Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) tích hợp thơ, văn trong dạy học môn lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.76 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiên
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng dạy học ở trường THPT Quảng Xương 2
2.2.1. Thuận lợi
2.2.2. Khó khăn
2.2.3. Điều tra cụ thể
2.3. Giải pháp thực hiện
2.3.1. Một số yêu cầu
2.3.2. Một số giải pháp sử dụng giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Kết quả
2.4.2. Bài học kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
1
1
1
1
2
3


3
3
3
4
4
4
4
5
10
10
10
11
11
11
12


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong nhà trường phổ thông, bộ môn lịch sử là một trong những bộ mơn
có tầm quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho học sinh một bức
tranh sinh động về lịch sử loài người và lịch sử dân tộc
Trong q trình giảng dạy mơn lịch sử , ở các bài học nội dung truyền đạt
cho học sinh chỉ là những kênh chữ, một vài bài có cung cấp thêm hình ảnh.
Trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức
trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm
cho tiết học thêm sinh động.
Ví dụ như cung cấp thêm những hình ảnh ngồi sách giáo khoa hoặc
những mẫu chuyện kể về những con người đã góp phần xây dựng đất nước để có
được những thành tựu của hơm nay mà trong sách giáo khoa không đề cập đến.

Qua tiết dạy không đem lại hứng thú cho học sinh, tiết học trở nên khơ khan đơi
lúc học sinh lại có những suy nghĩ lệch lạc về những nhân vật lịch sử hoặc
những sự kiện lịch sử quan trọng.
Từ yêu cầu và thực tế trên đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy
học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học
sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung kiến thức trọng tâm đã học.
Vì vậy người giáo viên phải biết sử dụng đến kiến thức các môn học khác
như địa, cơng dân, văn học, vật lí… Những bộ mơn đó làm cho giờ học lịch sử
sống động hơn, hấp dẫn học sinh hơn. Trong đó nếu giáo viên biết vận dụng một
số câu trích dẫn, câu văn, câu thơ, đoạn trích để miêu tả tường thuật một sự kiện,
một cuộc đời hoạt động của nhân vật, một cuộc cách mạng…sẽ làm phong phú
tri thức học sinh, giúp học sinh u thích, hứng thú say mê học tập mơn lịch sử
và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học mơn lịch sử
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học
lịch sử nói riêng, tơi xin trình bày một số vấn đề về việc: “Tích hợp thơ, văn
trong dạy học mơn lịch sử ”. Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ
góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh
hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày càng yêu thích mơn học.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Kết hợp kiên thức liên môn để hỗ trợ việc giảng dạy, học tập, khai thác
nội dung truyền thống yêu nước trong chương trình lịch sử, để giáo dục cho học
sinh. Giúp học sinh năng lực tư duy, rèn luyện kĩ năng kĩ xảo, phát huy tính cực,
chủ động, độc lập và sáng tạo trong học tập, làm cho các em cảm thấy yêu Tổ
Quốc yêu lao động, các em cảm thấy say mê, hứng thú học tập môn lịch sử.
Đồng thời tôi muốn đưa ra một ý kiến cá nhân trong giảng dạy để trao đổi với
các bạn đồng nghiệp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu, sử dụng tài liệu văn học trong giảng
dạy và học tập môn lịch sử lớp 11.


1


- Đối tượng nghiên cứu là học sinh khối 11 trường THPT Quảng Xương 2
(lớp đối chứng 11B3 và 11B5; lớp áp dụng giải pháp của đề tài này 11B2 và
11B4)
1.4. Phương pháp nghiên cứu: [6]
- Phương pháp thực tiễn trong quá trình giảng dạy và tự nghiên cứu.
- Các tác phẩm văn học có liên quan
- Sử dụng các câu hỏi điều tra có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu
của việc đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh trong việc giảng dạy
môn lịch sử lớp 11, để khắc phục nhược điểm trong phương pháp kiểm tra đánh
giá cần phối hợp các phương pháp hiện đại, trong đó có phương pháp kiểm tra
bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học và làm bài để từ đó có điều chỉnh
và bổ sung hợp lí
- Tham khảo ý kiến góp ý của đồng nghiệp, đúc rút kinh nghiệm thực tế.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Bất cứ giáo viên bộ môn nào đều phải có tư tưởng, tình cảm đúng đắn
lành mạnh, trong sáng, có lịng nhiệt thành đối với nghề nghiệp, có thế giới
khách quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ để góp phần hình thành thế hệ
trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng.
Không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ mơn, có phương pháp
dạy tốt, khơng ngừng hồn thiện cải tiến phương pháp giảng dạy và nghiệp vụ.
Giảng dạy là đưa đến cho thế hệ trẻ, giúp thế hệ trẻ tiếp nhận những giá trị

quí báu của loài người về phương diện tri thức cũng như về phương diện tình
cảm, tư tưởng góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho thế hệ trẻ.
Giảng lịch sử là giảng về quá khứ của xã hội loài người, quá khứ của dân
tộc, quá khứ của địa phương. Những quá khứ đó lại có quan hệ mật thiết với
hiện tại và tương lai. Trong bài giảng, bài học lịch sử tư duy, tình cảm của giáo
viên và học sinh hướng về những gì rất gần gũi đó là những con người thật
những con người cụ thể chứ không phải là những con người hư cấu. Trong lịch
sử dân tộc địa phương những con người đó là lại càng gần gũi hơn đó là tổ tiên,
ơng bà, cha mẹ, anh chị của những người đang giảng dạy và học tập lịch sử
Để giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức giáo viên bắt đầu từ việc giúp học
sinh hiểu biết cụ thể, nắm được kiến thức lịch sử. Đó là nhiệm vụ giáo dưỡng và
giáo dục. Có câu: “Lời khen của sử còn vinh dự hơn áo đẹp vua ban, lời chê của
sử cịn nghiêm khắc hơn búa rìu, sử thực sự là cái cân, cái gương của muôn
đời” [10]. Qua đó ta thấy được mơn lịch sử vơ cùng quan trọng không những
cung cấp những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới mà cịn
góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách cho học sinh.
2.2. Thực trạng dạy và học ở trường THPT Quảng Xương 2
2.2.1. Thuận lợi:
Giáo viên có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy
học như: sử dụng dồ dùng trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, miêu tả, kể
chuyện, nêu đặc điểm nhân vật …. Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh thảo
luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh
yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh
sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch
sử. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ
dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mơ hình, ứng dụng
cơng nghệ thơng tin…
Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo
viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Đa số học sinh tham gia tích

cực trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao trong q trình lĩnh hội
kiến thức. Học sinh yếu, kém đã và đang nắm bắt kiến thức trọng tâm cơ bản
thông qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa, vấn đáp…

3


các em đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá
trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.
2.2.2. Khó khăn:
Vẫn cịn một số ít giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo
điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức, vẫn còn sử dụng phương
pháp dạy học “thầy nói, trị nghe’, “thầy đọc, trị chép”. Do đó nhiều học sinh
chưa nắm kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn
sách giáo khoa hồn tồn. Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh khơng
trả lời được nhưng lại khơng có câu hỏi gợi ý nên nhiều khi phải trả lời thay cho
học sinh. Một số tiết giáo viên chỉ nêu vài câu hỏi và chỉ gọi một số học sinh
khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng học sinh yếu, kém, làm cho
đối tượng này ít được chú ý và không được tham gia hoạt động đều này làm cho
các em tự ti về năng lực của mình, các em cảm thấy chán nản và khơng u
thích mơn học.
Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc tiếp
thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác định
được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế các
em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh chưa
xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em ln có
tư tưởng lịch sử là mơn phụ nên khơng cần thiết.
2.2.3. Điều tra cụ thể:
Trong q trình vừa giảng dạy vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập
bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc điều

tra được thực hiện thông qua những câu hỏi phát triển tư duy trên lớp, kiểm tra
15 phút, kiểm tra 1 tiết ….
Qua điều tra, đa số học sinh chỉ trả lời những câu hỏi mang tính chất trình
bày, cịn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì trả lời
chưa được tốt, chưa biết vận dụng và liên hệ kiến thức giữa các bài các chương,
chưa nắm rõ các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn hay lẫn lộn giữa sự kiện này
với sự kiện khác. Cụ thể kết quả đối với các lớp không áp dụng giải pháp:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
11B
42
0
0
3
2 4.8
12 28.6

25
59.5
3 7.1
11B
42
0
0
5
1 2.4
9 21.4
27
64.3
5 11.9
2.3. Giải pháp thực hiện
2.3.1. Một số yêu cầu
a. Đối với học sinh:
Học sinh phải đọc trước bài mới trong sách giáo khoa, chuẩn bị tất cả các
câu hỏi trong SGK phần sẽ học.
Trong giờ học phải chú ý nghe giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây
dựng bài, khơng tiếp thu máy móc phải có suy nghĩ.

4


Biết cách làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ
giáo viên giao cho.
Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ học sinh
phải biết tự mình tìm tịi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này
với sự kiện khác.
Học sinh cần có quyển sổ tay để ghi những vấn đề, những thông tin giáo

viên cung cấp mà khơng có trong sách giáo khoa.
Học sinh phải biết sử dụng bản đồ, lược đồ trình bày diễn biến một cuộc
khởi nghĩa hoặc một giai đoạn lịch sử.
b. Đối với giáo viên:
Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện
tử), Tài liệu văn , thơ, bản đồ tranh ảnh, sơ đồ….
Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt
nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề.
Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên hệ
kiến thức cũ.
Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay
các thắc mắc của học sinh.
Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, đúng, khơng, sai.
Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao?
Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh
căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên
cho học sinh suy nghĩ q lâu làm khơng khí lớp nặng nề.
Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học
sinh, có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh khơng khí thoải mái.
Khi học sinh trả lời giáo viên phải nhận xét câu trả lời của học sinh, nếu
thiếu có thể cho một học sinh khác bổ sung hoặc giáo viên trình bày cụ thể.
Nếu dạy những bài có các danh nhân, vị anh hùng dân tộc nên sơ lược
thân thế sự nghiệp, kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức.
Nội dung bài phải thật ngắn gọn cô động nhưng phải đảm bảo nội dung
cơ bản, cần nhấn mạnh ý chính của bài.
2.3.2. Giải pháp sử dụng giải quyết vấn đề
a. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học:
Trong thực tiễn dạy học, các tác phẩm văn học dân tộc cũng như thế giới
có vai trị to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trước hết các
tác phẩm văn học bằng những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến tư

tưởng, tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng điển hình của các hiện
tượng kinh tế, chính trị những qui luật của của đời sống xã hội. Trong khi sáng
tác một tác phẩm nhà văn phải nghiên cứu các tài liệu lịch sử, khơng ít tác phẩm
văn học tự nó là tư liệu lịch sử . Ví dụ như Cáo bình Ngơ của Nguyễn Trãi, Lục
Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh…

5


Trong việc giảng dạy, giáo viên thường sử dụng các loại tài liệu văn học
chủ yếu: văn học dân gian, các tác phẩm ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử,
truyện, tiểu thuyết, thơ….
Văn học dân gian ra đời sớm với nhiều thể loại như : thần thoại, truyền
thuyết, cổ tích dân ca, ca dao, tuyện trạng, truyện cười…. Đây là tài liệu phản
ánh nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Ví dụ như truyện Thánh
Gióng, qua câu chuyện ta xác định được những yếu tố hiện thực của lịch sử là
thời Hùng Vương thứ 6 (tương ứng với thời nhà Ân ở Trung Quốc), đồ sắt phát
triển với vũ khí cơng cụ dùng đều bằng sắt (nón sắt, giáp sắt, gậy sắt, ngựa sắt),
đồng thời nêu cao truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ
(cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn) hay Sơn Tinh – Thủy Tinh là biểu
tượng đồn kết, đồng lịng của dân tộc ta đắp đê chống bão, lũ lụt đặc trưng rất
rõ của cư dân trồng lúa nước của nhân dân ta trong buổi đầu lịch sử vừa dựng
nước và giữ nước.
TK XVI – XVIII, thể loại văn học dân gian phát triển, các tác phẩm đã
kích chế sự thối nát và lạc hậu của chế độ phong kiến đồng thời nói lên mơ ước
của người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn. Chẳng hạn như truyện “Trê Cóc”, một
câu chuyện ngụ ngơn chủ ý bày tỏ cái thói "tranh hơi tức khí" gây nên những
cuộc kiện tụng và chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái bọn thầy
cò. Ở truyện Trê Cóc cịn có ý nghĩa về ln lý, bởi tác giả đã phô bày lắm nét
hủ bại và nực cười ở xã hội xưa, chung quanh những vụ kiện tụng trước cửa

quan, người ta thấy trở đi trở lại những chữ “lo lót, lễ vật, lễ mọn, phí tổn”.
Chung quy thì chỉ người dân là phải chịu thiệt hại, thua cũng thiệt mà được cũng
thiệt. Cóc sù sì, thơ kệch giống như là những người dân chất phác hiền lành. Trê
nhẵn nhụi, trơn tru hay chui luồn, có thể tiêu biểu cho những người có nết láu
lĩnh, hay làm việc mờ ám...
Sử dụng tài liệu văn học dân gian, khơng chỉ góp phần làm cho bài giảng
sinh động, tạo được khơng khí gần gủi với bối cảnh lịch sử, sự kiện đang học mà
giáo viên tiến hành có thể đạt được kết quả giáo dục tư tưởng đạo đức nói chung
giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng
Các tác phẩm văn học vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử có ý nghĩa
đối với việc khơi phục hình ảnh q khứ. Khi nói cuộc sống khốn khổ của tầng
lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ XX dưới chế độ thực dân nửa phong kiến thì
phải kể đến tác phẩm “Tắt đèn” của Ngơ Tất Tố. Tác phẩm xoay quanh nhân vật
chính là chị Dậu và gia đình, một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu
cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã
vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương
thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực là việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả
bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn
trời đêm tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị.
Khi sử dụng tài liệu văn học phải đảm bảo tiêu chuẩn cơ bản là giá trị giáo
dục – giáo dưỡng và giá trị văn học, các tài liệu đó phải giúp học sinh khơi phục
lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện, nhân vật của quá khứ để phục vụ được

6


yêu cầu của nội dung bài học, phù hợp trình độ nhận thức của học sinh, khơng
làm lỗng nội dung bài học lịch sử.
b. Cách sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử lớp 11:
Đưa một đoạn thơ, một đoạn văn ngắn nhằm minh họa những sự kiện

đang học làm cho nội dung bài học thêm phong phú, giờ học thêm sinh động
Ví dụ 1: Khi dạy bài 19 “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống xâm
lược (từ năm 1858 đến trước năm 1873)” khi nói đến tình hình Việt Nam trước
khi thực dân Pháp xâm lược thì chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng kéo
theo khủng hoảng về kinh tế, xã hội như nông nghiệp sa sút, đất đai khai khẩn
được lại rơi vào tay địa chủ, dân phiêu tán khắp nơi. Giáo viên có thể trích một
bài vè nói về tình cảnh của nhân dân ở giai đoạn này:
Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng khơng
Đất trắng xóa ngồi đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Cịn một bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày.
(Vè dân gian – Cuộc nổi dậy Cao Bá Quát [11])
Trong khi phong trào chống Pháp diễn ra khắp nơi thì triều đình nhà Nguyễn
lại lần lược kí với Pháp từ hiệp ước Nhâm Tuất đến các hiệp ước Giáp Tuất, Hác
măng, pa-tơ-nốt làm cho nhân dân vơ cùng phẫn nộ, giáo viên có thể minh họa:
Tan nhà cám nổi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hịa
Gió bụi địi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nổi quan ta
(Cảm khái – Phan Văn Trị [15])
Ngày 17/2/1859, Pháp nổ súng đánh thành Gia Định, qn triều đình
nhanh chóng tan rã, Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại sự kiện bi thảm này qua bài
thơ “Chạy giặc”
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ tẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học, 1971 [14])
Khi Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đơng Nam Kì rồi chiếm ln 3 tỉnh
miền Tây Nam Kì, Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận đánh:
đánh chìm tàu Ét-pê-răng của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (10/12/1861), tiêu

7


diệt đồn kiên Giang (16/6/1868), ông đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen
ngợi qua 2 câu thơ sau [15]:
Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần
Hay giáo viên có thể lấy câu nói của Nguyễn Trung Trực khi ơng bị giặc
đem đi hành hình: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì khi hết người
Nam đánh Tây” [15] vừa là ý chí chống giặc của ơng cũng đồng thời là ý chí
chống giặc của tồn dân Việt Nam.
Cũng có thể sử dụng đoạn trích của Gosselin người Pháp nói về tinh thần
chiến đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc:
“Đứng trước vũ khí của chúng ta, những người An Nam chỉ có một
phương sách duy nhất là hi sinh cho sự bảo vệ các quyền tự do của họ. Họ đã
bình tĩnh đương đầu cái chết với một sự can đảm tột đỉnh và trong số rất đông
những người ngã xuống vì những viên đạn của các đơn vị hành hình hay dưới
làn gươm của các tên đao phủ, chúng tôi không bao giờ ghi nhận được một sự
yếu đuối nào” [15].
Ví dụ 2: Khi dạy bài 20 “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến
của nhân dân ta từ năm 1873 đến 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng”. Chiến thắng
tiêu biểu trong cuộc đấu tranh của quân dân Bắc Kì là chiến thắng Cầu Giấy lần

nhất (21/12/1873) và chiến thắng Cầu Giấy lần hai (19/5/1883), chiến thắng này
công lớn thuộc về đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, để khắc họa về tài cũng
như tinh thần chống Pháp của Lưu Vĩnh Phúc như sau:
Cung kiếm tài cao ít kẻ lường
Đáo để anh hùng lịng bất khuất
Về Tàu còn nguyện giết Tây dương.
(Lưu Vĩnh Phúc và trận Cầu giấy [15]).
Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân
không chỉ đánh Tây mà chống cả triều đình
Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây
( Ca giao kháng chiến chống Pháp - Định hướng việc dạy học lịch sử triều
Nguyễn [15])
Ví dụ 3: Khi dạy bài 22 “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ
nhất của thực dân Pháp”, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế cũng như xã hội Việt Nam có
nhiều chuyển biến, khi phân tích cuộc sống của người cơng nhân giáo viên có
thể nhấn mạnh bằng các nội dung sau:
Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủn beo
Hay:
Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân
(Mã Giang Lân, Tục ngữ và ca dao Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999 [13])

8


Vào đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư
sản, thực hiện phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới mà tiêu biểu là

Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, thành lập hội Duy Tân với chủ
trương đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, ngày 24/12/1913, Phan Bội Châu bị
giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam tại nhà tù Quảng Đông (Trung Quốc). Để
khắc họa hình ảnh Phan Bội Châu giáo viên trình bày nội dung ngắn gọn tác
phẩm “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội châu” của Nguyễn Ái Quốc:
“Trước khi Va-ren từ Pháp sang Đơng Dương nhận chức Tồn quyền y
hứa sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu. Khi gặp cụ Phan, Va-ren ra sức dụ dỗ,
thuyết phục, nhưng vẫn không mua chuộc được Phan Bội Châu, cụ Phan thì tỏ
thái độ im lặng, dửng dưng. Anh lính dõng thì quả quyết rằng có thấy đơi ngọn
râu mép của cụ Phan nhếch lên một chút. Nhân chứng thứ 2 lại quả quyết cụ
Phan đã nhổ vào mặt Va-ren” [3].
Phan Châu Trinh theo xu hướng cải cách với nội dung chủ yếu là cải cách
về văn hóa – xã hội gắn liền với giáo dục lịng u nước, mở trường Đơng Kinh
nghĩa thục tại Hà Nội, các buổi diễn thuyết bhay bình văn thu hút được nhiều
tầng lớp tham gia như có quan lại, binh lính, viên chức, nơng dân … một bài văn
thời đó đã viết:
Buổi diễn thuyết, người đơng như hội
Kì bình văn, khách đến như mưa
( Văn thơ Đơng kinh nghĩa thục – Nxb Thanh niên 1987 [12])
Ví dụ 4: Khi dạy bài 24 “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới
thứ nhất (1914 – 1918), phần buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc, từ rất sớm Người đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào.
Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ như Phân Bội Châu,
Phan Châu Trinh nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ nên quyết
định tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Người quyết định sang phương
Tây , đến nước Pháp để tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào,
rồi trở về giúp đồng bào mình. Giáo viên có thể lấy một đoạn trong bài thơ
“Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên [11] để nhấn mạnh ý này:
Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”

Khơng phải hình một bài thơ đã tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vơ hình sương khói xa xơi
Mà hình đất nước hoặc cịn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người
Ngoài ra tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi hoạt động
ngoại khóa cho mơn lịch sử và cách dễ thực hiện, đạt hiệu quả cao là đọc sách,
nhằm cung cấp thêm kiến thức và phát triển tư duy cho học sinh. Muốn đưa tài
liệu văn học vào dạy lịch sử trong hoạt động ngoại khóa có hiệu quả thì giáo

9


viên phải giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc, nêu một số tác phẩm truyện
hoặc thơ có liên quan để học sinh tìm dễ dàng. Giáo viên có thể khơi dậy tính
hiếu kì và lịng ham hiểu biết của học sinh bằng cách tóm tắt sơ lược nội dung
trong sách, kể một vài chi tiết, những đoạn nhỏ trong sách để kích thích học sinh
tiếp tục đọc để tìm hiểu
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
2.4.1. Kết quả
Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đạt được kết quả khả
quan, khi sử dụng một số câu thơ, câu văn, câu trích dẫn… minh họa cho một sự
kiện lịch sử, bài học lịch sử làm giờ học sinh động hơn, hấp dẫn học sinh hơn,
giờ học đạt hiệu quả cao. Trong dạy học dùng thơ văn cho học sinh có vai trị
tích cực, chủ động trong việc học tập, qua đó các em chủ động tìm những kiến
thức đã học để hiểu sâu, tồn diện một sự kiện lịch sử, đồng thời học sinh cịn ơn
tập, củng cố, tổng hợp kiến thức ở mức độ cao hơn. Kết quả khảo sát:
Giỏi

Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
11B
40
0
0
2
4 10.0
17 42.5
19
47.5
0
0
11B
42
0
0

4
3 7.1
19 45.2
20
47.6
0
0
2.4.2. Bài học kinh nghiệm
Hướng dẫn học sinh đọc và sưu tầm các loại tài liệu tham khảo là những
tác phẩm văn học cho phù hợp, giúp học sinh chọn, xác định những tác phẩm
nào phục vụ cho yêu cầu của dạy học lịch sử, tránh sử dụng những tác phẩm bịa
đặt ảnh hưởng xấu đến nhận thức lịch sử của học sinh.
Giáo viên lịch sử phải ln tìm tịi sáng tạo và đổi mới trong phương pháp
dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học
đẹp chính xác phù hợp với nội dung bài dạy.
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, thường xuyên nghiên cứu
thêm tài liệu tham khảo để cung cấp thêm thông tin và kiến thức ở mỗi bài học.
kết hợp các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan, hình ảnh,
tranh vẽ, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp.. để góp phần phát huy tính tích
cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Giáo viên phải biết hướng dẫn tổ chức cho học sinh tự mình khám phá
kiến thức mới, dạy cho học sinh khơng chỉ có kiến thức mà cả phương pháp học
trong đó, cốt lõi là tự học. Chính trong các hoạt động tự lực được giao cho từng
cá nhân hoặc nhóm nhỏ tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và
phát huy, Giáo viên phải biết luyện tập cho các em có thói quen nhìn nhận sự
kiện dưới những góc độ khác, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi lí giải một hiện
tượng. Biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử lí một tình huống. Phải
giáo dục cho học sinh khơng vội vã bằng lòng với giải pháp đầu tiên được nêu
ra, không suy nghĩ cứng nhắc theo những qui tắc đã học trước đó, khơng máy


10


móc áp dụng những mơ hình hành động đã gặp trong các bài học, trong sách vở
để ứng xử trước những tình huống mới.
Người giáo viên lịch sử cần bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ
khoa học chính xác, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự
chú của học sinh làm cho học sinh u thích mơn học.
3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận:
Tài liệu văn học được vận dụng trong các tiết dạy sẽ đạt được kết quả cao
nhất của học sinh về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, giúp học sinh
hứng thú học tập, lĩnh hội kiến thức nhanh và vận dụng một cách sáng tạo vào
thực tế. Giáo viên khơng chỉ đóng vai trị tổ chức, hướng dẫn để học sinh có cơ
hội tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức mà còn phải biết vận dụng vốn kiến thức đã
biết để hiểu kiến thức mới, có như vậy mới phát huy tính tích cực và chủ động
của học sinh trong học tập.
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tơi, phần lớn dựa vào tình hình
học tập của học sinh trường THPT Quảng Xương 2 nên khả năng áp dụng thực
tiễn khơng rộng rãi và chắc chắn có nhiều hạn chế, kính mong q thầy cơ đóng
góp ý kiến thêm. Tôi chân thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị:
Hiện nay trong nhà trường đã được cấp nhiều thiết bị dạy học tuy vậy đối
với mơn lịch sử thì đồ dùng cịn q ít, vì vậy muốn đạt kết quả cao trong bộ
mơn này cần có thêm những u cầu sau:
Cần có đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hóa, các chân
dung nhân vật lịch sử
Cần tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học
Nên có những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch
sử.

Cung cấp nhiều tư liệu để giảng dạy tốt phần lịch sử địa phương.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quảng Xương 2, ngày 02 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Ngọc Chí

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Huy Lê: Vấn đề truyền thống và cách mạng, trong cuốn “Về giá trị văn
hóa tinh thần Việt Nam, tập 1”. NXBThông tin lý luận, 1985.
2.Tìm hiểu hoạt động giáo dục truyền thống yêu nước, bảo vệ Tổ Quốc trong
lịch sử dân tộc. NXB quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
3. Sách giáo khoa, sách giáo viên, bài tập lịch sử 11– Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Tài liệu hội thảo tập huấn : Đổi mới nội dung và phương pháp dạy lịch sử
5. Hoạt động dạy học ở trường THPT – Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Phương pháp dạy học lịch sử của - Nhà xuất bản Giáo dục.
7. Phan Ngọc Liên(chủ biên): Phương pháp luận sử học. NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2000.
8. Đại cương lịch sử Việt Nam (tập II) Nhà xuất bản giáo dục.
9. Tinh Tuyển Văn học Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học xã hội.
10. Đại Việt Sử ký toàn thư - Tập 1. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
11. Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên. NXB giáo dục 1998

12. Văn thơ Đông kinh nghĩa thục – Nxb Thanh niên 1987
13. Mã Giang Lân, Tục ngữ và ca dao Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999
14. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học, 1971
15. Nguồn internet.

12



×