Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn tự sự ở lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.34 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GD&ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI

MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG VIẾT BÀI
VĂN TỰ SỰ LỚP 6

Người thực hiện: Cao Thị Tình
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trường THCS TT Thọ Xuân
Huyện Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Ngữ Văn

THANH HOÁ NĂM 2016

1


MỤC LỤC
1. Mở đầu:

1

2. Nội dung sáng kiến

1


1. Cơ sở lí luận

2

II. Thực trạng

6

III. Giải pháp và tổ chức thực hiện

7

1. Giải pháp

7

2. Tổ chức thực hiện

7

IV. Kết quả thực nghiệm

8

Phần C: Kết luận và kiến nghị

16 - 17

2



I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Là một mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội, mơn Ngữ văn ngoài việc trang
bị cho học sinh những tri thức để đánh giá đúng vấn đề văn học, tạo cho học
sinh khả năng khám phá về vẻ đẹp của tác phẩm văn học cịn có nhiệm vụ giúp
cho học sinh hình thành và phát triển khả năng sản sinh văn bản mới( nói và
viết).
Trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều những phương tiện hiện đại, thông tin
đại chúng cập nhật liên tục khiến cho học sinh lao vào con đường ham chơi điện
tử, sách kiếm hiệp. Các em đã không cịn ham đọc sách, ham nghiên cứu vì vậy
viết được một đoạn, bài văn quả là một điều rất khó đối với các em. Nhiều em
không ngần ngại bê nguyên si bài văn mẫu, lắp ghép những mảnh vụn mà các
em đã nhặt nhạnh được để tạo một bài văn thiếu lơ gích. Các nhà giáo dục cho
rằng: Học trị ngày nay khơng cịn là “chiếc bình chứa” để thầy rót kiến thức
vào nữa, mà các em là “ngọn lửa”. Việc dạy của thầy là phải làm sao tiếp cho
“ngọn lửa” bùng cháy lên niềm khát vọng chiếm lĩnh kiến thức, phải kiến tạo
cho học trò một “con đường” để các em tự học.
Để viết được một đoạn văn, bài văn hay không phải dễ đối với học sinh hiện
nay. Bởi vì các em học sinh cần phải có kĩ năng quan sát, vận dụng tổng hợp các
kiến thức trong môn học, các kiến thức trong đời sống xã hội và đặc biệt phải có
vốn từ phong phú để đưa vào làm một đề văn cụ thể. Trong môn tập làm văn 6
kì I, phần hướng dẫn học sinh viết một bài văn tự sự ( dạng văn bản sáng tạo)
chiếm thời lượng tương đối lớn. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy, tôi thấy các em
chưa biết lập dàn bài, dựng đoạn trước khi bước vào khâu viết văn bản, sự việc
sắp xếp thiếu tính hợp lí, chưa làm nổi bật được nhân vật chính. Thường thì học
sinh nhớ đâu viết đó, viết lan man dẫn đến quên ý, ý nọ xọ ý kia, kể lể dài dòng,
các ý trùng lặp, bài văn không nhất quán, không làm nổi bật được nội dung, chủ
đề của tác phẩm. Đặc biệt, một thực trạng đáng buồn là học sinh không biết tách
đoạn, phần thân bài là một đoạn lớn, các đoạn văn chưa đúng với chức năng,

nhiệm vụ của từng phần; bài văn nhàm chán khơng có tình huống, kịch tính của
truyện, một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của văn bản. Để giúp các
em dễ dàng hơn trong việc tạo dựng một bài viết văn tự sự mạch lạc, sinh động,
cách xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, nhân vật ấn tượng, đặc biệt là cách
phân đoạn, dựng đoạn rõ ràng, lơ gích, hợp lí, vì vậy tôi quyết định chọn đề tài
" Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết bài văn tự sự lớp 6".
2. Mục đích, đối tượng nghiên cứu:
Rèn kĩ năng viết văn tự sự là một vấn đề không mới nhưng lại có khả năng
lớn trong việc rèn luyện và tích hợp được các kĩ năng khác như: dùng từ, đặt
câu, cách lựa chọn các chi tiết, sự việc tiêu biểu trong toàn bộ nội dung câu
chuyện. Việc rèn kĩ năng này cần phải thể hiện sự đổi mới trong phương pháp
dạy học: tích hợp và tích cực giữa chủ thể học sinh trong quá trình dạy
học.Trong phạm vi đề tài này tôi đưa ra một số kinh nghiệm, phương pháp, cách
3


thức rèn kĩ năng để hướng dẫn học sinh viết được bài văn tự sự, góp phần nâng
cao chất lượng bộ môn văn trong nhà trường.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp lí thuyết:
- Phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu:
- Phương pháp kiểm tra, khảo sát:
- Phương pháp cố vấn chuyên gia:
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.Cơ sở lí luận:
1.1.Một số vấn đề chung về văn tự sự:
Chúng ta cần phân biệt rõ hai khái niệm: tác phẩm tự sự (theo quan điểm lí
luận văn học) và phương thức tự sự (trong tập làm văn).
a. Theo quan điểm lí luận văn học.
"Tác phẩm phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong

không gian, thời gian qua các sự kiện, sự cố xảy ra trong cuộc đời con người.
Trong tác phẩm tự sự nhà văn thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình thâm nhập
sâu sắc vào sự kiện và hành động bên ngoài của con người tới mức giữa chúng
hầu như khơng có mối phân biệt nào cả.
Nhà văn tả lại, kể lại những gì xảy ra bên ngồi mình khiến cho người đọc có
cảm giác hiện thực được phản ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình
xác định đang tự phát triển, tồn tại bên ngồi nhà văn, khơng phụ thuộc vào tình
cảm, ý muốn của nhà văn".
b.Theo quan niệm trong tập làm văn.
Trong tập làm văn, khái niệm "Tự sự" được hiểu theo nghĩa rộng. Đó là
phương thức biểu đạt bằng cách kể ra các sự kiện theo mối quan hệ nào đó như
quan hệ nhân quả, quan hệ liên tưởng.
Sách giáo khoa Tập làm văn trước đây (1986 - 1995) không dùng khái niệm
tự sự mà dùng các khái niệm kể chuyện, trần thuật, tường thuật. Trong sách giáo
khoa Ngữ văn 6- Tập 1- trang 28- nhà xuất bản giáo dục 2002, nêu định nghĩa
về văn tự sự như sau:
" tự sự" ( kể chuyện) là phương thức trình bày một chuỗi sự việc, sự việc này
dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa. Tự sự
giúp người kể giải thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và bày tỏ thái
độ khen, chê.
c. Mối quan hệ giữa tự sự với các phương thức khác.
Trong các quá trình tạo lập văn bản, tùy vào mục đích, nội dung và tính chất
của văn bản mà người viết kết hợp với hầu hết các phương thức biểu đạt, song
chủ yếu là các phương thức miêu tả, biểu cảm và nghị luận.
+ Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
Miêu tả trong khi kể nhằm làm cho sự việc kể thêm sinh động màu sắc, hình
dáng, diện mạo của nhân vật, sự việc hành động như hiện lên sống động trước
mắt người đọc. Yếu tố biểu cảm xuất hiện trong khi kể giúp người viết thể hiện

4



được rõ hơn thái độ, tình cảm của mình trước việc đó, buộc người đọc phải trăn
trở, nghĩ suy trước sự việc đang kể, ý nghĩa của chuyện này càng thêm sâu sắc.
+ Tự sự kết hợp với nghị luận:
Ở chương trình Ngữ văn THCS đã cung cấp 6 kiểu văn bản dựa trên 6
phương thức biểu đạt chính. Nếu như các phương thức miêu tả, biểu cảm, tự
sự... chủ yếu dùng hình tượng, hình ảnh, cảm xúc để tái hiện hiện thực thì nghị
luận dùng lí lẽ lơ gích phán đoán nhằm làm sáng tỏ một ý kiến, một quan điểm,
tư tưởng nào đó. Các phương thức trên là cơ sở của tư duy hình tượng, cịn nghị
luận là cơ sở của tư duy lơ gích. Chính vì thế mà trong văn bản tự sự, để người
đọc, người nghe phải suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết, người kể có khi
nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến nhận xét cùng những lí lẽ và dẫn chứng.
Như vậy, có thể nói rằng trong tự sự gần như có tất cả các phương thức biểu
đạt vì tự sự chính là bức tranh gần gũi nhất đối với cuộc sống mà cuộc sống thì
hết sức đa dạng, phong phú với đầy đủ tất cả các tình huống, cảnh ngộ, tất cả các
kiểu nhân vật, các mẫu người mà ta gặp thường ngày. Vì thế mà trong văn bản
tự sự có các yếu tố khác kết hợp.
2.1Đặc điểm của bài văn tự sự:
a.Tự sự là gì?
Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến
sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
- Phân loại: Gồm 2 loại cơ bản:
* Tự sự đời thường:
- Là kể lại những chuyện có thật diễn ra xung quanh mình mà hàng ngày mình
đã thấy, đã nghe, đã biết.
- Hiện thực cuộc sống là nội dung quan trọng của kể chuyện đời thường. Kể
chuyện đời thường phải coi trọng sự thật, người viết chỉ lựa chọn chi tiết, sắp
xếp... chứ khơng được bịa (hồn tồn khác với hư cấu nghệ thuật).
- Nhân vật và sự việc phải chân thực, có ý nghĩa.

* Tự sự tưởng tượng:
- Là kể lại một câu chuyện theo trí tưởng tượng của người kể, khơng có sẵn
trong sách vở hay trong thực tế.
- Sự tưởng tượng đó khơng thể hiện tùy tiện mà phải dựa vào những điều có
thật trong cuộc sống đời thường rồi bổ sung, tưởng tượng thêm nhằm đưa đến sự
hấp dẫn, thú vị cho truyện.
- Tưởng tượng đóng vai trị tích cực trong cuộc sống, tạo nên những hình ảnh
rực rỡ, phản ánh ước mơ, khát vọng cao đẹp của con người.
- Như vậy, điều quan trọng là câu chuyện tưởng tượng phải có diễn biến tự
nhiên, hợp lí vì chứa đựng ý nghĩa xã hội.
* Mục đích của tự sự:
- Thông qua nhân vật, chủ đề, giọng điệu kể, người kể giải thích sự việc, tìm
hiểu con người, nêu vấn đề bày tỏ thái độ yêu ghét, khen chê.
b. Sự việc và nhân vật trong văn tự sự:
* Sự việc trong văn tự sự được trình bày một cách rõ ràng:
5


-

Trong thời gian cụ thể
Ở địa điểm cụ thể
Do nhân vật cụ thể
Có nguyên nhân, diễn biến và kết quả
Đặc biệt, sự việc được sắp xếp theo một trình tự, một diễn biến hợp lí để
thể hiện tư tưởng của người kể.
* Nhân vật:
- Nhân vật chính và nhân vật phụ:
+ Nhân vật chính: xuất hiện nhiều, từ đầu đến cuối, được tập trung khắc họa
trên nhiều phương diện: tên tuổi, lai lịch, diện mạo, tài năng, tính cách, hành

động, lời nói, việc làm... Đây là nhân vật giữ vai trị then chốt, thiếu những nhân
vật này thì khơng cịn là truyện.
+ Nhân vật phản diện: trái ngược với nhân vật chính, làm sáng tỏ nhân vật
chính, tơ đậm nhân vật chính.
- Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện:
+ Nhân vật chính diện: thể hiện tư tưởng, lí tưởng xã hội nhất định, được tác
giả tập trung đề cao, biểu dương và khẳng định bằng những phẩm chất tốt và
những hành động cao cả, đẹp đẽ.
+ Nhân vật phản diện: trái ngược với nhân vật chính diện, nhân vật này bị tác
giả phê phán, tố cáo, chế giễu, phủ định... thường đại diện cho cái xấu, cái ác,
cái tiêu cực.
* Đặc biệt, khi xây dựng nhân vật trong văn tự sự, nhân vật cần phải có ngoại
hình, ngơn ngữ, hành động, tâm lí, tính cách , có xung đột giữa các nhân vật thì
mới có chuyện xảy ra trong thời gian và không gian nhất định. Nhân vật phải cụ
thể, tiêu biểu cho một lớp người nào đó trong xã hội.
c. Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự:
* Ngôi kể:
- Kể chuyện theo ngôi thứ ba: người kể giấu mình, có mặt ở khắp mọi nơi để kể
được tất cả các sự việc xảy ra với các nhân vật trong truyện.
- Kể theo ngôi thứ nhất: xưng tơi để kể, trực tiếp kể những gì mình nghe, mình
thấy, mình trải qua, trực tiếp nói ra những suy nghĩ, cảm xúc của mình.
* Lời kể:
- Kể theo ngơi thứ ba, lời kể mang tính khách quan của người đứng ngồi cuộc.
- Kể theo ngơi thứ nhất, lời kế là những lời tâm sự thủ thỉ, bộc bạch tình cảm,
thổ lộ cuộc sống nội tâm của người kể chuyện.
- Có thể kể phối hợp ngơi thứ nhất và ngơi thứ ba, khiến cho giọng điệu câu
chuyện mang tính tự nhiên, sinh động, mạch chuyện thấm đẫm chất thơ.
* Một tác phẩm tự sự cần có nhiều loại ngơn ngữ đan xen nhau, phối hợp với
nhau: ngôn ngữ kể, ngôn ngữ tả, ngôn ngữ nhân vật.
- Ngôn ngữ kể: thể hiện diễn biến cốt truyện.

- Ngôn ngữ tả: tả nhân vật, tả khung cảnh làm nền, làm phông cho câu chuyện.
- Ngôn ngữ nhân vật: lời đối thoại và độc thoại của nhân vật.
d. Thứ tự kể trong văn tự sự:
6


* Kể theo dịng chảy thời gian: (kể xi)
- Câu chuyện được kể theo sự việc diễn ra, sự việc nào diễn ra trước thì kể
trước, sự việc nào diễn ra sau thì kể sau, kể cho đến hết: các truyện dân gian
được kể theo lối này.
* Kể theo dòng hồi tưởng và phép đồng hiện:( kể ngược)
- Có lúc chuyện sau được kể trước, chuyện trước được kể sau, các sự việc đan
xéo nhau, mục đích gây bất ngờ, hứng thú cho người đọc, tơ đậm tính cách nhân
vật: các truyện đương đại thường kêt theo kiểu này.
e. Lời văn, đoạn văn tự sự:
* Lời văn:
- Lời văn giới thiệu nhân vật: tên gọi, lai lịch, hình dáng, tài năng, tính nết, tâm
hồn, quan hệ tình cảm...
- Lời văn kể việc: kể hành động, việc làm, kết quả và sự thay đổi do hành động
đó đem lại.
* Đoạn văn:
Bài văn tự sự gồm nhiều đoạn văn. Đoạn văn tự sự có thể giới thiệu về nhân
vật ( lai lịch, tên họ, quan hệ, tính tình, tài năng...) hoặc kể về các việc làm, hành
động, lời nói, kết quả và sự thay đổi do các hành động ấy đem lại. Ở những đoạn
có lời đối đáp giữa các nhân vật thường tương ứng với một đoạn thoại, tức là
đoạn đối thoại ấy nhằm hướng đến một nội dung nào đó trong toàn bộ cuộc
thoại.
g. Chủ đề và dàn bài của một bài tự sự:
* Chủ đề:
- Là vấn đề chủ yếu, là lí tưởng mà người kể muốn thể hiện, gửi gắm qua văn

bản. Những điều muốn nói, muốn gởi gắm ấy có thể là sự ca ngợi, khẳng định
hay lên án, phê phán...
- Chủ đề cần hướng vào cuộc sống của con người, gửi gắm thông điệp cho con
người, ngay cả khi thế giới nhân vật trong truyện là con vật, đồ vật. Vì vậy, khi
bắt tay vào viết một bài văn tự sự, người viết cần đặt câu hỏi:Câu chuyện mình
sắp kể sẽ có ý nghĩa gì, truyện nhằm gửi gắm điều gì?
* Dàn bài:
- Mở bài:
+ Có thể giới thiệu nhân vật và tình huống xảy ra câu chuyện.
+ Có thể bắt đầu từ một sự cố nào đó hoặc từ kết cục của câu chuyện, số phận
của nhân vật rồi ngược lại kể từ đầu.
- Thân bài:
+ Lần lượt kể các tình tiết làm nên câu chuyện.
+ Kể các chi tiết sự việc xoay quanh nhân vật, xoay quanh câu chuyện. Có thể
kể theo trình tự thời gian, tuyến nhân vật hoặc theo mạch cảm xúc. Nếu tác
phẩm có nhiều nhân vật thì các tình tiết lồng vào nhau, đan xen nhau theo diễn
biến câu chuyện.
+ Có sự việc khởi đầu, sự việc phát triển, sự việc cao trào, sự việc kết thúc. Cần
chú ý tạo tình huống đặc biệt cho truyện, gây hấp dẫn cho người đọc.
7


+ Có thể đan xen yếu tố miêu tả và biểu cảm: Yếu tố miêu tả về hình dáng nhân
vật, có yếu tố tự sự: về hành động, việc làm, lời nói, cử chỉ, tính cách; có yếu tố
biểu cảm về suy nghĩ, thái độ của nhân vật, của người kể.
+ Có thể kể theo ngơi thứ nhất hoặc ngơi thứ ba.
+ Tình tiết chính, có ý nghĩa cần kể chi tiết. Tình tiết phụ chỉ cần đi lướt qua.
- Kết bài:
+ Kết thúc câu chuyện.
+ Sự việc kết thúc, tình trạng số phận nhân vật được thể hiện khá rõ.

+ Có thể kết bài theo hướng mở: Hành động của nhân vật vẫn như đang còn tiếp
diễn.
2. Thực trạng vấn đề:
a. Kết quả, khảo sát nghiên cứu:
Năm học

Tổng số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
HS
2013 -2014
27
0
5
15
7
2014 -2015
45
2
7
28
8
- Số học sinh nắm được kiến thức cơ bản về văn tự sự: 74,1%
- Só học sinh nắm chưa chắc kiến thức : 25,9 %
- Số học sinh biết viết đoạn tương đối hồn chỉnh: 15%
- Cịn lại số học sinh không hiểu, viết chưa đúng, chưa hay.
b. Nguyên nhân của thực trạng trên:
* Về phía giáo viên:

- Giáo viên mới chỉ giúp các em nắm bắt được những nội dung lí thuyêt cơ
bản trong sách giáo khoa, phần rèn kĩ năng nói và viết chưa thực sự có hiệu quả.
giờ dạy đơn điệu, khơ khan, giáo viên cũng chưa có sự rung cảm với một số nội
dung được đề cập tới trong bài dạy, chưa có nhiều đổi mới về phương pháp,
không khắc sâu được kiến thức cho học sinh, điều đó khiến học sinh có tâm lí
mệt mỏi, ngại học.
Trong q trình dạy các văn bản tự sự ở phân môn Văn học, giáo viên chưa
tích hợp hiệu quả với phần Tập làm văn. Đặc biệt chưa chú trọng luyện tập và ra
bài tập về nhà cho các em.
Giáo viên chỉ hướng dẫn chung chung, đưa ra các ý lớn trong khâu lập dàn ý
mà chưa hướng dẫn cụ thể, chưa tích cực trong việc đưa ra một số đoạn văn mẫu
để học sinh tham khảo sau khi các em đã trình bày bài làm của mình.
Giờ trả bài chưa hiệu quả, đặc biệt chưa chú trọng tới việc nhận xét cách xây
dựng nhân vật, các tình tiết truyện, lời kể mà chỉ chú ý đến lỗi chính tả, cách
dùng từ đặt câu.
* Về phía học sinh:
Học sinh ngại học văn, trong giờ học không chú ý học. Học văn đòi hỏi viết
nhiều, đọc nhiều nhưng học sinh lại ngại đọc, ngại viết, đặc biệt rất ngại đọc các
tài liệu tham khảo(Các câu chuyện được viết trên sách báo) để mở rộng hiểu
biết, trau dồi vốn từ.
8


Học sinh khơng có đủ tài liệu tham khảo.Vì vậy chỉ có thể nắm bắt được
những gì SGK cung cấp.
Kiến thức về đời sống thực tế của học sinh còn ít, các em chưa quan tâm đến
đời sống thực tế, thiếu sự rung cảm trước những hiện tượng của cuộc sống đời
thường, học sinh chưa có nhiều vốn từ nên nhiều bài viết cịn khơ khan, xa rời
thực tế hoặc ln theo một khn mẫu chung.
Thêm vào đó, nhiều học sinh coi nhẹ môn học, chưa chú ý đến việc học, ý

thức chưa cao, về nhà không làm bài (không luyện viết) nên khi viết thường
vụng về, lúng túng.
* Cơ sở vật chất của nhà trường:
Trang thiết bị và đồ dùng trực quan như tranh ảnh, băng hình chưa có hoặc
chưa đáp ứng được nhu cầu của môn học.
- Sau nhiều năm trăn trở trong q trình giảng dạy, tơi đã có những kinh
nghiệm giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự trong chương trình Ngữ văn 6.
3. Giải pháp tổ chức thực hiện:
1.1. Giải pháp:
a. Đối với giáo viên:
Người giáo viên phải nắm lấy ưu thế của học sinh như: những tri thức, vốn
sống, tư tưởng, tình cảm để phát huy những khả năng cao hơn; đồng thời, qua đó
uốn nắn, điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, vốn sống, tư tưởng
của các em.
Giáo viên khơng chỉ đóng vai trị là người truyền đạt tri thức mà phải là
người tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, gợi mở, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động
tìm tòi, khám phá, giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Giáo viên phải có
năng lực đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ kiểu dạy tập trung vào vai trò
của học sinh và hoạt động dạy học, từ cách dạy thơng báo - giải thích- minh họa
sang cách dạy hoạt động tìm tịi khám phá.
Giáo viên phải thực sự say mê, tâm huyết với nghề, biết truyền lửa, khơi
gợi niềm đam mê văn học trong bài giảng, kích thích năng lực quan sát, tư duy,
sáng tạo của học sinh.
Việc luyện viết bài văn tự sự là rất cần thiết, bởi học sinh viết tốt bài văn
tự sự có nghĩa là đảm bảo nâng cao chất lượng dạy học văn.
Trong thực tế giảng dạy môn Tập làm văn lớp 6 ở trường THCS hiện nay,
đặt trọng tâm ở thực hành: xây dựng qua bài thực hành, thực hành nhận biết và
thực hành làm văn bản. Do đó điểm mới và khó trong chương trình là phương
pháp dạy thực hành.
b. Đối với học sinh:

Tích cực học tập, suy nghĩ, quan sát, chủ động tham gia vào các hoạt động
học tập để tự khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ
và hành vi đúng đắn.
Đặc biệt, học sinh cũng phải nắm chắc lí thuyết liên quan đến thể loại văn tự
sự thì mới có thể làm tốt một bài văn tự sự.

9


Mạnh dạn trình bày sản phẩm đoạn văn hoặc bài viết của mình, biết lắng nghe
và tiếp thu những ý kiến mang tính xây dựng của thầy và bạn, tích cực thảo luận,
tranh luận, đặt câu hỏi cho bạn thân, cho thầy, cho bạn để hiểu kĩ, hiểu sâu về
vấn đề.
Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm học tập của
bản thân và bạn bè.
2.1.Tổ chức thực hiện:
a. Cung cấp kiến thức về văn bản tự sự.
Trước khi rèn kĩ năng viết bài văn tự sự, tôi cung cấp cho học sinh các kiến
thức cơ bản phần lí thuyết thơng qua bài dạy trên lớp, các buổi phụ đạo thêm...
b. Hình thành những kĩ năng để viết một bài văn tự sự:
Bước 1. Tìm hiểu đề.
Để giúp học sinh tìm hiểu đề, trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh
đọc nhiều lần ( thậm chí yêu cầu học sinh đọc thuộc đề), lấy bút chì gạch dưới
những từ cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dịng để làm cho nổi
bật các yêu cầu của đề.
Kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất cả các yêu
cầu của đề bài:
- Kiểu bài.
- Lời yêu cầu của đề bài
- Đề bài và giới hạn.

Để khắc phục được khó khăn đó và học sinh thực hiện tốt bài này tôi đã kết
hợp thời gian trên lớp, thời gian ở nhà của các em và thời gian phụ đạo buổi
chiều để hướng dẫn các em thực hành.
Ví dụ:
Đề 1. Cho đề văn: Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng bằng lời văn của em.
* Yêu cầu trả lời:
- Kiểu bài của đề bài là gì?
- Em hiểu thế nào là kể bằng lời văn của em?
- Nội dung của đề bài nằm trong giới hạn nào?
* Lưu ý: Đọc thật kĩ đề bài, lấy bút chì gạch dưới những từ quan trọng.
Bước 2. Tìm ý, lập dàn ý và xác định ngôi kể:
* Lập ý:
Trong việc tìm ý giáo viên cần lưu ý các em các thao tác tưởng tượng, hư cấu.
* Lập dàn ý:
Học sinh lập dàn ý theo bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
* Xác định ngôi kế: GV hướng dẫn học sinh lựa chọn ngôi kể phù hợp để thể
hiện tốt nhất nội dung mà mình muốn gửi đến người đọc. Hai ngôi kể: ngôi kể
thứ nhất và ngôi kể thứ ba.
Bước 3. Xác định câu chủ đề cho từng ý, mỗi ý viết thành một đoạn văn.
Mỗi ý lớn trong phần dàn ý sẽ viết ít nhất một đoạn văn. Cần cho học sinh
nắm được khái niệm và nhận biết đoạn văn:
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo lập văn bản, do nhiều câu tạo thành.
10


Về hình thức: bắt đầu từ chữ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm
xuống dòng.
Về nội dung: đoạn văn chỉ biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh.
Trong bài văn tự sự sẽ có những nội dung như: kể về nhân vật, kể về các sự
việc, diễn biến các sự việc đó... Như vậy, mỗi nội dung đó cần được thể hiện

bằng một hay một vài đoạn văn. Tôi đưa ra hệ thống bài tập:
Bài tập1: Xác định nội dung chính và câu chủ đề của các đoạn văn sau:
a. Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn
mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao
nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con
đều vui lịng gom góp gạo ni chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
( Truyền thuyết Thánh Gióng)
b. Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào
không có cày, em vẽ cày. Nhà nào khơng có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào
khơng có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào khơng có thùng múc nước, em vẽ cho
thùng"
( Truyện cổ tích Cây bút thần)
Tơi hướng dẫn học sinh cách nhận diện câu chủ đề:
- Câu chủ đề: Là câu thứ nhất của mỗi đoạn
- Yêu cầu xác định nội dung chính: Nằm ở ngay câu chủ đề (dựa vào câu
chủ đề để xác định).
Sau khi học sinh đã biết cách nhận diện câu chủ đề cho đoạn văn, cho học
sinh làm tiếp bài tập 2 để rèn kĩ năng viết đoạn theo chủ đề và các đoạn trong
bài văn.
Bài tập 2.Hãy viết đoạn văn tự sự triển khai câu chủ đề sau: Buổi chiều hôm
ấy, tôi cùng lũ trẻ trong xóm rủ nhau ra đê chơi trò đánh trận giả.
Để triển khai câu chủ đề thành đoạn văn, giáo viên cần cho học sinh xác định
được nội dung chính mà câu chủ đề đề cập tới: " Tơi cùng lũ trẻ trong xóm rủ
nhau ra đê chơi trò chơi trận giả". Từ ý của câu chủ đề có thể hình dung được
tồn bộ đoạn văn phải được triển khai( Thời gian, địa điểm, diễn biến, không khí
cuộc chơi...). Lưu ý cho học sinh câu chủ đề phải được giữ nguyên và đặt đầu
đoạn.
VD: Buổi chiều hôm ấy, tơi cùng lũ trẻ trong xóm rủ nhau ra đên chơi đánh
trận giả. Mặt đê lộng gió, mát rượi. Ánh nắng nhạt dần. Hơi nước từ sông phả
lên, làm dịu khơng khí của buổi chiều hè. Chúng tơi chia làm hai phe: Phe quân

xanh do thằng Vinh làm thủ lĩnh, phe qn đỏ thì nhất trí cử tơi. Mỗi bên chiếm
lĩnh một triền đê. Trận đánh bắt đầu. Những bụi cây lúp xúp, những gò đất trở
thành chỗ nấp của chúng tơi. Cũng lăn lê, bị tồi. Cũng hơ xung phong vang
trời dậy đất. Tiếng cười nói, tiếng cãi nhau chí chóe làm rộn rã cả một qng
đê. Có những lúc hăng lên, chúng tôi xông vào đánh giáp lá cà. Thằng nào bị
lưng chạm đất thì coi nhơ đã "hi sinh". Những chỗ chúng tôi quần nhau, bụi
tung mù mịt. Đứa nào đứa nấy mồ hôi mồ kê nhễ nhại, quần áo tóc tai bám đầy
đất đỏ. Mệt mà vui ghê. Trận chiến diễn ra giằng co quyết liệt, không phân
11


thắng bại. Quân của hai bên đã "hi sinh" quá nửa. Số còn lại quyết " tử thủ"
bám giữ trên đê không cho phe kia chiếm đất. Chúng tôi đang bàn mưu tính kế
đáng úp qn xanh thì đột nhiên phía bên kia triền đê, có tiếng la oai ối. Rồi
thằng Vinh nhảy choi choi trên mặt đê, chân tay múa tít. Khơng biết mơ tê gì,
chúng tơi xơng lên bắt sống" tướng địch" Thằng Vinh dở khóc, dở mếu đưa tay
đầu hàng rồi lại nhảy choi choi. Lúc ấy chúng tơi mới vỡ lẽ. Thì ra cu cậu nấp
đúng chỗ có ổ kiến lửa. Những con kiến càng to đang bị khắp quần áo nó, đốt
chí tử. Thế là chúng tơi vội vã khiêng nó ném xuống nước. Cả bọn ào theo sau
nhảy xuống sông vùng vẫy. Thế là tan cuộc chơi.
Giáo viên cần hết sức chú ý rèn cho học sinh kĩ năng này. Có thể cho học
sinh viết ra giấy, vở hoặc gọi một đến hai học sinh lên bảng viết. Có thể sau
bước lập dàn ý, giáo viên chia nhóm để trong cùng một thời gian, lớp học viết
được nhiều đoạn. Khâu rèn kĩ năng viết đoạn văn là khâu cực kì quan trọng.
Sau khi học sinh đã có kĩ năng viết đoạn, giáo viên hướng dẫn học sinh luyện
viết các đoạn mở bài, thân bài, kết bài.Thay vì cách mở bài theo lối mịn mà học
sinh thường viết ở cấp Tiểu học, tôi hướng dẫn học sinh viết theo nhiều cách
khác nhau.
Trước khi cho học sinh thực hành viết đoạn mở bài, giáo viên giới thiệu cho
học sinh một số cách mở bài và ví dụ cụ thể.

* Mở bài trực tiếp: Mở bài bằng cách giới thiệu về nhân vật hoặc sự việc.
Tôi đã được học và tiếp xúc với rất nhiều thầy cô giáo. Nhưng tôi không thể
nào quên được cô Nguyệt đã dạy tôi hồi học lớp 4 trường Tiểu học mà tôi từng
mắc lỗi.
* Mở bài gián tiếp: Là cách mở bài yêu cầu cao hơn, đòi hỏi học sinh phải có sự
tư duy, sự lựa chọn.
- Dùng phương thức tự sự kết hợp với miêu tả để giới thiệu sự việc, nhân vật và
tình huống câu chuyện.
Ví dụ: Sau một đêm mưa rào, bầu trời quang đãng. Bình minh lên! Một bình
minh thật trong trẻo. Đâu đó trong khơng gian vẫn còn đọng chút hương vị của
trận mưa đêm. Mặt trời lên cao dần. Những tia nắng vàng tươi làm cảnh vật
thêm bừng sáng. Cây cối trong khu vườn xôn xao. Chúng hớn hở phô ra bộ cánh
màu xanh rờn lấp lánh những giọt mưa cịn đọng lại.
- Nêu tình huống hoặc sự cố nào đó hay kết cục câu chuyện, số phận nhân vật
rồi ngược lên kể lại từ đầu, nêu chủ đề câu chuyện.
Ví dụ: Hoan hơ! Hoan hô! Sẻ Em giỏi quá!
Cả khu rừng xôn xao những tiếng reo vui. Việc sẻ em biết bay đã trở thành
một sự kiện thật quan trọng. Từ chị sóc nâu cho đến bác Nhím già, ai cũng có
lời chúc mừng khiến Sẻ Em cảm động ứa nước mắt.
- Bằng cách bộc lộ cảm xúc:
Ví dụ: Tuổi thơ - hai tiếng ấy thật là thiêng liêng, có lẽ bởi vì thế mà ai cũng
nâng niu, gìn giữ trong trái tim mình. Đó là những hồi niệm đẹp khó phai mờ:
Đêm trăng nghe bà kể chuyện cổ tích, buổi chiều thả diều trên con đê... Và với

12


tôi cũng vậy, kỉ niệm về mùa thu năm ấy với hình ảnh người cha cứ sáng mãi,
cứ dội về mỗi khi nhớ lại, mỗi khi bâng khuâng.
Việc hướng dẫn học sinh viết theo các cách mở bài như vậy khiến mở bài của

bài văn khơng cịn theo một lối mịn nào nữa, bài văn khơng tẻ nhạt, đơn điệu
mà phong phú, sinh động, có sức hấp dẫn ngay từ phần mở đầu. Việc rèn kĩ
năng viết phần mở bài là điều cần quan tâm đối với mỗi giáo viên dạy văn.
* Bài tập về viết đoạn mở bài: Đọc kĩ hai đoạn văn mở bài sau:
a. " Vi vu...vi vu", những âm thanh trong trẻo của ngọn gió mùa thu đang kể
nhau nghe về thế giới cổ tích thần kì. Tơi lắng nghe và biết được câu chuyện rất
thú vị từ ngày xửa ngày xưa được các nàng gió lưu truyền và cất giữ bằng hơi
thở dịu mát của mình có tên là:" Con Rồng cháu Tiên".
b. Có một câu chuyện mà có lẽ bất kì người Việt Nam nào cũng đều biết và u
thích, đó là truyền thuyết" Con Rồng cháu Tiên"- câu chuyện kể về nguồn gốc
cao quý của người Việt Nam ta.
- Theo em, hai đoạn văn trên là mở bài cho đề bài nào?
- Hai mở bài trên có gì khác nhau?
- Học cách mở bài thứ nhất, em hãy viết mở bài cho đề văn: Kể lại truyền
thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh bằng lời văn của em?
Với bài tập trên, giáo viên cho học sinh nhận diện và thực hành về các cách
mở bài.
- Hai đoạn văn trên là mở bài cho đề văn: kể lại truyện Con Rồng cháu Tiên
bằng lời văn của em.
- Hai cách mở bài khác nhau ở chỗ:
+ Đoạn mở bài thứ nhất: Mở bài theo cách gián tiếp: từ câu chuyện của các
nàng gió, người viết giới thiệu câu chuyện Con Rồng cháu Tiên.
+ Đoạn mở bài thứ hai: Mở bài theo cách trực tiếp: người viết giới thiệu ngay
câu chuyện Con Rồng cháu Tiên.
Qua đó học sinh sẽ thấy được cách mở bài theo cách gián tiếp hay hơn, hấp
dẫn hơn và học sinh vận dụng cách viết để thực hành viết đoạn mở bài cho ý c.
* Rèn kĩ năng viết các đoạn thân bài:
- Đoạn văn xây dựng sự việc:
Ví dụ1: Với đề bài: Kể chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Tôi yêu cầu học sinh:

Bước 1.Xác định sự việc chính, tình tiết câu chuyện.
? Truyện có những sự việc nào.
(1) Vua Hùng kén rể
(2) Sơn Tinh, Thủy Tinh đến cầu hôn
(3) Vua Hùng ra điều kiện chọn rể
(4) Sơn Tinh đến trước được vợ
(5) Thủy Tinh đến sau, tức giận, dâng nước đánh Sơn Tinh
(6) Hai bên giao chiến hàng tháng trời, cuối cùng Thủy Tinh
thua, đành rút quân về.

13


(7) Hằng năm Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng
đều thua.
? Xác định các tình tiết cho các sự việc trên.
? Trong các sự việc, sự việc nào có thể lồng các yếu tố miêu tả, biểu cảm và
nghị luận.
Sau khi nêu câu hỏi, tôi cho học sinh thảo luận và trả lời câu hỏi, sau đó yêu
cầu các em viết thành các đoạn văn
Đoạn văn kể sự việc: Sơn Tinh, Thủy Tinh đến cầu hôn.( yếu tố miêu tả)
Sáng hơm ấy, có hai chàng trai đến cầu hôn. ai cũng mang cốt cách phi
phàm, không giống người thường. Trong bụng ta đã có phần ưng lắm. Một
người tự xưng là Sơn Tinh, tướng mạo khôi ngô, dáng vẻ hùng dũng và oai
phong. Sơn Tinh mặc áo bằng da hổ trắng, vai mang cung tên, tay cầm rìu lớn,
giọng nói oang oang. Người này tài phép cao cường: vẫy tay về phía đơng, phía
đơng lập tức nổi lên nhiều cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng
dãy núi đồi. Người thứ hai cũng không kém. Người đó tự xưng là Thủy Tinh,
sống ở miền nước thẳm khốc trên mình bộ giáp bằng vẩy cá, sáng lóng lánh
dưới ánh mặt trời. Tay cầm một thanh mâu lớn, cao hơn trượng. Khi thanh mâu

vừa được vung lên thì ở đâu kéo đến một luồng gió mạnh kèm theo mây đen và
chỉ trong một lát, mưa trút xuống ào ào, khiến tất thảy đều khinh sợ.
Đoạn văn kể sự việc: Thủy Tinh tức giận dâng nước đánh Sơn Tinh.(Yếu tố
miêu tả và biểu cảm)
Trời đang nắng, bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo đến che kín cả bầu trời, bụi
bay mù mịt. Thì ra Thủy Tinh đến sau không lấy được Mị Nương nên tức giận
đêm quân đuổi theo để cướp lại. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió làm thành giơng
bão. Mưa như có ai cầm bình trút nước xuống trần gian. Chỉ trong chớp mắt, cả
thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước, nhìn cảnh tượng mới sợ
hãi làm sao!
Ví dụ 2: Viết tiếp truyện cổ tích cây bút thần
HS tìm hiểu như ví dụ 1. Đây là đề tưởng tượng vì thế giáo viên cần hướng dẫn
học sinh xác định sự việc dựa theo theo trí tưởng tượng của mình.
cách 1.
Kể sự việc 1. Giặc ngoại xâm sang xâm lược nước ta.
Đoạn văn: Nhưng đến một năm nọ, bọn giặc ngoại xâm nhòm ngó đất nước.
rồi chúng kéo vào xâm lược bờ cõi. Mã Lương đơn đốc binh lính luyện tập. Thế
giặc lúc này rất mạnh. Chúng hung hăng đốt nhà, cướp của, gây bao đau
thương, tang tóc cho dân lành. Nhiều tướng lĩnh cầm quân ra trận nhưng đều
thất bại, mọi người sống trong nỗi lo sợ, kinh hãi.
Sự việc 2. Mã Lương dùng cây bút thần để đánh đuổi quân thù.
Trước thảm họa của đất nước, Mã Lương ra lệnh cho binh sĩ mở cửa kho
báu và mang bút thần tới. Mã Lương lập đàn tế trời đất và xin phép tổ tiên được
dùng lại cây bút thần năm xưa để dẹp giặc. Đợi giặc kéo đến chân thành, Mã
Lương ung dung ngồi vào bàn. Rồi chàng đưa những nét bút nhan thoăn thoắt.
Mỗi nét bút vẽ ra hàng ngàn mũi tên lao về phía kẻ địch. Bọn giặc trúng tên chết
14


như rạ. Chúng núng thế đành phải rút lui. mã Lương liền vẽ sông, vẽ núi. Từng

dãy núi dựng lên với những vách đá cao ngất, trùng trùng , điệp điệp khiến bọn
địch tiến thối lưỡng nan, chỉ cịn chờ chết. Chúng khóc lóc như mưa, vẫy cờ
trắng, lê gối quỳ lạy xin hàng. Mã Lương động làng thương , cấp cho chúng
ngựa và lương thảo để quay đầu về nước. Chàng cũng không quên mở hội khao
quân để ăn mừng chiến thắng.
* Cách 2:
-Kể sự việc 1. Mã Lương rẽ vào một quán tranh ven đường.
Mã Lương sống giản dị, đạm bạc, trong làng ai ai cũng yêu quý. Thỉnh
thoảng, Mã Lương dùng cây bút thần đi đó đây tìm cách giúp đỡ những người
nghèo khổ. vào một ngày nọ, Mã Lương đi qua một quán nhỏ ven đường. Thấy
trong quán treo nhiều tranh quý, mã Lương bèn rẽ vào.
- Kể sự việc 2. mã Lương gặp ông cụ bán tranh và được nhận làm học trò.
Mã Lương chăm chú nhìn kĩ từng bức tranh. Bức nào cũng đẹp, nhưng
điều kì lạ là màu sắc và đường nét có nhiều điểm giống với những bức tranh
của mình. Đang mải mê ngắm nhìn, bỗng Mã Lương nghe có tiếng người nói:
- Ta thấy cháu xem tranh kĩ lưỡng vậy, hẳn cháu là người biết vẽ phải
không?
Mã Lương ngẩng đầu, thấy trước mặt mình một ơng già râu tóc bạc phơ, mắt
sáng, nhân từ, hiền hậu, trông rất quen như đã có lần nào chàng đã gặp. mã
Lương lễ phép đáp:
- Thưa cụ, cháu có biết vẽ đơi chút ạ!
Ơng già liền gọi cô cháu gái lấy giấy và bút vẽ ra rồi nói với Mã Lương:
- Giờ cháu hãy thử vẽ cho ta xem. Nếu cháu vẽ tốt, ta sẵn sàng nhận cháu làm
học trò.
Mã Lương cầm bút và giấy vẽ. Một lát sau, Mã lương đã vẽ xong cảnh đẹp
q hương mình. Ơng già ngắm nhìn bức vẽ và gật đầu, tỏ vẻ ưng ý lắm:
- Cháu là người có hoa tay đấy. Vẽ rất có hồn. Từ nay, cháu hãy ở lại đây làm
học trò của ta.
- Kể sự việc3.
Từ đó, ơng hết lịng dạy bảo Mã Lương và cô cháu gải tập vẽ. Ngày tháng

cứ thế trôi đi, họ sống vui vẻ bên nhau, đầm ấm như một gia đình. mã Lương
cùng cơ cháu gái lớn dần và trưởng thành. Cho tới một buổi sáng nọ, Mã lương
và cơ gái tỉnh dậy thì khơng thấy ơng già đâu nữa. Họ cùng nhau đi tìm, nhưng
ngày này qua tháng nọ, tin tức về ông cụ vẫn biệt vô âm tín. Họ đành trở về
ngơi nhà thân u và càng đùm bọc yêu thương nhau hơn trước.
- Kể sự việc 4.
Một đêm nọ, trong giấc mơ, Mã Lương thấy ơng già trong qn tranh hiện về.
Ơng nói:" Ta chính là người năm xưa đã trao bút thần cho cháu. Ta cùng đã
dựng quán tranh để chờ cháu tới. Giờ cháu đã khơn lớn, đủ tài trí để quyết định
con đường đời của mình, nên sự có mặt của ta và cây bút thần không cần thiết

15


nữa. ta muốn cháu hãy yêu thương cô gái kia như ta đã từng yêu cháu. Chúc
các cháu gặp nhiều may mắn!"
Mã Lương cịn đang bàng hồng, chưa kịp nói lời cảm tạ thì bóng ơng cụ đã
loang lống xa dần và biến mất. Mã Lương chạy theo ông nhưng chỉ cịn bốn bề
im lặng . Chàng bật khóc và chồng tỉnh giấc.
Ngay sáng hơm sau, Mã lương đem câu chuyện ấy kể lại cho cô gái nghe. Cô
đỏ mặt và nở nụ cười e lệ.
- Đoạn văn xây dựng nhân vật: Nhân vật trong văn tự sự là người thực hiện
các sự việc và là người thể hiện trong văn bản. Một tác phẩm tự sự có nhân vật
chính và nhân vật phụ. Phần này, nếu đối với học sinh bình thường, chỉ cần viết
đoạn giới thiệu về tên gọi, ngoại hình, lai lịch, tính nết, lời thoại... của nhân vật
đối với học sinh khá và giỏi, cho học sinh tiếp cận với đoạn văn có sử dụng yếu
tố miêu tả nội tâm.
Để rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn xây dựng nhân vật tôi đưa ra hệ
thống bài tập sau:
Cho đề bài: Viết đoạn mới cho truyện" Ông lão đánh cá và con cá vàng"

Sau khi đưa ra đề bài, giáo viên hướng dẫn và cho học sinh luyện viết và
trình bày trước lớp để nhận xét và chữa. Cuối cùng giáo viên đưa các đoạn văn
mẫu cho học sinh đọc và học tập cách viết.
+ Đoạn văn xây dựng nhân vật bà lão:
Lại nói về mụ vợ ở nhà. Chờ mãi không thấy ông lão về, mụ quyền rủa lão
hết lời . Nhưng rồi sau đó cuộc sống nhung lụa giàu sang, quanh năm yến tiệc,
kẻ hầu người hạ khiến mụ nhanh chóng quên đi ông lão.
Ngày qua tháng lại, nhưng cuộc sống quá đầy đủ khiến mụ cảm thấy nhàm
chán. Mụ nghĩ:" Sao ta nhiều kẻ hầu người hạ, cuộc sống giàu sang phú quý
như thế mà lại không thấy hạnh phúc? " Mụ bỗng nhớ lại những ngày cịn bên
ơng lão đánh cá trước kia. Ngày ấy tuy vất vả, chỉ có rau cháo qua ngày nhưng
sao hạnh phúc thế. Sáng nào mụ cũng tiễn chồng ra khơi và chiều chiều lại
ngóng chồng trở về trong nỗi lo lắng, mong mỏi, nhớ thương. Dù chỉ đánh được
dăm con cá nhỏ nhưng cả hai vợ chồng đều cảm thấy sung sướng.
Vậy mà giờ đây, người từng gắn bó với mụ bao năm tháng khó khăn nhất của
cuộc đời đâu rồi? cuộc sống nhung lụa của mụ hồn tồn thiếu vắng ơng lão,
giờ đây, mụ bỗng cảm thấy tất cả trở nên trống rỗng, vô vị, tẻ nhạt. Một nỗi xót
xa, ân hận bỗng dâng lên ngập lịng... Mụ bật khóc nức nở và lao nhanh về phía
biển. Mụ vừa chạy vừa khóc vừa gọi ông lão trở về.
+ Đoạn văn miêu tả ngoại hình: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lựa
chọn những chi tiết tiêu biểu để miêu tả nhằm mục đích góp phần nổi bật đặc
trưng nhân vật, cần tránh sa vào văn miêu tả.
Ví dụ: Cơ khơng đẹp, chỉ xinh thơi. Và tính cơ cũng như tuổi cơ cịn trẻ con
lắm. Thấy khách hàng nói một câu bơng đùa cơ đã tưởng người ta chọc ghẹo
mình, díu đơi lơng mày lại và ngoe nguẩy cái mình. Khách trơng thấy chỉ cười.
+ Đoạn văn có kết hợp với yếu tố nghị luận: Phần này chỉ áp dụng đối với học
sinh khá và giỏi. Bởi vì đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận phải sang
16



đến chương trình lớp 9 mới được học. Tuy nhiên, ở chương trình lớp 6, vẫn có
thể sử dụng những câu văn nghị luận về phía cuối đoạn sau khi kết thúc phần kể
về một sự việc, một vấn đề nào đó. Yếu tố nghị luận khiến bài văn có chiều sâu,
thể hiện được những suy ngẫm, đánh giá của người viết.
Ví dụ: Tiếp phần đoạn văn nói về nhân vật mụ vợ trong truyện" Ông lão
đánh cá và con cá vàng": Cuộc sống nhung lụa của mụ hoàn toàn thiếu vắng
bóng dáng ơng lão, giờ đây, mụ bỗng cảm thấy tất cả trở nên trống rỗng, vô vị,
tẻ nhạt. Một nỗi xót xa,ân hận bỗng dâng lên ngập lịng... chỉ đến bây giờ, khi
đã đánh mất ông lão, mụ mới thấy thực sự hạnh phúc chẳng ở đâu xa, hạnh
phúc ở ngay trước mắt ta, chỉ có điều khi nó vượt ra khỏi tầm tay ta, ta mới kịp
nhận ra đó là hạnh phúc...
* Rèn kĩ năng viết đoạn kết bài:
Đoạn kết bài trong bài văn tự sự cũng rất quan trọng. kết bài rất linh hoạt, tùy
theo ý nghĩa mà người kể muốn gửi gắm vào câu chuyện. Có nhiều cách kết bài
khác nhau:
- Một cảm giác đột ngột ý vị.
- Một dư âm ngân mãi trong lòng.
- Một ấn tượng sâu sắc, sự ám ảnh khôn nguôi về ý nghĩa câu chuyện.
Ví dụ1: Rồi mùa xuân qua đi, mùa hè lại tới. Chưa bao giờ hạn hán kéo dài
đến thế. Mặt trời chói chang như quả cầu lửa hun nóng tất thảy mọi vật và cây
cối rũ xuống. Hoa khơng cịn nở, chim chẳng cịn hót. Dịng suối cảm thấy mệt
mỏi chẳng còn đủ sức mà rong chơi nữa. Một ngày kia, nó hốt hoảng nhận ra
rằng mình đang ngày một cạn kiệt đi. Nó ngước nhìn lên ngọn núi sừng sững.
Một màu xanh vẫn phủ kín, trơng mới tràn trề sức sống làm sao. Dịng suối chợt
nép mình vào chân núi và cảm thấy mình thật nhỏ. Thật nhỏ bé!
Ví dụ 2. Cá vàng lặn xuống biển khơi. Ông lão đi về nhà. Mụ vợ đã được cứu
sống. Như lời cá vàng nói, Từ đó trở đi mụ vợ ông lão làm ăn lương thiện, đối
xử tốt với ông lão. Sự cố gắng lao động của hai vợ chồng ông lão đã được đền
đáp. Rồi gia đình ơng xây được một căn nhà thay cho túp lều xưa và sống hạnh
phúc hết đời.

Bước 4. Đọc và sửa chữa.
Bài viết cần đọc và sử chữa một cách triết để. Để việc chữa lỗi hiệu quả đối
với học sinh, khi đánh giá bài viết của các em, giáo viên cần có sự đánh giá từ
ưu điểm đấn nhược điểm: cách xây dựng nhân vật, sự việc, các tình huống, cách
sử dụng ngôi kể, lời kể; cách dùng từ, đặt câu.
Với những đoạn văn học sinh vừa tạo lập được ngay trong tiết học, trên bảng
hoặc trong vở, giáo viên cần chữa triệt để, những đoạn viết tốt nên cho điểm để
học sinh hứng thú, tự tin hơn trong việc học văn, viết văn.
c. Đặc biệt cần hết sức chú ý coi trọng việc chấm chữa bài cho học sinh:
Q trình chấm bài cần có sổ ghi cụ thể các lỗi sai của học sinh, ngoài các lỗi
sai thường gặp ở hình thức bài làm như: chính tả, ngữ pháp, cần nhận xét về bố
cục bài viết.

17


Giáo viên cần phải phân loại lỗi và ghi vào sổ trong quá trình chấm bài như:
lỗi bố cục, sắp xếp ý, cách xây dựng nhân vật, ngôi kể, lỗi chính tả, lỗi dùng từ
đặt câu... và chữa lỗi điển hình, nhiều em hay mắc để tránh hiện tượng các em
mắc phải lỗi này trong các bài viết sau.
- Trả bài trên lớp:
Ngoài việc thực hiện các bước trên, trong phần chữa lỗi cụ thể, tôi thường tổ
chức hoạt động theo nhóm, học sinh sẽ lên bảng ghi những lỗi mà các em đã
mắc phải trong bài viết theo sự phân loại lỗi của giáo viên, sau đó tiến hành sửa
chữa. Với cách tổ chức như vậy, học sinh rất hào hứng tham gia, và như vậy,
những lỗi này ở bài viết sau rất ít em mắc phải.
Chú ý khen thưởng những học sinh có tiến bộ, đồng thời nhắc nhở các em ghi
nhận những lỗi sai của mình để các em không bị lặp lại trong các tiết sau. Nên
chú ý nhắc nhở học sinh một cách nhẹ nhàng nếu các em mắc lỗi, tránh phê
bình, chỉ trích nặng nề.

4. Kết quả thực nghiệm:
Sau khi áp dụng những biện pháp rèn kĩ năng trên, học sinh đã có những
chuyển biến rõ rệt qua các bài viết, các em đã có kĩ năng viết bài văn tự sự, từ
viết đúng sang viết hay. Kết quả các bài viết học kì I, lớp 6 năm học 2015-2016
đã được nâng lên rõ rệt.
Điểm 9 - 10

Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

8


23,5

8

23,5

18

53%

0

0

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
A. Kết luận:
Trong quá trình giảng dạy, tơi nhận thấy việc rèn kĩ năng viết bài văn tự sự
cho học sinh lớp 6 là rất cần thiết. Có thể nói rằng qua việc thực hiện giải pháp
này tơi đã rút ra cho mình rất nhiều bài học từ việc xác định kiến thức bổ sung,
soạn giáo án cho đến việc giảng dạy.
Như vậy ngay lớp 6 các em đã được rèn kĩ năng viết một bài văn tự sự đúng
thao tác, để rồi lên lớp 7,8,9 các em sẽ tạo lập được các văn bản khơng những
đạt u cầu mà cịn rất hay.
Thực hiện việc rèn kĩ năng viết bài văn tự sự lớp 6 cho học sinh giúp học
sinh vận dụng sáng tạo, tổng hợp những kiến thức của phân môn Văn học, Tiếng
việt để có thể nói hoặc viết theo những yêu cầu, những đề tài khác nhau, những
kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em.
Với cách rèn kĩ năng viết bài văn tự sự nêu trên, tôi đã rút ra một số điểm cho bản
thân:


18


Khi dạy cho học sinh viết đoạn giáo viên phải tìm ra phương pháp giải
quyết thích đáng giữa lý thuyết và thực hành, giữa rèn luyện kĩ năng nói và viết, tạo
cho học sinh có kĩ năng và thao tác nhạy bén khi tiếp xúc với đoạn văn, bài văn.
- Việc chấm, chữa bài là một trong những bước quan trọng để uốn nắn
cho học sinh cách dùng từ, cách viết đoạn theo nhiều cách.
- Không ngừng học tập rèn luyện, trau dồi kiến thức và biết lắng nghe ý
kiến đóng góp của đồng nghiệp, để xây dựng cho mình một phương pháp dạy
thích hợp.
B. Kiến nghị:
Phịng giáo dục cần tổ chức chuyên đề cho giáo viên bộ môn văn trong từng
năm học để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận, tìm ra biện pháp tối
ưu, tích cực, góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn văn.
Đây là giải pháp của bản thân được nghiên cứu trong q trình giảng dạy, chắc
chắn khơng tránh khỏi những khuyết điểm, rất mong được sự góp ý quý báu của
đồng nghiệp để tôi rút kinh nghiệm và học tập.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 30 tháng 5 năm2016
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Cao Thị Tình


19


2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 6 tập 1, NXB Giáo dục
Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III
(2004-2007 ) môn Ngữ văn - quyển 1 và 2 - NXB Giáo dục.
Phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp
và tích cực - Đồn Thị Kim Nhung -NXB Đại học quốc gia TPHCM
Dạy học Tập làm văn ở trung học cơ sở - Nguyễn Trí - NXB Giáo dục
Giúp em viết tốt các dạng bài Tập làm văn lớp 6 của tác giả Huỳnh
Thị Thu Ba, nhà xuất bản Giáo dục...
Nâng cao Ngữ văn 6, nhóm tác giả Tạ Đức Hiền, Nguyễn Kim Hoa,
Lê Thuận an, nhà xuất bản Giáo dục.
"Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS môn
Văn", Trần Đình Chung, NXB Giáo dục.
Rèn kĩ năng làm văn và bài văn mẫu lớp 6, nhóm tác giả Lê Anh
Xuân, Nguyễn Thị Thúy Hồng, Nguyễn Thị Hương Lan, Vũ Thị
Hồng Lê, Ngô Thị Thanh.

20



21



×