)
3

+ Bài tốn hỏi gì? (đội cơng nhân cịn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa)
+ Muốn biết đội cơng nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa trước hết
phải tìm gì trước? Nêu cách tìm? (tìm số mét đường đã sửa lấy 1215 : 3)
+ Sau khi tìm được số mét đường đã sửa ta tiếp tục tìm gì? (tìm số mét đường
cịn lại phải sửa)
9



+ Nêu cách tìm? (lấy tổng số mét đường phải sửa trừ đi số mét đường đã sửa)
b. Đặt câu lời giải thích hợp.
Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vô cùng
quan trọng và khó khăn nhất đối với một số học sinh có khả năng tiêp thu chậm.
Chính vì vậy việc hướng dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay và đúng
cũng là một khó khăn lớn đối với người dạy. Tùy từng đối tượng học sinh mà tôi
lựa chọn các cách hướng dẫn sau:
Cách 1 (Được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất) Dựa vào câu hỏi của bài
tốn rồi bỏ bớt từ đầu đó là từ "hỏi" và từ cuối "mấy" rồi thêm từ "là" để có câu
lời giải:"Vườn nhà Hoa có số cây cam là" (đối với bài toán đơn).
Cách 2: (Bài 2 trang 119) Nêu miệng câu hỏi:"Muốn biết đội cơng nhân đó
cịn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa trước hết phải tìm gì trước?" Để học sinh
trả lời miệng: "Tìm số mét đường đã sửa" rồi chèn phép tính vào để có cả bước
giải gồm câu hỏi, câu lời giải và phép tính. Tiếp theo: " :"Muốn biết đội cơng
nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa ta phải làm gì?".Học sinh trả lời
miệng: " Tìm số mét đường còn phải sửa ta lấy số mét đường phải sửa trừ đi số
mét đường đã sửa", sau đó chọn cách trình bày bài giải thích hợp.
Tóm lại: Tùy từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em
cách lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp. Trong một bài tốn, học sinh có thể
có nhiều cách viết câu giải khác nhau như 2 cách trên. Song trong khi giảng dạy,
ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi đưa cho các em suy nghĩ, thảo luận theo bàn,
nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng phù hợp với câu hỏi của bài toán.
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách phù hợp nhất (ngắn gọn, dễ
hiểu) cịn các cách kia giáo viên đều cơng nhận là đúng và cần lựa chọn câu lời
giải phù hợp nhất.
Bước 3: Trình bày bài giải.
Như chúng ta đã biết, các dạng tốn có lời văn học sinh đã phải tự viết câu
lời giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa. Chính vì vậy, việc hướng
dẫn học sinh trình bày bài sao cho khoa học, đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong
quá trình dạy học. Muốn thực hiện được yêu cầu này trước tiên người dạy cần

tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn quy định.
- Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân) tiếp đó ghi tóm tắt, sau
gần tóm tắt là trình bày bài giải, từ " Bài giải" ghi ở giữa trang vở (có gạch
chân). Câu lời giải cách lề khoảng 2 đến 3 ô vng, chữ ở đầu câu cần viết hoa,
cuối câu có dấu hai chấm, phép tính viết lùi vào so với lời giải khảng 2 đến 3
chữ, cuối phép tính là đơn vị tính được viết trong ngoặc đơn. Phần đáp số ghi
sang phần vở bên phải và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính
(khơng phải viết dấu ngoặc đơn nữa).
Lưu ý: trong mọi trường hợp người giáo viên luôn luôn phải dùng thước để
gạch chân và liên tục nhắc học sinh tạo cho các em bỏ thói quen xấu gạch bằng
tay. Song song với việc hướng dẫn các em các bước thực hiện tôi thường xuyên
trình bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình
bày để từ đó các em quen với cách trình bày đó. Bên cạnh đó tơi cịn thường
10


xuyên chấm bài và chữa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp, tuyên
dương trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày bài sạch đẹp, cho các em
đó lên bảng trình bày lại bài làm của mình để các bạn cùng học tập.
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên tơi cũng ln ln nhắc
nhở rèn luyện học sinh kỹ năng viết chữ, viết số đúng mẫu, đẹp. Việc kết hợp
giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự
thành cơng trong vấn đề giải tốn có lời văn của các em. Cùng với việc áp dụng
các biện pháp ngay từ đầu năm học và áp dụng trực tiếp các biện pháp vào bài
dạy đầu tiên về giải tốn có lời văn, tơi đã cho học sinh làm một số dạng bài tập
giải tốn có lời văn như sau:
Ví dụ 1(Bài 3 trang 50- SGK tốn 3)
Bài giải
Bao ngô nặng số ki - lô - gam là:
27 + 5 = 32( kg)

Cả hai bao nặng số ki - lô - gam là:
32 + 27 = 59 (kg)
Đáp số: 59 kg
Ví dụ 2(Bài 2 trang 119 - SGK toán 3)
Bài giải
Số mét đường đã sửa là:
1215 : 3 = 405 (m)
Số mét đường còn phải sửa là:
1215 - 405 = 810 (m)
Đáp số: 810 mét đường
Ví dụ 3: Một thùng đựng 24 lít mật ong, lấy ra

1
số lít mật ong đó. Hỏi trong
3

thùng cịn lại bao nhiêu lít mật ong?
Với bài này học sinh có thể tóm tắt bằng lời như sau:
Tóm tắt:
Có: 24 lít
Lấy ra:

1
số lít mật ong
3

Cịn lại: ... lít?
Sau đó thực hiện bài giải:
Bài giải
Số lít mật ong được lấy ra là:

24 : 3 = 8 (l)
Trong thùng cịn lại số lít mật ong là
24 - 8 = 16(l)
11


Đáp số: 16 lít mật ong
Ví dụ 4: Một bến xe có 45 ơ tơ. Lúc đầu có 18 ơ tơ rời bến, sau đó có thêm 17
ơ tơ rời bến nữa. Hỏi bến xe đó cịn lại bao nhiêu ô tô?
Học sinh lớp tôi thực hiện như sau:
Tóm tắt:
Có: 45 ô tô
Rời bến: 18 ô tô
Rời tiếp: 17 ô tơ
Cịn lại:.....ơ tơ?
Bài giải:
Số ơ tơ đã rời bến là:
18 + 17 = 35 (ơ tơ)
Số ơ tơ cịn lại trong bến là:
45 - 35 = 10 (ô tô)
Đáp số: 10 ơ tơ.
Có em tìm cách giải khác như sau:
Bài giải:
Sau lần rời bến thứ nhất, số ơ tơ cịn lại trong bến là:
45 - 18 = 27 (ô tô)
Sau lần rời bến thứ hai, số ơ tơ cịn lại trong bến là:
27 - 17 = 10 (ô tô)
Đáp số: 10 ô tô.
Tiếp tục tiến hành kiểm tra nhiều kỹ năng giải toán của học sinh với nhiều
dạng bài khác nhau, tổng hợp kết quả chấm bài thi do nhà trường đề ra tôi thu

được kết quả như sau:
Sĩ số

Điểm 9 - 10

Điểm 7- 8

Điểm 5 - 6

17 em

SL

TL

SL

TL

SL

TL

10

58,8%

6

35,3%


1

5,9%

Điểm dưới 5
SL

TL

4. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập:
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế
chê các em trong học tập và rèn luyện. Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm
lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ khơng có tác dụng kích thích học sinh học
tập. Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tơi ln ln chú
ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một tiến
bộ nhỏ là tơi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh
dạn, tự tin hơn. Đối với những em học tốt hơn phải có những biểu hiện vượt bậc,
tiến bộ rõ rệt tơi mới khen. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối
tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập.
12


Ngồi ra, việc áp dụng các trị chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu
tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập,
mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc chắn hơn.
Chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng có trí
thơng minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú, đó là tiền đề
tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng các em rất dễ bị phân tán, rối trí
nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong

thời kỳ phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan cịn chưa hồn thiện vì
thế sức dẻo dai của cơ thể cịn thấp nên trẻ khơng thể ngồi lâu trong giờ học
cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có
hiệu quả thì địi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là
"lấy học sinh làm trung tâm", hướng tập trung vào học sinh trên cơ sở hoạt động
của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 đến 3 phút để cho các
em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em
thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi
nhớ một số nội dung bài đã học.
Tóm lại: trong q trình dạy học người giáo viên khơng chỉ chú ý đến rèn kỹ
năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến việc
khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
C. KẾT LUẬN
1. Kết quả
Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu
được những kết quả ban đầu trong việc dạy học "giải tốn có lời văn" nói riêng
và trong chất lượng mơn Tốn nói chung bởi vì "giải tốn có lời văn" là dạng
tốn khó. Học sinh phải đặt lời giải trước phép tính và kết quả của bài toán. Nếu
các em nắm chắc được cách giải toán ở lớp 2 chắc chắn sau này khi học lên các
lớp trên các em sẽ có điều kiện tốt hơn về dạng tốn khó.
Trong năm học 2014 - 2015 có những em khi giải tốn cịn đặt câu lời giải
như: "có tất cả bao nhiêu là" hoặc "hỏi số con gà còn lại là" những lỗi đó đến
nay khơng cịn nữa, học sinh lớp tơi khơng những biết cách đặt câu lời giải hay,
viết phép tính đúng mà cịn biết cách trình bày bài giải đúng và đẹp. Năm học
2015 - 2016 này tôi được phân công trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy lớp 3.
Tổng số học sinh của lớp là 17 em. Có 9 em nữ. Các em phân bố rải rác ở các
thôn trong xã. Ngay từ đầu năm học mới, sau khi nhận lớp, tôi đã thử nghiệm
ngay những ý tưởng của mình. Những kết quả mà các em đã đạt được sau những
lần thi do nhà trường đề ra đã cho thấy các em có sự tiến bộ rõ rệt. Năm học
2015 - 2016 lớp 3 do tôi trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy có kết quả như sau:.

Số em đạt điểm giỏi: 10 em, số em đạt điểm khá: 6 em, khơng cịn học
sinh có điểm dưới 5.
Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác
của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh bên cạnh đó là các
biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.
13


Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh chưa nắm được cách
giải tuy vẫn còn nhưng chỉ còn với tỉ lệ thấp, số học sinh giải thành thạo tăng
cao so với những năm học trước. Điều đó cho thấy những cố gắng trong đổi mới
phương pháp dạy học đã có kết quả khả quan. Đó chính là động lực giúp tôi tiếp
tục theo đuổi ý tưởng của mình.
Với kết quả này, chắc chắn khi các em lên các lớp trên, các em sẽ vẫn tiếp
tục phát huy hơn nữa với những bài tốn có lời văn mà yêu cầu ở mức độ cao
hơn.
2. Bài học kinh nghiệm
Qua những vướng mắc thực tế, cùng với lòng say mê, nhiệt tình nghiên cứu
và áp dụng thực tế vào lớp học do tơi chủ nhiệm đã giúp tơi hồn thành ý tưởng
của mình. Mỗi lần thực hiện, vận dụng vào thực tế lớp học tôi đã rút ra được
một vài kinh nghiệm sau:
- Người giáo viên phải thực sự có lịng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp, với
lương tâm, trách nhiệm của người thầy.
- Trong quá trình giảng dạy phải luôn nắm bắt, đúc rút những vướng mắc, khó
khăn thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng giải quyết tốt
nhất.
- Mỗi biện pháp giáo dục của giáo viên phải được thực hiện đúng thời điểm,
đúng nội dung ở từng bài học.
- Không nên quá phụ thuộc vào sách giáo viên, vì sách giáo viên chỉ là tài liệu
hướng dẫn tham khảo, không thể áp dụng đại trà với mọi đối tượng học sinh.

- Cần quan tâm, động viên, khuyến khích, giúp đỡ các em vượt qua mọi khó
khăn để học tập tốt hơn.
- Trong q trình hướng dẫn giải tốn có lời văn ở lớp 3 giáo viên cần lưu ý
hơn nữa tới việc hướng dẫn các em cách đặt câu lời giải hay, đúng. Vì việc thực
hiện phép tính các em đều có thể nêu được ngay sau khi đọc xong đề tốn.
- Để giúp học sinh có kỹ năng giải toán thành thạo, người giáo viên cần chú ý
nhiều đến kỹ năng: Nghe - đọc - nói - viết trong môn Tiếng Việt. Luyện kỹ năng
hỏi - đáp giúp các em có vốn từ ngữ phong phú hơn giúp các em dễ dàng đặt câu
lời giải cho bài toán.
- Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần,
mỗi dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.
- Điều rất quan trọng nữa là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của giáo
viên trong mọi lúc của giờ học.
- Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp, nhiều
hình thức hoạt động học tập như: Làm việc chung với lớp, làm việc cá nhân,
làm việc theo nhóm,...và tập trung chú ý tới cả 3 đối tượng để giúp các em học
tốt hơn.
- Người giáo viên cần phải ln ln có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức
để đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội. Muốn thế, người giáo viên
phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tự tìm tịi trong các tài liệu có liên
quan, tham gia tích cực vào các lớp nghiệp vụ do ngành, trường tổ chức. Điều
14


quan trọng nhất trong dạy học là: Lòng yêu nghề và trình độ chun mơn của
mỗi giáo viên.
- Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời các biện pháp trên, tơi tin
chắc rằng chất lượng mơn Tốn nói chung và phần giải tốn có lời văn nói riêng
của học sinh lớp 3 sẽ có kết quả nhất định và là nền móng vững chắc để các em
học tốt hơn ở các lớp sau.Tôi thiết nghĩ, mỗi chúng ta hãy bằng kinh nghiệm của

bản thân, bằng niềm đam mê với nghề nghiệp, bằng tấm lòng bao dung với trẻ,
hãy là kim chỉ nam cho mọi hành động của trẻ, để một ngày nào đó, các em có
thể vươn tới những đỉnh cao tri thức loài người.
* Ý kiến đề xuất: Để nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên đồng thời
nâng cao chất lượng học tập của học sinh, giúp các em nắm vững phương pháp
giải tốn có lời văn tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
+Về phía nhà trường:
- Duy trì tốt các buổi sinh hoạt chun mơn bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chun mơn cho giáo viên.
- Khi nhập các đầu sách, thư viện của nhà trường cần lưu ý chọn lọc các
loại sách tham khảo có chất lượng của các tác giả, nhà xuất bản có uy tín để
phục vụ cho giáo viên và học sinh trong việc giảng dạy và học tập.
+ Về phía giáo viên:
- Khơng ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân
bằng cách tự học, tự bồi dưỡng, tự cập nhật các thông tin và phương pháp mới
thông qua đồng nghiệp, qua sách tham khảo, qua mạng internet, …
* Lời kết
Với một vài kinh nghiệm này, tơi mong muốn được đóng góp một phần nhỏ
vào việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung và với dạng bài: "Giải tốn có
lời văn" trong mơn Tốn 3 nói riêng.
- Tơi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của hội đồng khoa
học, của các đồng nghiệp để tơi hồn thiện mình hơn góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngày 25 tháng 5 năm 2016
Người viết

Lê Thị Dung
Xác nhận của Hiệu trưởng nhà trường


15


16


I- ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:

Đầu năm học 2015-2016, được sự phân công của Ban giám hiệu nhà
trường, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 3B. Ngay trong tháng đầu
khảo sát và qua việc giảng dạy, tôi đã phát hiện ra khèi mình đang gặp
phải một vấn đề. Đó là sự không nhất quán trong ngôn ngữ cũng như trong
phương pháp truyền thụ và giữa các giáo viên trong tổ. Đặc biệt, trong mơn
tốn, phần giải tốn, các câu trả lời của HS khơng có sự thống nhất, em trả
lời kiểu này, em trả lời kiểu kia. Rồi danh số, đáp số cũng ghi khơng hợp lí.
Tất cả điều đó chứng tỏ, khi dạy mảng kiến thức này, giáo viên các lớp
chưa thật sự đi sâu vào phương pháp tìm lời giải, mỗi cơ lại hướng dẫn
trình bày một kiểu, một cách khác nhau, dẫn đến sự bất hợp lí nói trên.
II- NỘI DUNG THỰC HIỆN:

Để khắc phục tình trạng bất ổn trên, ngay đầu tháng thứ hai của năm
học 2015-2016, với vai trị khèi trưởng , tơi đã cùng với các gi¸o viên
khối 3 xây dựng ngay chuyên đề: “Dạy giải tốn có lời văn lớp 3” để cùng
nhau tháo gỡ những khó khăn mà học sinh mắc phải và thống nhất trong
toàn khèi về phương pháp giảng dạy cũng như cách thức trình bày dạng
tốn này. Chun đề đặc biệt đi sâu vào giải các bài toán hợp. Nội dung
gồm 4 phần:
17



1.
2.
3.
4.

Tóm tắt bài tốn.
Tìm lời giải cho bài tốn
Trình bày bài giải.
Các bước tiến hành.

III-BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:

1. Lựa chọn cách trình bày tóm tắt hợp lý:
Như chúng ta đã biết, phần tóm tắt bài tốn khơng phải là một thành
phần trong khâu trình bày bài giải, nhưng là phần quan trọng giúp HS có
cái nhìn tổng thể về tồn bộ nội dụng bài tốn, từ đó tìm được mối liên hệ
cần thiết giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua đó, giúp các em biết lựa chọn
phép tính thích hợp. Đối với lớp 3 (cũng như đối với HS tiểu học nói
chung), sử dụng sơ đồ đoạn thẳng (SĐĐT) để tóm tắt là hợp lí nhất. SĐĐT
khơng những giúp các em có một cái nhìn khái qt về bài tốn mà cịn
giúp các em nhận ra cái đã biết, cái phải tìm và mối liên hệ giữa chúng.
Trong những trường hợp khơng thể sử dụng được SĐĐT thì ta mới nên
dùng quy ước bằng lời để tóm tắt.
Một điều GV cần ghi nhớ là để HS làm tốt các bài tốn hợp thì GV
cần hướng dẫn HS rèn luyện tốt kĩ năng giải các bài tốn đơn. Vì vậy, việc
rèn cho HS thuần thục khâu tóm tắt các bài tốn đơn (chủ yếu bằng SĐĐT)
là khơng thể thiếu. Việc thuần thục khâu tóm tắt bài tốn đơn khơng những
giúp HS nhanh chóng tìm ra lời giải, mà nó cịn là cơ sở giúp HS có kĩ
năng tóm tắt và giải các bài tốn hợp.
Ví dụ, với dạng sơ đồ tóm tắt bài tốn đơn loại “Nhiều hơn” như:

230 kg
Buổi sáng:
90 kg
Buổi chiều:
? kg
Ta cũng có dạng sơ đồ tóm tắt cho bài tốn hợp tương ứng:

18


230 kg
Buổi sáng:
90 kg

? kg

Buổi chiều:
Một ví dụ khác, khi học loại toán “ Gấp một số lên nhiều lần” ta có
dạng tóm tắt kiểu như:
10 tuổi
Con:
Mẹ:
? tuổi
Thì khi học đến tốn hợp, ta cũng có kiểu tóm tắt :
10 tuổi
Con:
? tuổi
Mẹ:
Khi hướng dẫn HS vẽ sơ đồ, GV cần lưu ý HS dóng thẳng các vị trí
đầu mút có giá trị so sánh. Với các bài toán dạng chia phần hoặc gấp, giảm,

các đoạn thẳng tỉ lệ được chia đều trên sơ đồ cần đảm bảo tính chính xác
tuyệt đối (sử dụng thước có chia vạch cm hoặc dịng kẻ ơ li). Cịn những
bài tốn dạng hơn, kém ( hoặc nhiều hơn, ít hơn) thì các phần được chia ra
chỉ mang tính ước lệ song cũng phải đảm bảo được sự chính xác tương đối
(ước lượng bằng mắt).

Bên cạnh việc luyện cho HS kĩ năng tóm tắt đề tốn, GV cũng cần
chú trọng luyện cách nêu bài toán theo tóm tắt rồi giải. Chẳng hạn:
Nêu bài tốn theo tóm tắt sau rồi giải:
19


50 kg
Bao gạo:
15 kg
Bao ngơ:
? kg
HS có thể nêu thành bài tốn:
Bao gạo cân nặng 50 kg, bao ngơ cân nặng hơn bao gạo 15 kg. Hỏi
bao ngô cân nặng bao nhiêu ki - lô - gam ?
Khi đã hiểu được rõ gốc gác của sơ đồ như vậy thì HS sẽ chọn được
ngay phép tính cộng để giải bài toán.
Với cách dạy học như vậy, việc dạy giải bài tốn hớp có 2 phép tính
sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn nhiều. HS sẽ giải được khơng mấy khó khăn
bài tốn có dạng tóm tắt:
50 kg
Bao gạo:
15 kg

? kg


Bao ngơ:
2. Xây dựng hệ thống câu hỏi để tìm lời giải cho bài toán:
Ở lớp 3, các bài toán hợp chỉ dừng lại ở 2 bước tính. Việc chọn phép
tính đúng cho mỗi câu lời giải đã được HS thực hành nhuần nhuyễn từ khi
giải các bài tốn đơn. Vì vậy, kĩ năng này khơng cịn là vấn đề cốt lõi khi
dạy giải các bài toán hợp. Vấn đề mấu chốt khi dạy HS giải các bài toán
này nằm ở chính đặc điểm của dạng tốn. Đó là làm sao cho HS nhận biết
được đó là một bài tốn hợp (bài tốn phải giải bằng 2 phép tính). Thực tế
cho thấy, rất nhiều HS sau khi đọc xong một đề tốn hợp, khơng biết rằng
bài tốn cần phải giải bằng 2 bước tính. Thế là tóm ln câu hỏi để đặt câu
trả lời, để rồi chẳng biết phải chọn phép tính nào cho đúng. Để giúp HS
tránh được sai sót này, GV cần xây dựng một hệ thống câu hỏi để giúp HS
đi tìm lời giải của bài tốn. Đây chính là q trình phân tích bài tốn để tìm
câu trả lời. Nói chính xác là để tìm đúng thứ tự của 2 bước tính.

20


Q trình phân tích bài tốn cho phép ta tách một bài toán hợp (mà
HS chưa giải được) thành 2 bài toán đơn (loại toán mà HS quá quen
thuộc). Điều này cũng giống như việc bẻ gãy cả đôi đũa thì khơng được
nên ta phải tìm cách tách nó ra từng chiếc một.
Như quan điểm ban đầu của người viết (đã phân tích kĩ càng ở phần
“Lí do chọn đề tài”), q trình phân tích bài tốn để tìm lời giải phải theo
kiểu đi ngược từ câu hỏi đến cái đã cho. Nhưng trong thực tế, rất nhiều GV
đều có chung phương pháp là hướng dẫn HS đi xuôi từ cái đã cho đến câu
hỏi.
Ví dụ, với bài tốn sau:
Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng

thứ nhất 6 lít dâu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu ? (BT2 - Tr50 Toán 3).
GV thường hướng dẫn HS giải từng bước như sau:
- Bài tốn cho biết gì ? (Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai
đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu)
- Vậy muốn biết thùng thứ hai đựng bao nhiêu lít dầu em làm thế nào ?
(lấy 18 + 6 = 24 (lít))
- Bây giờ đã biết thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng
24 lít dầu. Vậy muốn biết cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu, em
làm thế nào ? (Lấy 18 + 24 = 42 (lít)).
Thực tế, cách trên rất dễ thực hiện, nó vừa làm cho bài giảng trở nên
suôn sẻ, trôi chảy, lại vừa làm cho HS đỡ mệt óc vì khơng phải động não
nhiều. Đó chính là cách giải bài toán theo lối tổng hợp. Ở đây, bám theo lời
văn của đề bài, ta lần lượt giải 2 bài tốn đơn:
Bài tốn 1: ……….. Tìm số lít dầu ở thùng thứ hai.
Bài tốn 2: …………Tìm số lít dầu ở cả hai thùng.
Kết hợp (tổng hợp) lại ta có cách giải bài tốn đã cho.
Song cách làm này khơng đặc trưng cho phương pháp tìm cách giải
của các bài toán trong toán học và trong thực tế. Do đó, nó khơng giúp HS
nắm được đường lối chung để giải các bài tốn, khơng giúp HS giải được
các bài tốn khó hơn trong tốn học và trong cuộc sống sau này. Ngẫm lại
quãng đường học tập thuở ấu thơ của mình, tơi có thể khẳng định chắc
chắn rằng, chính tôi là minh chứng sống về những lỗi lầm của phương
pháp dạy học nói trên. Tuy vậy, phương pháp này lại có thể áp dụng hữu
hiệu cho các HS yếu kém, bởi ở những HS này, kĩ năng phân tích và tổng
21


hợp rất hạn chế, cần dẫn dắt từng bước nhỏ thì các em mới hiểu ra vấn đề.
Vì vậy, GV cần có sự điều chỉnh trong cách dạy và nên nhớ chỉ nên dùng
một cách rất hạn chế phương pháp trên.

Trở lại vấn đề ban đầu, để giúp HS tìm ra lời giải của bài toán, GV
cần hướng dẫn HS suy nghĩ đi từ câu hỏi của bài toán đến những cái đã
cho. Cách phân tích bài tốn như vậy có làm cho HS hơi mệt óc vì phải
động não, song đổi lại, các em sẽ trở nên thông minh hơn, đầu óc sẽ dần
dần tinh tế hơn. Vì vậy, nên sử dụng cách đó thường xuyên. Đặc biệt, với
những đối tượng HS khá, giỏi thì đây là phương pháp hữu hiệu nhất. Với
những phương pháp này thì bài tốn 2 (Tr50 – Toán 3) (đã nêu ở trên) ta có
thể hướng dẫn HS suy nghĩ như sau:
- Bài tốn đã cho biết gì ? (Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ
2 đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu).
- Bài tốn hỏi gì ? (Cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu ?).
( Đây là 2 câu hỏi giúp HS nắm rõ đâu là điều kiện của bài toán (cái đã
biết), đâu là câu hỏi của bài tốn (cái cần tìm) nên GV cần cho vài HS nhắc
lại để các em nắm chắc nội dung cũng như yêu cầu của đề).
- Muốn biết cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu em làm thế nào?
( Lấy số lít dầu ở thùng thứ nhất cộng với số lít dầu ở thùng thứ hai).
- Số lít dầu ở thùng thứ nhất biết chưa ? ( Biết rồi: 18 lít dầu).
- Số lít dầu ở thùng thứ hai biết chưa ? ( Chưa).
- Vậy muốn biết số lít dầu ở thùng thứ hai em làm thế nào?
( Lấy số lít dầu ở thùng thứ nhất cộng với 6)
- Vậy để giải bài toán này, trước hết ta phải đi tìm cái gì?
( Trước hết ta phải tìm số dầu đựng ở thùng thứ hai)
….
Q trình suy nghĩ trên khơng những giúp HS tách được bài toán đã
cho thành hai bài toán đơn ( loại toán các em đã quá quen thuộc) mà còn
giúp các em biết cần phải suy nghĩ từ đâu và thứ tự thực hiện các bước như
thế nào.
3. Trình bày bài giải:
Khi đã tìm được cách giải bài tốn thì việc cuối cùng cần làm là trình
bày bài giải. Phần trình bày bài giải các bài toán hợp (ở lớp 3) bao gồm 2

câu lời giải, 2 phép tính và đáp số. Hầu hết các bài tốn có lời văn đều có
chung một cấu trúc trình bày bài giải: Sau mỗi câu lời giải là một phép tính
tương ứng, cuối cùng ghi đáp số ở góc bên phải.
22


Tuy nhiên, ở lớp 3 cũng có những bài tốn mà câu trả lời lại phải đặt
sau phép tính. Chẳng hạn:
Một lớp học có 33 học sinh, phịng học của lớp đó chỉ có loại bàn
hai chỗ ngồi. Hỏi cần ít nhất bao nhiêu bàn học như thế? (BT2 – Tr71 –
Tốn 3).
Với loại bài như thế này, ta có thể trình bày bài giải như sau:
Thực hiện phép chia, ta có:
33 : 2 = 16 (dư 1)
Số bàn có hai HS ngồi là 16 bàn, còn 1 HS nữa cần có thêm một
bàn. Vậy số bàn cần có ít nhất là:
16 + 1 = 17 ( bàn)
Đáp số: 17 cái bàn.
Việc đặt câu lời giải ở các bài toán đơn cũng như các bài tốn hợp
khơng có gì khó khăn. Tuy nhiên, nếu để ý một chút, ta sẽ thấy nội dung
câu lời giải thường có 2 phần: Phần 1 ghi cái cần tìm, phần 2 ghi phạm vi
cái cần tìm biểu thị.
Ví dụ:

Số lít dầu

đựng ở thùng thứ hai

Cái cần tìm


Phạm vi cái cần tìm biểu thị

Khi hướng dẫn HS đặt câu lời giải, nhiều GV không chú ý đến điều
này nên khơng có quy định cụ thể. Vì vậy mới xảy ra tình trạng HS trả lời
theo cảm tính, lúc thế này, lúc thế khác. Đương nhiên, trừ những trường
hợp nội dung câu trả lời chỉ có một phần ( Phần 1) thì mỗi phép tính
thường có 2 cách trả lời, có thể đặt phần 2 lên trước, phần 1 để sau ( hoặc
ngược lại).
Để có sự nhất quán, GV cần hướng dẫn HS (và quy định rõ ràng) là
đặt phần 1 (cái cần tìm) lên trước rồi mới đến phần 2 (phạm vi cái cần tìm
biểu thị).
Ví dụ: Nên trả lời:
- Số lít dầu đựng ở thùng thứ hai là:
- Số học sinh ở mỗi hàng là:
Không nên trả lời:
- Thùng thứ hai đựng được số lít dầu là:
- Mỗi hàng có số học sinh là:
23


Cách trả lời nào cũng đúng, nhưng trả lời theo cách thứ nhất không
những khúc triết, rõ ràng hơn mà còn giúp HS ghi đúng ngay tên đơn vị
(danh số) sau khi thực hiện phép tính.
Khi viết câu lời giải, GV cũng cần lưu ý HS không được viết tắt các
đơn vị đo lường ( VD: Không được viết “kg” mà phải viết là “ ki - lô gam”, không viết “ m” mà phải viết là “ mét”,…), các đơn vị này chỉ viết
tắt khi đứng sau một số thực (VD: 5 kg, 10 m,…).
Bên cạnh việc hướng dẫn HS viết câu lời giải đúng, GV cũng cần lưu
ý hướng dẫn viết tên đơn vị ( danh số) ở kết quả phép tính và ở đáp số cho
phù hợp. Các danh số thường là 1 đơn vị kép (chỉ lượng và chỉ tên) như:
con gà, cái thuyền, kg gạo,…Khi ghi danh số sau kết quả mỗi phép tính, ta

chỉ cần ghi đơn vị chỉ lượng đứng trước là: Con, cái, kg,…Nhưng khi ghi
đáp số ta cần phải ghi đầy đủ là con gà, cái thuyền, kg gạo,…
4.Các bước tiến hành giải một bài toán hợp:
a - Bước 1: Đọc kĩ bài toán. Đọc kĩ để hiểu rõ đâu là dữ kiện, điều
kiện của bài toán ( cái đã cho, đã biết), đâu là câu hỏi của bài toán (cái cần
tìm).
b - Bước 2: Tóm tắt bài tốn. Tóm tắt để thiết lập mối quan hệ giữa
dữ kiện và yêu cầu của bài. Để làm rõ điều này, chúng ta nên hướng HS
tóm tắt bằng SĐĐT. Trong trường hợp khơng thể sử dụng được SĐĐT thì
mới dùng quy ước bằng lời.
c - Bước 3: Dựa vào dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài tốn, phân
tích bài tốn qua hệ thống câu hỏi đi từ câu hỏi của bài tốn đến cái đã cho.
d - Bước 4: Trình bày bài giải thành 2 bước theo thứ tự ngược lại
quá trình phân tích bài tốn (dựa vào kết quả phân tích ở bước 3).
e - Bước 5: Kiểm tra bài giải. kiểm tra lại lời giải, phép tính và kết
quả tính xem đã phù hợp và đúng với yêu cầu bài toán chưa. Đây là một
yêu cầu bắt buộc giúp HS có thói quen tự kiểm tra, đánh giá bài làm của
mình để tránh được những sai sót khơng đáng có.

24


*
*

*

PHẦN III – KẾT LUẬN
I- KẾT QUẢ:


Sau khi chuyên đề “ Giải tốn có lời văn” được triển khai và thực
hiện trong tồn khối 3, kết quả chúng tơi thu được thật đáng mừng. Hầu hết
các em HS trong khối đều có một cách trình bày bài giải thống nhất, khoa
25


×