Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu NHỮNG ĐIỀU TÂM HUYẾT CỦA BÁC HỒ DÀNH CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN NGHỆ AN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.73 KB, 8 trang )

NHỮNG ĐIỀU TÂM HUYẾT CỦA BÁC HỒ
DÀNH CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN NGHỆ AN
(Báo cáo tham dự Hội thảo khoa học toàn quốc:
50 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm quê hương Nghệ An 1957-2007)
1
TS. Chu Đức Tính
Một trong những thành công lớn nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian
khó nhưng rất đỗi tự hào của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc Người đã xây dựng thành
công ở Việt Nam một chính Đảng Mácxít - Lêninít, trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo
quần chúng nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 lịch
sử. Với thắng lợi đó, ngọn cờ: Độc lập dân tộc và CNXH được Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta lựa chọn từ năm 1930 đã từng bước trở thành hiện thực. Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, nhà nước của dân, do dân, vì dân được sáng lập. Một trang sử mới trong
lịch sử dân tộc đã bắt đầu với những trọng trách không kém phần nặng nề, đòi hỏi đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, những người ngày hôm qua còn phải hoạt động trong bí
mật, ngày hôm nay đã nắm giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy công quyền từ
Trung ương xuống đến các địa phương phải không ngừng tu dưỡng, phấn đấu.
1. Thành công của cách mạng Tháng Tám đã mang lại độc lập cho Tổ quốc ta, tự do
cho đồng bào ta. Một kỷ nguyên mới, với những thuận lợi mới đi liền cùng khó khăn và
những thách thức khôn lường.Trong bối cảnh đó, diễn biến phức tạp của tình hình thực
tế, (đặc biệt là với quê hương Nghệ An - nơi ra đời những XôViết công nông đầu tiên,
nơi luôn xứng đáng với danh hiệu Đỏ), đã không khỏi làm Hồ Chí Minh băn khoăn. Với
trách nhiệm và tâm huyết của người đứng đầu Nhà nước, ngày 17/9/1945, vị Chủ tịch
Chính phủ đã gửi Thư cho các đồng chí tỉnh nhà. Trong bức thư này, Hồ Chí Minh khẳng
định: Cuộc dân tộc cách mạng thành công này có những ý nghĩa rất to lớn, song bên cạnh
những thuận lợi, cũng còn vô vàn những khó khăn thử thách. Và để vượt qua những trở
ngại, để bảo vệ và củng cố chính thể dân chủ cộng hoà còn non trẻ, “chúng ta phải lấy
lòng “chí công vô tư”, “không sợ có khuyết điểm” và phải “lập tức sửa đổi ngay” (1)
những khuyết điểm đã bắt đầu xuất hiện. Lý do để Người căn dặn như vậy, chính là vì:
Đảng có vững cách mạng mới thành công. Giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm
quyền, song trong mọi thời điểm, Đảng ta không có lợi ích nào khác là phục vụ nhân dân,


vì nhân dân. Trong khi đó, “cán bộ ta nhiều người “cúc cung tận tụy”, hết sức trung thành
với nhiệm vụ, với Chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có người hủ hoá, lên mặt làm
quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng
pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể” (2) Cuối thư,
bằng tình cảm của một người con với quê hương, bằng những kinh nghiệm đã tích luỹ
được trong những năm tháng hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh chân thành nhắn nhủ:
“Trong công tác, có vấn đề gì khó giải quyết, các đồng chí cứ viết thư thảo luận với tôi.
Tôi rất sẵn sàng giúp ý kiến” (3).
Ngày 19/12/1946, chỉ 15 tháng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân
đọc Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945), đất nước ta đã bước vào cuộc trường chinh chống
2
Pháp, trong một tương quan lực lượng chênh lệch. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng, nhân dân cả nước từng bước triển khai thế trận chiến tranh nhân dân,
kiên cường chống thực dân Pháp xâm lược với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (4).
Từ những ngày đầu kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Cuộc
trường kỳ kháng chiến này tức là dân tộc cách mệnh đạt đến trình độ tối cao” (5). Trong
lúc nhân cả nước đang dành hết tinh thần và lực lượng để chống Pháp, trong khi cả dân
tộc đang “ở trên ngã tư đường, chết hay sống, mất hay còn” (6), thì cũng lại Hồ Chí Minh
trực tiếp gửi đến các đồng chí tỉnh nhà những lời căn dặn chí tình. Lời nhắn nhủ đồng
thời cũng là mệnh lệnh của Người trong bức Thư gửi các đồng chí Trung Bộ (viết năm
1947) là: “Mỗi một đồng chí và toàn cả Đoàn thể phải đem tất cả tinh thần và lực lượng
ra để đưa toàn dân quay về một hướng, nhằm vào một mục đích: đánh đuổi thực dân
Pháp, làm cho nước được thống nhất và độc lập” (7). Để có thể làm được điều đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đưa ra một “cẩm nang”, đó là: Yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên và
toàn thể Đoàn thể phải: “Sáng suốt, khôn khéo, Cẩn thận, kiên quyết, Siêng năng, nhất
trí” (8), để đồng tâm hiệp lực lãnh đạo cách mạng.
Đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, quan tâm đến sự lớn mạnh của bộ
máy lãnh đạo các cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành sự quan tâm, trao đổi với lãnh
đạo của Tỉnh những vấn đề về rèn luyyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng

ta đang cầm quyền, đang trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân
Pháp xâm lược. Bởi theo Người, nếu không có một đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng
về tư tưởng, chính trị, được rèn luyện đạo đức cách mạng, được trau dồi trình độ chuyên
môn, luôn đi đầu trong mọi hoàn cảnh thì nhất định sẽ không có “một Đảng to lớn, mạnh
mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để”, đủ năng lực lãnh đạo cuộc kháng chiến
trường kỳ, gian khổ của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Từ đó, có thể luận giải được những băn khoăn, những tâm tư của người đứng đầu
Chính phủ trong hoàn cảnh đầy khó khăn của cuộc kháng chiến khi Người nhấn mạnh
rằng, trong số những cán bộ, đảng viên của Đảng, vẫn có không ít người “chỉ chăm chú
lợi ích của địa phương mình mà không nhìn đến lợi ích của toàn bộ”. Tính cục bộ địa
phương đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì dường như từ nó mà “sinh ra những việc, xem
qua thì hình như không quan hệ gì mấy” nhưng “kỳ thực rất có hại đến kế hoạch chung”.
Cũng trong bức thư này, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra một căn bệnh không kém
phần nguy hiểm, luôn là nguy cơ dẫn đến sự thoái hoá, biến chất của mỗi người cán bộ,
đảng viên, đó là bệnh: óc bè phái. Chỉ ra căn bệnh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu sâu
sắc rằng, “cánh hẩu” là biểu hiện rõ nhất của óc bè phái: “Ai hẩu với mình thì dù nói
không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình thì dù họ có tài
3
cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe” (9). Từ căn bệnh này,
những người có quyền lực hoặc kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu của mình dù không có
tài năng gì cũng kéo vào chức này, chức nọ. Người có tài, có đức nhưng không vừa lòng
mình thì đẩy ra ngoài và họ đã quên mất rằng, việc nước là việc chung của tất cả mọi
người chứ không phải việc riêng của một số người, một dòng họ. Đó thực sự là một
khuyết điểm lớn, rất có hại, rất nguy hiểm, “làm cho Đoàn thể mất cán bộ, kém nhất trí,
thường hỏng việc”.
Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn nêu ra một căn bệnh phổ biến thường thấy ở
mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng khi đang đảm nhiệm một chức vụ nhất định. Tính cô
độc, hẹp hòi, luôn luôn có biểu hiện ở nhiều dạng vẻ khác nhau như: “Có đồng chí còn
giữ thói một người làm quan cả họ được nhờ, đem bà con bằng hữu vào chức này việc
kia, làm được, không được mặc kệ. Hỏng việc đã có Đoàn thể chịu”; “có nơi, các đồng

chí chẳng những không phê bình giúp nhau sửa đổi, mà lại che đậy cho nhau, tha thứ cho
nhau, giấu cả Đoàn thể” (10). Tất cả những biểu hiện đó, dù dưới dạng nào cũng thật là
có hại. Hoặc do vô tình, hoặc do cố ý, họ không hiểu rằng: “Người đời ai cũng có chỗ
hay chỗ dở” (11). Vì vậy, muốn sự nghiệp kháng chiến thành công, muốn nguồn sức
mạnh nội lực của cả dân tộc được nhân lên, thì những người lãnh đạo phải biết: Dùng chỗ
hay của người, giúp người sửa chỗ dở và là người lãnh đạo giỏi thì phải “gỗ to, nhỏ,
thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng được”.
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh đến căn bệnh ưa chuộng hình thức
bên ngoài để phô oai, không xét đến nội dung thực chất của một số người. Đồng thời từ
đó, Người đặc biệt chỉ ra những tác hại to lớn, những hiểm nguy quan trọng là hệ quả xấu
của bệnh ích kỷ, kiêu ngạo cộng sản, v.v. Chúng ta từng nói rằng, Đảng là bộ tham mưu
của toàn dân tộc, bao gồm những người con ưu tú nhất, song như vậy không có nghĩa là
mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng không cần phải rèn luyện, phấn đấu và tu dưỡng đạo đức
cách mạng nữa. Trong điều kiện chiến tranh ngày càng ác liệt, cùng với những biểu hiện
như: chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, lo phát tài, nhiều lộc từ của công, cố tranh được chức Chủ
tịch này, uỷ viên nọ, đạo đức cách mệnh thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc..., vị
lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã không ngần ngại chỉ ra rằng: “Còn những đồng chí hay có
tính kiêu ngạo, tự mãn, tự túc, cho mình là cựu đồng chí, cựu chính trị phạm thì giỏi hơn
ai hết, ai cũng không bằng mình” (12) thì thực sự đã quá tự mãn, đã “bó mình lại, không
cho mình tiến bộ thêm”.
Không chỉ căn dặn cán bộ, đảng viên của Đảng ở tỉnh nhà, những người sẽ góp
phần không nhỏ vào sự lớn mạnh của Đảng những điều mà Người từng tiên liệu và đã
từng được chứng kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng thời khẳng định: các đồng chí
có nhiều ưu điểm như: “Nhẫn nại, chịu khó, kiên quyết, tháo vát và nhiều sáng kiến.
Nhưng trong thời kỳ khó khăn nặng nề này, chỉ có những ưu điểm ấy thôi cũng chưa đủ.
4
Các đồng chí cần phải đem căn bản tốt đó mà kiên quyết khắc phục cho những khuyết
điểm vừa kể trên thì chúng ta mới chắc đi đến hoàn toàn thắng lợi” (13).
Cuối cùng, Người nhấn mạnh: Các đồng chí phải làm tốt công tác cán bộ. Chọn
người phải đích đáng, quyền hạn phải phân minh và nhất là phải tránh “cái lối lạm quyền,

bao biện, xung đột, phù diện và suy tỵ, không phụ trách”. Người mong những người con
ưu tú của tỉnh nhà, những công bộc của dân luôn lòng mình hướng đến chí công vô tư và
phải “đem toàn bộ tinh thần cách mệnh mà khắc phục khuyết điểm, phát triển các ưu
điểm”, để chấn chỉnh công tác, để lãnh đạo toàn dân hăng hái tham gia kháng chiến.
2. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đứng trước
nhiệm vụ lịch sử mới, đó là vừa xây dựng một chế độ xã hội mới ở miền Bắc, vừa tiếp
tục lãnh đạo cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai. Đối
với Nghệ An, một tỉnh miền Trung nghèo về kinh tế và giàu truyền thống đấu tranh cách
mạng, thì việc: Không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng thắng lợi CNXH và
đảm bảo đánh thắng giặc Mỹ xâm lược là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng.
Tháng 6/1957, sau nhiều năm xa cách, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm quê
hương Nghệ An lần thứ nhất. Trong lần gặp gỡ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung nói
với cán bộ, đảng viên về 3 điểm: ưu điểm, khuyết điểm và nhiệm vụ trước mắt. Trao đổi
về những ưu, khuyết điểm, Người nói: Đại đa số các đồng chí đã chịu cực, chịu khổ, chịu
khó để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ giao phó. Tuy nhiên, hiện tại vẫn
còn hiện tượng mất đoàn kết nội bộ và “đây là một khuyết điểm quan trọng” (14). Mặt
khác, bệnh suy bì về đãi ngộ và địa vị, làm việc gì cũng sợ khó, tự kiêu tự đại, chưa thực
hiện được khẩu hiệu cần, kiệm, liêm, chính, thậm chí có người còn mê tín là những tồn
tại hiện thời trong một số cán bộ, đảng viên và những tồn tại ấy làm suy yếu tổ chức
Đảng. Sau đó, Người nói về những nhiệm vụ trước mắt của toàn tỉnh, đặc biệt là phải:
Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm và mong đội ngũ lãnh đạo của tỉnh cùng
toàn dân quyết tâm đưa Nghệ An giàu truyền thống cách mạng thành “một tỉnh gương
mẫu”.
4 năm sau, khi về thăm quê lần thứ 2 (12/1961), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
chuyện với Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An. Lần này, cũng đề cập đến vấn đề vai
trò và trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tổ chức cơ sở Đảng trong việc
lãnh đạo nhân dân tổ chức sản xuất, Người khẳng định: “Nói Đảng cũng rộng đấy.
Nhưng trước hết là ai? Chi bộ. Hễ chi bộ tốt thì hợp tác xã tốt, chi bộ kém thì hợp tác xã
kém. Đó là kinh nghiệm chung”(15) và “muốn biết Đảng địa phương của mình mạnh hay
yếu, khá hay kém hãy nhìn vào sự lãnh đạo của cấp uỷ” (16). Từ thực tế của Nghệ An,

Hồ Chí Minh chỉ rõ: Muốn thực sự đoàn kết nội bộ, muốn thực hiện nguyên tắc tập thể
5

×