Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Đánh giá nhận thức và cơ hội tham gia giáo dục bảo tồn của người dân sống tại khu bảo tồn loài và sinh cảnh vọoc mũi hếch khau ca hà giang​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI
HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM

-----------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHÀI

“ĐÁNH GIÁ NHẬN THỨC VÀ CƠ HỘI THAM GIA GIÁO DỤC BẢO TỒN
CỦA NGƯỜI DÂN SỐNG TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI VÀ SINH CẢNH
VOỌC MŨI HẾCH KHAU CA – HÀ GIANG”

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI – 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI
HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM

-----------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHÀI

“ĐÁNH GIÁ NHẬN THỨC VÀ CƠ HỘI THAM GIA GIÁO DỤC BẢO
TỒN CỦA NGƯỜI DÂN SỐNG TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI VÀ SINH
CẢNH VOOC MŨI HẾCH KHAU CA – HÀ GIANG”

Chuyên ngành:
Mã số:

Quản lý bảo vệ rừng và môi trường


60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: TS.ĐỒNG THANH HẢI

HÀ NỘI – 2010


1

MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, vai trò của giáo dục môi trường ngày càng được
nhấn mạnh, đặc biệt trong phát triển bền vững. Nó được nhiều nước trên thế giới
thừa nhận và nhiều tài liệu quan trọng đề cập đến (Chiến lược bảo tồn thế giới, Báo
cáo của hội đồng Thế giới về môi trường và Phát triển, Chương trình nghị sự 21).
Theo đó, giáo dục mơi trường cung cấp cho người dân nhận thức, quan điểm về giá
trị, thái độ, kỹ năng cùng những hành vi cần thiết để phát triển bền vững, bảo tồn tài
nguyên nhiên nhiên và đa dạng sinh học.
Trong chiến lược bảo tồn đồng vật hoang dã nói chung và bảo tồn các lồi
động vật quý hiếm nói riêng, giáo dục bảo tồn nhằm làm gia tăng kiến thức và sự
tham gia sẽ giúp bảo tồn loài và sinh cảnh của chúng (Engels và Jacobson, 2007).
Voọc Mũi hếch (Rhinopithecus avunculus Dollman, 1912), là một trong 25
loài linh trưởng nguy cấp nhất trên thế giới [Mittermeier và cộng sự, 2007]. Kết quả
điều tra cho thấy Voọc mũi hếch có số lượng quần thể lớn nhất ở khu vực Khau Ca,
tỉnh Hà Giang với số lượng khoảng 90 cá thể, tạo cho Khau Ca trở thành một trong
những khu có giá trị bảo tồn cao và thu hút được nhiều sự quan tâm của các tổ chức
bảo tồn trong và ngoài nước [Dong Thanh Hai, 2007]. Nhiều hoạt động bảo tồn đã
được thiết lập tại Khu vực Khau Ca như thành lập Khu bảo tồn loài và sinh cảnh
Voọc Mũi hếch, các tổ đội tuần rừng và nghiên cứu lâu dài về sinh thái và tập tính
của lồi,... tuy nhiên bảo tồn lồi về lâu dài vẫn là một thách thức với các nhà bảo

tồn nếu thiếu sự tham gia của người dân địa phương.
Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voọc mũi hếch được bao quanh bởi 3 xã: Tùng
Bá, Yên Định và Minh Sơn. Theo số liệu thống kê tình hình dân sinh kinh tế năm
2004, có tới 34.9% số hộ trong ba xã nói trên nằm trong diện nghèo đói. Thu nhập
từ lâm nghiệp ước tính chiếm tỉ lệ 28% so với thu nhập từ nơng nghiệp [Nguyễn
Hùng Mạnh và Phạm Hồng Linh, 2005]. Các hoạt động có tác động xấu tới tài
nguyên rừng vẫn diễn ra trong khu bảo tồn, người dân vẫn còn khai thác gỗ làm
nhà, chăn thả gia súc, khai thác lâm sản ngoài gỗ, đặt bẫy trong rừng,...Những


2

hoạt động trên có tác động khơng nhỏ tới sinh cảnh sống của loài Voọc mũi hếch và
ảnh hưởng lớn tới việc phục hồi quần thể loài trong tương lai [Nguyễn Hùng Mạnh
và Phạm Hồng Linh, 2005].
Chính vì vậy, để bảo tồn lâu dài quần thể voọc mũi hếch nơi đây ngồi việc
tăng cường thực thi pháp luật, khuyến khích nghiên cứu cần nâng cao nhận thức cho
người dân và khuyến khích họ tham vào các hoạt động bảo tồn. Cho tới thời điểm
hiện tại, một số chương trình giáo dục bảo tồn đã được thực hiện ở đây bởi tổ chức
Bảo tồn động thực vật hoang dã FFI, tuy nhiên các chương trình này mới được thực
hiện ở qui mô nhỏ: xã Tùng Bá và đối tượng là học sinh trường tiểu học. Trong khi
đó các đối tượng tham gia vào các hoạt động gây tác động xấu đến khu bảo tồn nói
trên thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau và trải rộng trên cả 3 xã giáp ranh với khu bảo
tồn.
Như vậy, việc đánh giá nhu cầu bảo tồn của người dân thuộc các xã nói trên
làm cơ sở cho việc thiết kế và tiến hành các chương trình giáo dục bảo tồn là nhu
cầu cấp thiết đối với sự thành công của công tác bảo tồn Voọc mũi hếch tại Khau Ca
trong thời gian dài. Vì những lý do nêu trên, tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá
nhận thức và cơ hội tham gia giáo dục bảo tồn của người dân sống tại Khu bảo
tồn loài và sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca – Hà Giang”. Mục tiêu của đề tài là

đánh giá nhận thức của người dân của 3 xã giáp ranh với khu bảo tồn và các cơ hội
tham gia của người dân vào các hoạt động bảo tồn tại Khu bảo tồn loài và sinh cảnh
Khau Ca.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm
Khái niệm GDMT chính thức được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1972 tại
Hội nghị toàn cầu lần thứ nhất về Môi trường Nhân văn được tổ chức ở Stockholm
(Thụy Điển) (Matarasso, 2004). Từ đó cho đến nay có rất nhiều định nghĩa và khái
niệm liên quan đến cụm từ này, dưới đây là một số định nghĩa được sử dụng rộng
rãi.
-

Giáo dục mơi trường
“GDMT là q trình nhận ra các giá trị và làm rõ khái niệm để xây dựng

những kỹ năng và thái độ cần thiết, giúp hiểu biết và đánh giá đúng mối tương quan
giữa con người với nền văn hóa và mơi trường vật lý xung quanh, GDMT cũng tạo
cơ hội cho việc thực hành để ra quyết định và tự hình thành quy tắc ứng xử trước
những vấn đề liên quan đến chất lượng môi trường” (IUCN, 1970).
-

“GDMT là một quá trình phát triển những tình huống dạy/học hiệu quả

giúp người dạy và học tham gia giải quyết những vấn đề môi trường liên quan, đồng
thời tìm ra một lối sống có trách nhiệm và được thơng tin đầy đủ” (Wigley, 2000).

Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về GDMT, tất cả đều có một số đặc
điểm cơ bản sau:
+ GDMT là một quá trình diễn ra trong một khoảng thời gian, ở nhiều địa điểm
khác nhau, thông qua những kinh nghiệm khác nhau và bằng những phương thức
khác nhau.
+

GDMT nhằm thay đổi hành vi

+

Mơi trường học tập là chính mơi trường và những vấn đề có trong thực tế.

+

GDMT liên quan đến việc giải quyết vấn đề và ra quyết định về cách sống.

+ Trong GDMT, việc học phải tập trung vào người học và lấy hành động làm cơ sở.
- Cộng đồng


4

Cộng đồng nói chung thường được hiểu là những nhóm người, được tập hợp
dưới nhiều hình thức khác nhau như theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, theo huyết
thống, theo khu vực địa lý, theo hệ thống quyền lực, theo tổ chức đồn thể, theo sở
thích,… (Matarasso, 2004). Tuy nhiên, cộng đồng trong đề tài này được xem xét
như một đơn vị cấp địa phương của một tổ chức xã hội bao gồm các cá nhân, gia
đình, thể chế và các cấu trúc khác đóng góp cho cuộc sống hàng ngày của xã hội,
của một nhóm người trong một khu vực địa lý xác định, có thể được biến đổi bởi

quá trình vận động lịch sử (Matarasso, 2004).
Cho đến nay, cịn nhiều ý kiến về sự khác nhau giữa GDBT và giáo dục môi
trường (GDMT). Nhiều người cho rằng, GDBT và GDMT là 2 khái niệm tương
đồng với nhau, có thể thay khái niệm GDBT bằng GDMT và ngược lại. Trong
khuôn khổ đề tài, khái niệm GDBT được dùng để chỉ các hoạt động GDMT có sự
tham gia của cộng đồng dân địa phương nhằm thay đổi hành vi, hướng tới mục tiêu
bảo tồn (Matarasso và cộng sự, 2004). Tuy vậy, một chương trình GDBT khơng chỉ
dừng lại ở các hoạt động giáo dục như tập huấn nâng cao kỹ năng mà cịn có thể là
các chương trình truyền thơng nhằm cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức,…
hoặc các chương trình vận động chính sách nhằm xóa bỏ những trở ngại về mặt
chính sách đối với việc thực hiện các hành vi bảo tồn (cả hành vi tích cực hiện tại và
các hành vi bảo tồn mới).
Một chương trình GDBT cần làm rõ đâu là các hành vi gây ra các vấn đề bảo
tồn/môi trường. Nguyên nhân của các hành vi đó là gì? Do thiếu nhận thức, kiến
thức, kỹ năng, khơng có thái độ đúng đắn, thiếu lựa chọn hay bị cản trở bởi các yếu
tố kinh tế, tài chính?
Xuất phát từ những quan điểm trên đây, đề tài tiến hành đánh giá nhận thức
và thái độ của người dân với vấn đề bảo tồn tại địa phương, xác định những hoạt
động ảnh hưởng đến tài nguyên/môi trường của người dân, tìm ra những nguyên
nhân của những hành động đó, từ đó tìm hiểu những khó khăn và thuận lợi của
người dân khi tham gia công tác bảo tồn dựa vào cộng đồng bên cạnh những cơ hội
tiếp cận, làm cơ sở xây dựng những chương trình giáo dục bảo tồn sau này. Những


5

nội dung này của đề tài sẽ xuyên suốt quá trình tổng quan vấn đề nghiên cứu và
phương pháp nghiên cứu của đề tài.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Đánh giá nhận thức và thái độ của cộng đồng

Vào giữa các năm từ 1990 đến 1992, chương trình đánh giá nhận thức về sinh
học bảo tồn và thái độ đối với tự nhiên theo giới tính được thực hiện đối với 51
người. Nghiên cứu đã sử dụng 45 câu hỏi tình huống và sử dụng thang chia thái độ
của Kellerrt (1976, 1980, 1991), kết quả cho mỗi câu hỏi được xử lý bằng phương
pháp hồi quy bậc thang với độ tin cậy cao (R>0.7). Kết quả cho thấy, có sự khác
biệt trong nhận thức theo giới tính ở các bài kiểm tra đầu và cuối khóa học. Cụ thể,
nữ có nhận thức ban đầu tốt hơn về các vấn đề với tự nhiên, tuy nhiên nam có thay
đổi nhận thức nhanh hơn nữ. Vào cuối khóa học, khoảng cách về nhận thức theo
giới tính cũng được thu hẹp. Tuy nhiên, khóa học chưa chỉ ra được sự I khác biệt về
tuổi tác giữa hai giới trong nhận thức về sinh học và bảo tồn, điều này mở ra hướng
cho nghiên cứu cho các đề tài tiếp theo (Caro, Pelkey và Grigione; 1994).
Mức độ nhận thức theo giới tính của những người tham gia trong cộng đồng
về loài Sư tử vàng ở Tamarin, Braxin cũng được so sánh. Báo cáo của Engels và
Jacobson (2001) đã một lần nữa khẳng định nam giới có nhận thức cao hơn nữ giới
về lồi động vật quý hiếm này trong cả 2 nghiên cứu vào năm 1986 và 2001 với
cùng cộng đồng người. Theo các tác giả, có kết luận này là do nam giới có nhiều cơ
hội tiếp cận với các nguồn thơng tin về sinh học và bảo tồn nói chung và về lồi Sư
tử nói riêng hơn nữ giới.
Khác với kết quả nghiên cứu của Caro và cộng sự, Engels và Jacobson, Padua
(1994) chỉ ra trong nghiên cứu của mình rằng khơng có sự khác biệt trong nhận thức
bảo tồn giữa 2 giới tính nam và nữ. Kết quả được đưa ra sau khi tác giả sử dụng một
loạt các tiêu chuẩn thống kê qua 3 bài kiểm tra nằm trong một chương trình giáo
dục mơi trường ở Brazil. Đề tài sẽ kiểm chứng các kết quả này thông qua nghiên
cứu của mình cùng với những giải thích về sự khác nhau của các nhân tố ảnh
hưởng.


6

Khơng chỉ đánh giá nhận thức theo giới tính, đánh giá nhận thức theo dân tộc

hay nhóm cộng đồng thiểu số được thực hiện bởi Onon, Altantsetseg và Bayarkhuu
vào năm 2006. Các hộ gia đình thuộc 6 cộng đồng cư trú ở gần khu vực loài Báo
tuyết sinh sống được phỏng vấn và điền vào bảng câu hỏi về thái độ và hành vi liên
quan đến loài. Khảo sát đã sử dụng tổng hợp các phương pháp khác nhau như phỏng
vấn, đưa ra những câu hỏi trực tiếp, phân tích mơ tả và phân tích so sánh. Kết quả
cho thấy, khơng chỉ có sự khác biệt trong việc cạnh tranh về sinh cảnh sống mà còn
khác nhau về mức độ sử dụng các sản phẩm từ loài động vật này giữa các cộng
đồng người. Kết quả này có ý nghĩa quan trọng khi thiết kế các chương trình giáo
dục bảo tồn và nâng cao nhận thức phù hợp đối với từng cộng đồng dân cư.
Một nghiên cứu nữa đã được tiến hành nhằm đánh giá sự khác nhau về nhận
thức với sinh học và bảo tồn giữa 10 cộng đồng người sống gần vườn quốc gia ở
phía Đơng châu Phi. Đối tượng tham gia là người dân, học sinh và điều phối viên
chương trình bằng các cuộc khảo sát và phỏng vấn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra có sự
khác biệt về nhận thức giữa các nhóm đối tượng tham gia, tuy nhiên khơng có con
số định lượng cụ thể mà ở mức độ tổng quát. Nghiên cứu chú trọng vào việc đánh
giá những thành công và thách thức với chương trình giáo dục bảo tồn tại khu vực
này và nhấn mạnh các nhân tố hồn cảnh trong q trình tham gia bảo tồn của cộng
đồng (Johnson-Pynn và Johnson, 2005).
Sự khác nhau về nhận thức, thái độ và mức độ tiêu thụ các sản phẩm Rùa biển
giữa các làng được so sánh trong báo cáo của Rajakaruna, R.S. và cộng sự vào năm
2009. 600 người dân thuộc 6 làng ven biển Sri Lanka (nơi gần vùng cư trú và đẻ
trứng của Rùa biển) được phỏng vấn bằng bảng câu hỏi. Tác giả sử dụng phần mềm
Stata 8.2 để phân tích các câu hỏi thơng qua mơ hình hồi quy logistic, nhằm so sánh
3
biến tập hợp là kiến thức, thái độ và mức độ tiêu thụ các sản phẩm giữa các
làng.
Kết quả phân tích chỉ ra rằng, kiến thức và thái độ trong bảo tồn Rùa biển của người
dân các làng có rùa đến đẻ trứng cao hơn hẳn so với của người dân làng khơng có
rùa đến đẻ trứng. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, mức độ tiêu thụ các sản
phẩm từ rùa biển ở các làng này cũng ít hơn so với các làng khơng có rùa đến đẻ



7

trứng. Các số liệu về giới tính, nghề nghiệp, tuổi, trình độ học vấn, thời gian cư ngụ,
thu nhập và số thành viên trong gia đình cũng được thu thập, tuy nhiên không được
đem ra so sánh trong nghiên cứu mà chỉ dùng để giải thích kết quả về sự khác nhau
trong nhận thức, thái độ và mức độ tiêu thụ của người dân các làng.
Bên cạnh đánh giá nhận thức theo giới tính theo dân tộc và theo khu vực sinh
sống, Engels và Jacobson (1999) đã có chương trình đánh giá nhận thức của cộng
đồng theo điều kiện sống của người dân sống quanh sinh cảnh của loài Sư tử vàng ở
Tamarin, Braxin. 666 đối tượng được tham gia trả lời biểu câu hỏi phỏng vấn thuộc
các vùng sống khác nhau quanh khu bảo tồn Poco das Antas ở Rio de Janeiro (xác
định trong vịng bán kính 60km từ trung tâm của dự án). Kết quả nghiên cứu cho
thấy, những người sống ở những thị trấn lớn có hiểu biết và nhận thức cao hơn
những người sống ở những vùng nông thôn hay thị trấn nhỏ. Các tác giả cho rằng,
những người sống ở những thị trấn lớn có thu nhập cao hơn và có nhiều cơ hội tiếp
cận với các phương tiện thông tin đại chúng hơn những người sống ở những nơi
kém phát triển. Tuy nhiên, không có con số chính xác về mức độ phát triển trong
điều kiện sống như thu nhập, hay các chỉ số phát triển,… và các nghiên cứu tiếp
theo nên có thêm những thông tin này.
Nghề nghiệp của những người tham gia cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nhận
thức của người dân trong các vấn đề về sinh học và bảo tồn. Các cán bộ của Trung
tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường đã đánh giá nhận thức của cộng đồng
dân cư sống quanh khu vực Khau Ca (2001) với các nội dung như: nhận thức về
việc thành lập khu bảo tồn, nhận thức và thái độ với việc bảo vệ rừng và nhận thức
liên quan tới loài Voọc mũi hếch của cộng đồng dân địa phương. Các câu hỏi được
nêu ra về các vấn đề này và hỏi với người dân theo từng nhóm nghề nghiệp, sau đó
đánh giá nhận thức và thái độ thông qua tỷ lệ phần trăm. Kết quả cho thấy, chỉ có số
ít người được biết về khu bảo tồn và việc thành lập, những người này chủ yếu là cán

bộ, giáo viên trong làng, xã, là những người thường xuyên tham gia các cuộc họp ở
các cấp chính quyền. Thêm vào đó, kết quả về nhận thức đối với Voọc mũi hếch cho
thấy loài voọc này chỉ có ý nghĩa đối với các nhà bảo tồn, còn đối với người


8

dân làm nơng nghiệp ở đây nó chẳng hề có giá trị gì khi mà họ chưa được giáo dục
về tầm quan trọng của loài động vật quý hiếm này. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy,
nhận thức và thái độ của người nơng dân vẫn cịn rất thấp đối với các vấn đề bảo tồn
trong khu vực, tuy nhiên báo cáo cũng chưa nêu ra những lý do khiến nhận thức của
người dân ở mức độ thấp trong khi họ sống rất gần với khu vực được bảo vệ. Những
chương trình nghiên cứu tiếp theo nên chú trọng vào đối tượng là nơng dân và
những người ít có cơ hội tiếp cận với kiến thức bảo tồn. Hơn nữa, báo cáo này được
thực hiện từ 2001 nên chưa chắc đã cịn đúng trong thời điểm hiện tại, chính vì thế
cần có một nghiên cứu tiếp theo đánh giá nhận thức của người dân trong thời gian
hiện tại.
Nghiên cứu của Padua (1994) cũng chỉ ra có sự khác biệt về nhận thức theo
trình độ học vấn. Chương trình giáo dục môi trường diễn ra với 144 học sinh từ lớp
5 đến lớp 8, và sau khi phân tích các tiêu chuẩn thống kê, kết quả chỉ ra rằng, những
học sinh lớp 8 có điểm số cao nhất trong các bài kiểm tra. Tác giả giải thích rằng,
học sinh lớp 8 trưởng thành hơn, có kiến thức nhiều hơn do đó có thể dễ dàng hiểu
và trả lời các câu hỏi trong bài kiểm tra hơn.
1.2.2. Các hoạt động gây ảnh hưởng tốt đến tài nguyên thiên nhiên và nguyên
nhân
Theo khảo sát mới đây, Lacombe (2009) đã cho rằng, các hoạt động liên quan
đến sinh kế của người dân nhưng không làm ảnh hưởng đến tài nguyên trong khu
vực được bảo vệ là những hoạt động gây ảnh hưởng tốt. Cụ thể như việc trồng cây
keo, mỡ,…trong vườn rừng để phục vụ nhu cầu gỗ làm nhà và củi đốt cho các thế
hệ tương lai, giúp sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên và tránh tác động

bất lợi đến khu vực được bảo vệ của người dân sống quanh khu vực Khau Ca. Cũng
theo tác giả, người dân quanh khu vực Khau Ca đã bắt đầu trồng cỏ và sử dụng kiến
thức bản địa để tích trữ thức ăn cho gia súc khi khu chăn thả trở lên khan hiếm. Tác
giả đưa ra những hoạt động tác động tốt đến tài ngun thiên nhiên tuy nhiên vẫn
khơng có một tiêu chí cụ thể nào để đánh giá các hoạt động này.


9

Theo quan điểm của tổ chức Thiên nhiên và Con người (PanNature), các hoạt
động gây ảnh hưởng tốt đến tài ngun mơi trường là nhằm giữ gìn vệ sinh mơi
trường trong sạch và giảm thiểu ô nhiễm. Cụ thể, các hoạt động đó là: vận động các
hộ gia đình làm nhà vệ sinh hợp lý, đào hố rác và khơi thông cống rãnh, vệ sinh
đường thôn bản, vệ sinh bể nước công cộng, vận động vệ sinh ăn uống trong gia
đình, ủ phân hữu cơ vi sinh cho từng hộ gia đình. Theo PanNature, các hoạt động
này cần được duy trì lâu dài và thường xuyên nhằm bảo vệ các thành phần của mơi
trường. Cũng vì lý do này, người dân quanh khu vực Khau Ca đã được tham gia tập
huấn các hoạt động này nhằm bảo vệ môi trường xung quanh. Chương trình truyền
thơng của PanNature đã thu được những kết quả khả quan, tuy nhiên khơng có báo
cáo nào thực hiện sau khi chương trình kết thúc để biết rằng người dân cịn duy trì
những hoạt động như trên hay không.
1.2.3. Các hoạt động gây ảnh hưởng xấu đến tài nguyên thiên nhiên và nguyên
nhân
Đánh giá các hoạt động của cộng đồng đối với tài nguyên thiên nhiên là một
việc làm khơng dễ khi khơng hề có tiêu chuẩn để đánh giá chúng. Vào năm 2006,
các tác giả Onon, Altantsetseg và Bayarkhuu đã cho rằng, các hoạt động gây ảnh
hưởng xấu đến sự sinh trưởng và phát triển của lồi Báo tuyết tại Mơng Cổ bao
gồm: cạnh tranh về môi trường sống giữa các mùa, đặc biệt vào mùa xuân và mùa
hè; các hoạt động săn bắn trái phép loài động vật này; hoạt động sử dụng và tiêu thụ
các sản phẩm lông, da và các bộ phận khác của cơ thể Báo tuyết. Tuy nhiên, theo

nghiên cứu, vẫn còn nhiều hoạt động khác của người dân gây ảnh hưởng xấu đến
quần thể báo tuyết trong khu vực và cần được làm rõ ở những nghiên cứu tiếp theo.
Hiện hay, canh tác nương rẫy vẫn được coi là hành động gây suy thoái tài
nguyên thiên nhiên, cụ thể là tài nguyên đất và rừng. Tuy nhiên, Nguyễn Văn Dũng
và các cộng sự (2007) đã có báo cáo cho rằng canh tác nương rẫy khơng phải là
ngun nhân chính hay phải chịu trách nhiệm chính cho việc mất rừng và suy thối
đất, bản thân canh tác nương rẫy có những tác động môi trường phức tạp và đa
dạng. Không những thế, các tác giả còn khẳng định rằng, hoạt động canh tác nương


10

rẫy có một số tác động là tích cực và làm giàu có thêm đa dạng sinh học. Tuy nhiên,
báo cáo nên có những dẫn chứng cụ thể nhằm chứng minh khía cạnh tốt của hoạt
động canh tác nương rẫy.
Khi nói đến các hoạt động ảnh hưởng xấu đến tài nguyên môi trường, không
thể không kể đến hoạt động khai thác gỗ trái phép. Hoạt động này vẫn diễn ra khá
mạnh mẽ ở khu vực xã Tùng Bá, Vị Xuyên, Hà Giang (Báo cáo của Trung tâm
Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, 2001). Việc khai thác lúc đầu tập trung vào
những loại gỗ tốt và có giá trị kinh tế cao như lát, Pơ mu, nghiến,…Sau đó, khi
những lồi gỗ này trở nên khan hiếm, người dân địa phương tiếp tục khai thác gỗ
tạp với số lượng lớn, giai đoạn diễn ra hoạt động khai thác gỗ mạnh vào những năm
1990. Theo báo cáo, sở dĩ có việc khai thác trái phép mạnh mẽ như thế là do các
nguyên nhân sau: lợi nhuận quá cao, lực lượng kiểm lâm quá mỏng và có một số bất
cập trong việc giao đất, giao rừng của Chính phủ,…Các hoạt động gây ảnh hưởng
xấu đến tài ngun ở Tùng Bá khơng chỉ có hoạt động khai thác gỗ trái phép, tuy
nhiên không thấy nêu ra trong báo cáo.
1.2.4. Các cơ hội tham gia bảo tồn của cộng đồng
Người dân tham gia bảo tồn được tạo cơ hội tiếp cận với các phương pháp
giáo dục bảo tồn mang tính quốc tế kết hợp với các yếu tố địa phương. Điều này tạo

điều kiện cho người dân tiếp cận với các vấn đề môi trường ở địa phương một cách
thuận lợi, và thúc đẩy người dân tham gia các chương trình giáo dục bảo tồn một
cách tích cực. Báo cáo của Richard và Barbara (2001) cũng chỉ ra rằng, việc tạo cho
người dân cơ hội tiếp cận với kinh nghiệm bảo tồn trên thế giới sẽ đảm bảo chương
trình thành cơng hơn là việc Chính phủ và các công ty áp đặt các kế hoạch bảo tồn
mà khơng có sự tham gia của người dân. Kết quả cũng chỉ ra rằng, tất cả các
chương trình giáo dục bảo tồn nên lấy cộng đồng làm trung tâm cùng với những vấn
đề ngơn ngữ, văn hóa, lịch sử, … tại địa phương làm nền tảng cho việc thiết kế các
chương trình.
Việc người dân tiếp cận các kiến thức bảo tồn thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng như sách báo, ti vi,… cũng là một cách hữu ích giúp người dân


11

chủ động tiếp cận với công tác bảo tồn. Báo cáo của Engels và Jacobson (2007) đã
chỉ ra rằng, năm 2001 người dân tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, cụ thể, các
nguồn thơng tin đó là: thơng tin đại chúng, các tài liệu giáo dục, các hoạt động và từ
những người xung quanh hơn năm 1986 với cùng số người được hỏi. Tuy nhiên,
cách tiếp cận và hiệu quả tiếp cận có sự khác nhau giữa 2 giới và giữa 2 cộng đồng
dân cư sống ở thị trấn lớn và các làng nhỏ. Điều này tạo ra hướng tiếp theo cho các
nhà nghiên cứu khi tập trung các hoạt động giáo dục môi trường, các tài liệu và các
chương trình truyền thơng đại chúng để làm tăng sự tập trung vào nữ giới, làm cho
kiến thức môi trường của họ ngày càng tăng lên, đồng thời những chương trình tiếp
theo nên tạo nhiều cơ hội tiếp cận hơn cho những người dân sống ở những thị trấn
nhỏ, nghèo nàn hơn.
Một trong những cơ hội tiếp cận tốt nhất để cộng đồng tích cực tham gia vào
cơng tác bảo tồn đó là để họ tự tiếp cận với các nguồn thơng tin, từ đó tiếp nhận và
bổ sung vào tài liệu những thông tin họ cho là cần thiết. Brewer (2002) đã cho rằng,
sự tham gia nên được khuyến khích và trông đợi để thêm vào những câu hỏi, lựa

chọn những thơng tin có giá trị và giới thiệu những kết quả của họ cho những người
khác kể cả các nhà khoa học, bên cạnh đó việc cộng tác với giáo viên và các chuyên
gia giúp họ trau dồi rất nhiều về kiến thức chun mơn trong q trình dự án diễn ra
và ngay cả trong những hoạt động sau khi dự án kết thúc. Đây là phương pháp tiếp
cận rất chủ động và hiệu quả của cộng đồng trong việc tham gia các hoạt động bảo
tồn.
Một nghiên cứu đã chứng minh rằng, cơ hội tiếp cận của cộng đồng với giáo
dục bảo tồn khơng chỉ đến từ chính quyền địa phương hay các nhà bảo tồn mà còn
đến từ những học sinh là con cái của họ được học về giáo dục bảo tồn trong trường
học. Nghiên cứu này của Vaughan, Gack, Solorazano và Ray, (2005) đã được tiến
hành về sự học tập, trao đổi của các thế hệ trong cộng đồng, cụ thể bao gồm các học
sinh, bố mẹ của chúng và các thành viên trong cộng đồng. Giả thuyết được các nhà
khoa học đặt ra rằng: các học sinh được học và nhớ được các yếu tố cơ bản về bảo
tồn trong môi trường trường học và truyền đạt lại với bố mẹ của chúng. Kết quả chỉ


12

ra rằng bố mẹ học từ những đứa con và cả 2 nhóm này thường xun trao đổi thơng
tin với nhau và gợi ý rằng các chương trình giáo dục môi trường được thiết kế và
tiến hành cho trẻ em có thể cho phép bố mẹ và các thành viên cộng đồng học và nhớ
được các thông tin (Vaughan, Gack, Solorazano và Ray, 2005).
Một vấn đề không thể không nhắc đến khi nói về cơ hội tiếp cận của cộng
đồng với giáo dục bảo tồn đó là những thách thức và cơ hội của cộng đồng trong
việc tham gia các hoạt động bảo tồn. Decker, Raik, Carpenter, Organ và Schusler
(2005) đã có bài viết thảo luận về những thách thức và cơ hội trong quản lý động
vật hoang dã ở địa phương, mức độ quan tâm của cộng đồng trong sự hợp tác với
quản lý động vật hoang dã. Kết quả làm nổi bật vai trò của các nhà quản lý, các cơ
quan chức năng trong việc tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia các vấn đề bảo tồn
thông qua việc cung cấp thơng tin và các tiến trình cần thiết để sự tham gia có hiệu

quả hơn. Đây cũng là mức độ cần thiết của sự hợp tác: cộng đồng - cơ quan quản lý
động vật hoang dã. Cơ hội này cho các nhà bảo tồn động vật hoang dã đảm bảo làm
hài hồ lợi ích lâu dài của cộng đồng và lợi ích của việc quản lý động vật hoang dã.
Các nhà quản lý động vật hoang dã cần được chỉ dẫn khi đưa ra các quyết định với
việc quản lý động vật hoang dã trên cơ sở cộng đồng.
Những khó khăn và thách thức của các chương trình giáo dục bảo tồn ảnh
hưởng rất nhiều đến cơ hội tiếp cận của người dân và sự thành cơng của các chương
trình này. Norris và Jacobson (1998) tổng kết trong báo cáo đánh giá sự thành công
và thất bại của 56 chương trình giáo dục bảo tồn. Sau khi sử dụng một loạt các mục
tiêu về phân tích ngôn ngữ, phân loại và khảo sát hệ thống, các nhân tố được cho là
có thể ảnh hưởng đến sự thành cơng của chương trình là: vùng địa lý nơi mà chương
trình diễn ra, nguồn tài trợ chương trình, thời gian chương trình bắt đầu đến khi kết
thúc, các loại ấn phẩm diễn đạt kết quả và các phương pháp đánh giá. Tuổi thọ của
chương trình chính là một yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự thành công của chương
trình, và gợi ý rằng đây là một yếu tố cần thiết khi đánh giá sự thành công và giá trị
của chương trình giáo dục bảo tồn. Những thuộc tính của chương trình như địa
điểm, người đỡ đầu, dạng ấn phẩm để xuất bản kết quả đã không liên quan


13

tới sự thành cơng của chương trình. Những thách thức khiến các chương trình
khơng thành cơng như mong đợi là do chúng ít có tác động hoặc khơng có kỹ thuật
trong việc thay đổi mục tiêu bảo tồn, hầu hết các báo cáo đều khơng có thơng tin về
biện pháp kỹ thuật đánh giá trước, trong và sau chương trình.
Việc nâng cao các cơ hội giáo dục bảo tồn ở các khu bảo tồn thiên nhiên ở
vùng nhiệt đới, cụ thể là ở Belize được Rome và Romero (1998) nghiên cứu. Đối
tượng giáo dục của chương trình là các sinh viên và các khách thăm quan của khu
bảo tồn. Những vị khách đến thăm quan khu bảo tồn và có cơ hội được tiếp cận với
các hình thức giáo dục bảo tồn từ những nhà giáo dục bảo tồn trẻ và không chuyên

nghiệp. Kết quả chỉ ra rằng, những người tham gia rất thích thú với hướng tiếp cận
mới này hiệu quả nhận thức bảo tồn tăng lên rõ rệt. Các khu bảo tồn khác có thể cân
nhắc các chương trình đơn giản để nâng cao chất lượng các chương trình giáo dục
bảo tồn. Nghiên cứu này mở ra một hướng đi mới cho công tác giáo dục bảo tồn tại
các khu bảo tồn, với những đối tượng khác nhau nhưng vẫn đạt những hiệu quả nhất
định.
Trong nhiều trường hợp, cách tiếp cận của các nhà khoa học, các nhà giáo dục
bảo tồn vẫn là những yếu tố quyết định đến sự thành cơng của chương trình.
Jacobson (1991) đã có báo cáo về việc đánh giá mơ hình phát triển, phương tiện và
kết quả của các chương trình giáo dục bảo tồn ở Costa Rica và Belize. Theo bà, một
trong những yếu tố giúp các nhà bảo tồn có hướng tiếp cận đúng đắn với cộng đồng
địa phương trong các chương trình giáo dục bảo tồn đó là xây dựng và phân tích các
báo cáo đánh giá chương trình. Kết quả cho rằng, việc phân tích báo cáo như một tài
liệu tổng hợp giúp các nhà bảo tồn đưa ra những chương trình thích hợp nhất với
người tham gia và cung cấp kinh nghiệm giúp các chương trình thành cơng.


14

Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN SINH KINH TẾ XÃ HỘI
CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1.

Điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu

2.1.1. Lý do lựa chọn khu vực nghiên cứu
Đề tài lựa chọn khu vực nghiên cứu bao gồm: 2 xã thuộc huyện Bắc Mê là Yên
Định và Minh Sơn và 1 xã thuộc huyện Vỵ Xuyên là Tùng Bá, vì những lý do sau
đây:

Trong số các khu vực xuất hiện Voọc mũi hếch, khu vực Khau Ca được cho
là có
số lượng quần thể lồi lớn nhất
- Người dân quanh KBT vẫn cịn những tác động xấu đến khu vực được bảo vệ như
khai thác gỗ và các lâm sản phụ, thậm chí săn bắn trong Khu bảo tồn.
-

Khoảng cách từ nơi sinh sống của người dân đến KBT là khá gần

Chưa có một chương trình giáo dục bảo tồn nào giành cho người dân 3 xã
nói trên
về Voọc mũi hếch và Khu bảo tồn Khau Ca
- Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca mới được thành lập cách
đây không lâu, không nhiều người biết về sự thành lập này.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần thiết kế những chương trình giáo dục
bảo tồn phù hợp và cần thiết với tất cả người dân sống tại KBT.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế xã hội của khu vực nghiên cứu
3 xã thuộc khu vực nghiên cứu của đề tài liền kề nhau và bao trùm khu bảo tồn
Khau Ca và được gọi chung là khu vực Khau Ca. Vì vậy đề tài lấy điều kiện tự
nhiên và dân sinh kinh tế xã hội của khu vực Khau Ca là các điều kiện của khu vực
nghiên cứu.
2.1.2.1. Điều kiện tự nhiên
• Vị trí địa lý


Khau Ca là khu vực núi đá, với diện tích 2024 ha, trong đó diện tích vùng lõi
khoảng 1000 ha, cách thị xã Hà Giang khoảng 15 - 20 km về phía Đơng và cách Hà


15


Nội 300km về phía Bắc. Khu vực Khau Ca nằm trọn trong địa giới hành chính của 3
xã: Yên Định và Minh Sơn (huyện Bắc Mê) và Tùng Bá (huyện Vỵ Xun) của tỉnh
Hà Giang. Trong đó: Phía Bắc thuộc xã Tùng Bá Phía
Nam thuộc xã n Định
Phía Đơng thuộc xã Minh Sơn
Phía Tây thuộc xã Tùng Bá và Yên Định

Hình 2.1: Sơ đồ KBT Khau Ca
• Địa hình
Theo tài liệu địa chất, khu vực Khau Ca là khu vực núi đá vơi điển hình. Địa
hình của khu vực bị chia cắt mạnh với nhiều thung lũng sâu và hẹp. Đỉnh núi cao
nhất của khu vực là Đỉnh Cột mốc, cao 1339.9m so với mực nước biển. Độ cao
giảm dần theo hướng Tây – Tây Bắc và Đông Bắc, thấp nhất 466m so với mực nước
o

biển (trung tâm xã Tùng Bá). Độ dốc trung bình là 30 .
Phía Bắc được bao bọc bởi vách đá dựng đứng đóng vai trị như bìa rừng và
hàng rào di chuyển của các lồi khơng biết bay. Ngoại trừ vách đá này, cịn lại địa
hình thấp hơn và ít hiểm trở hơn, đất đai ổn định và màu mỡ là nơi làm nông nghiệp
tập trung của cộng đồng địa phương.


16

• Địa chất và thổ nhưỡng
Khu vực Khau Ca nằm trong vùng có kiến tạo địa chất thuộc kỷ Đệ Tam,
dưới tác động của nhiệt độ, nước, sinh vật và áp suất cùng với sự vận động của vỏ
Trái đất, các sản phẩm phong hóa chia thành 2 dạng đá trầm tích sau:
-


Trầm tích hóa học: Đá phylit – phân bố rải rác, diện tích nhỏ

Trầm tích cơ học: Đá sa thạch – chiếm tỷ lệ lớn về diện tích >85%, đất hình
thành
từ đá sa thạch giàu dinh dưỡng, tơi xốp và thoát nước.
Rừng Khau Ca nằm trên núi đá vôi giữa các thôn bản và đất nông nghiệp
ngắt quãng bởi các mô đất và núi. Xã Tùng Bá (kéo dài từ phía Bắc) có hàng loạt
hang động và núi đá vơi. Hang động chứa nhiều lồi động vật ưa tối, thực vật bậc
thấp và trầm tích cần được bảo tồn và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà sinh vật
học.
Giá trị sau cùng (theo chính quyền là cần phải điều tra kĩ hơn) là giá trị về
văn hoá của các hang động ở đây. Các hang động đang bị tác động của người dân
địa phương, do vậy cần phải có các chương trình giáo dục về giá trị của hang động
đối với cộng đồng địa phương.
• Khí hậu và thủy văn
Khu bảo tồn nằm trong vùng cận nhiệt đới phía Bắc Việt Nam. Đặc điểm của
vùng này là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa hè có gió Nam và Đông Nam, kéo dài
từ tháng 4 đến tháng 9. Mùa đơng có gió mùa Đơng Bắc thường kéo dài từ tháng 10
đến tháng 3 năm sau. Tổng lượng mưa trung bình vào khoảng 2300mm/năm. Hầu
hết lượng mưa tập trung vào tháng 6, tháng 7 và tháng 8, và thường xảy ra lũ lụt.
Nhiệt độ trung bình năm là khoảng 23,3 C. Tháng 10 và 12 có độ ẩm trung
bình thấp nhất (35,5%), tháng 2 và 3 có độ ẩm trung bình cao nhất (87 đến 100%).
Mùa khơ (lượng mưa <100mm/tháng) kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3, mùa mưa từ
tháng 4 đến tháng 9 (lượng mưa ≥100 mm/tháng) (Covert và cộng sự, 2008). Nhiệt
o

độ trung bình năm là 19.8 C. Mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 4. Vào các tháng 12,
Giêng và Hai, nhiệt độ trung bình 15 C. Nhiệt độ đo được thấp nhất của vùng là - 3
C vào tháng Giêng. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 9, nhiệt độ trung bình 24,2 C.



17

Khu vực là vùng rừng trên núi đá vôi biệt lập, khơng có các sơng suối nước
chảy thường xun do diện tích rừng nhỏ và địa hình đá vơi nhấp nhô hiểm trở. Khu
rừng thuộc đầu nguồn sông Lô chảy vào sơng Gâm gần thị xã Tun Quang từ đó
chảy vào sơng Hồng tại thành phố Việt Trì.
2.1.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội
*

Tổng quát
Phần này tổng hợp các thông tin về điều kiện kinh tế - xã hội và tình hình sử

dụng tài nguyên bên trong và tiếp giáp khu bảo tồn dựa trên những đánh giá về sử
dụng tài nguyên năm 2006 (Nguyễn Hùng Mạnh và Phạm Hoàng Linh, 2006) và kết
quả lập bản đồ sử dụng đất có sự tham gia của người dân tháng 4 – 2008 (Trần
Phùng, 2008).
Báo cáo đánh giá sử dụng tài nguyên được thực hiện tại 16 thôn bản thuộc 3
xã xung quanh khu bảo tồn dự kiến với tổng số 1.791 hộ gia đình và 9.667 nhân
khẩu. Người Tày với 7.503 nhân khẩu chiếm đa số, tiếp sau là người Dao 1.470
nhân khẩu và người Mông 640 nhân khẩu. Tổng diện tích đất nơng nghiệp 784 ha
và diện tích rừng 833 ha.
* Thu nhập tiền mặt
Theo đánh giá sử dụng tài ngun, khơng có thơn bản nào có thu nhập nơng
nghiệp trên 200.000VND/người/tháng – mức để xếp hạng người nghèo (Theo Quyết
định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về
việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010), nhưng chỉ có 34,9%
hộ được coi là nghèo. Do người dân địa phương lấy nguồn thu nhập từ nông nghiệp
và tài nguyên rừng nên một số gia đình nghèo cho rằng phần lớn thu nhập của họ là

từ rừng.
Theo số liệu tính tốn dựa vào câu hỏi ở 16 hộ gia đình, thu nhập trung bình
của các hộ khá giả là 14,8 triệu đồng/năm, hộ trung bình là 8,7 triệu đồng/năm, và
hộ nghèo khoảng 3 triệu đồng/năm. Khai thác rừng mang lại nguồn thu nhập đáng
kể cho những hộ nghèo cho dù gỗ thường được lấy từ ngoài vùng lõi của rừng Khau
Ca. Xét trên lĩnh vực tổng thu nhập tiền mặt, khoản thu nhập từ chăn nuôi gia súc và


18

dịch vụ đóng vai trị quan trọng nhất đối với các hộ khá giả. Các hộ khá giả làm chủ
những trang trại (tương đối) lớn nhất ở đây. Do đó, khả năng chăn nuôi gia súc phụ
thuộc (một phần) vào lượng cỏ khô từ trồng trọt và làm cho khu vực này càng giàu
có hơn và năng suất nơng nghiệp ngày càng cao hơn. Hơn nữa, một số gia đình khá
giả cũng kinh doanh các cửa hàng nhỏ trong thôn và chưng cất rượu để bán trong
vùng và bán cho Thị xã Hà Giang (Trang Chí Trung và cộng sự, 2006).
Nhìn chung, sự phân bố thu nhập tiền mặt của các hộ gia đình cho thấy người
dân ở đây có phần phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên ở các mức độ khác nhau.
Có khả năng thu nhập thực tế từ việc đốn gỗ và khai thác lâm sản phi gỗ cao hơn
thu nhập tính tốn trong báo cáo này do các sai sót khi lấy các hộ điển hình. Tuy
nhiên, rõ ràng các hộ nghèo (hơn) và trung bình dành hầu hết thời gian để khai thác
lâm sản. Điều này cũng cho thấy những thanh niên và những người đàn ông thường
vào rừng đốn gỗ sẽ không đủ thời gian để chăm sóc vụ mùa của mình. Do đó, năng
suất vụ mùa sẽ rất thấp (Trang Chí Trung và cộng sự, 2006). Điều này sẽ dẫn đến
việc thiếu hụt lương thực và nhu cầu tiếp tục tìm kiếm tài ngun rừng để bán đi lấy
tiền/lương thực.
• Sản xuất nơng nghiệp: Người dân địa phương thu nhập chủ yếu từ các hoạt động
trồng trọt, bao gồm lúa, ngô và các loại hoa màu khác, và chăn ni trâu, bị, lợn,
gia cầm và các loại vật nuôi khác.
Hoạt động sản xuất nơng nghiệp trong khu vực cịn gặp nhiều khó khăn và

phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên: địa hình đồi núi dốc, thời tiết khí hậu khắc
nghiệt. Kỹ thuật canh tác của dân địa phương còn thấp. Bên cạnh đó, cơng tác
phịng chống dịch bệnh và dịch hại ở vật ni, cây trồng cịn nhiều hạn chế. Chỉ
trong năm 2005, 16 thôn trên đã thiệt hại trên 1 tỷ đồng do dịch bệnh ở gia súc, gia
cầm, sạt lở đất gây mất diện tích đất trồng lúa (Nguyễn Hùng Mạnh và Phạm Hồng
Linh, 2006).
• Sản xuất lâm nghiệp:
Sản xuất lâm nghiệp trong khu vực còn chưa được chú ý. Công tác giao đất,
giao rừng đã được triển khai nhưng hiệu quả cịn chưa rõ ràng, hiện chỉ có 832,6 ha


19

đất lâm nghiệp đã được giao khoán cho các hộ gia đình, trung bình 2,8 ha/hộ gia
đình, nhưng phân bố không đồng đều tại các thôn bản (Nguyễn Hùng Mạnh và
Phạm Hoàng Linh, 2006). Thu nhập từ nghề rừng của người dân chỉ bằng 12% so
với tổng thu nhập từ nông nghiệp. Hầu như thu nhập từ rừng là không bền vững,
bao gồm cả khai thác gỗ bán, khai thác gỗ củi và lâm sản ngồi gỗ khác. • Cơ sở hạ
tầng
Tất cả các thơn bản đều có đường dân sinh đến được trung tâm thơn. Một số
thơn bản có hệ thống đường liên thơn đã được bê tơng hóa, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đi lại trong khu vực (như tại các thôn bản của xã Tùng Bá). Tuy nhiên, tại 2
thơn Khuẩy Lịa và Phia Đeng của xã Minh Sơn, do nằm ở khu vực có địa hình cao
và dốc nên đường giao thơng đến 2 bản này cịn hết sức khó khăn. Tất cả 3 xã đều
có chợ, tuy nhiên đều họp theo phiên, từ 7 – 10 ngày/phiên tùy theo xã.
Tất cả các thôn, bản đều có điện, tuy nhiên khơng phải đều là điện lưới quốc
gia. Một số thôn tự tạo ra nguồn điện từ năng lượng của các dịng nước chảy trong
thơn hoặc từ máy phát điện (thôn Phia Đeng của xã Minh Sơn).
Thơng tin, liên lạc của khu vực cịn rất hạn chế. Tại mỗi xã, chỉ có 1 trạm
bưu điện – văn hóa xã, đây là trung tâm liên lạc thơng tin và văn hóa chính của dân

cư trong vùng.
Mỗi xã đều có 1 trạm y tế đặt tại khu vực trung tâm xã. Cơ sở hạ tầng (nhà,
trạm), trang thiết bị và thuốc men đã được đầu tư nhiều nhưng vẫn còn thiếu thốn so
với nhu cầu khám chữa bệnh của người dân địa phương.
Các xã đều có trường trung học cơ sở và tiểu học, ở mỗi thôn cũng có các lớp
tiểu học và mầm non. Đại đa số dân địa phương đã được xóa mù chữ, trẻ em được
đi học đầy đủ. Tuy nhiên, tại một số thôn của cả 3 xã, một bộ phận không nhỏ số
người lớn khơng nói được tiếng Kinh.


20

Chương 3
ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Người dân từ 18 tuổi trở lên, sống tại các thôn gần hoặc giáp ranh với Khu
bảo tồn Loài & Sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca, thuộc 3 xã Minh Sơn, Yên Định
(huyện Bắc Mê) và Tùng Bá (huyện Vỵ Xuyên).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Người dân sống tại 8 thôn, bản thuộc 3 xã quanh KBT Khau
Ca, cụ
thể:
+
Thôn Phia Đeng và Khuẩy Lịa thuộc xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà
Giang
+


Thơn Bản Loan, Bản Bó và Nà Yến thuộc xã Yên Định, huyện Bắc Mê, tỉnh


+ Thôn Tin Tốc, Hồng Minh và Nà Lòa thuộc xã Tùng Bá, huyện Vỵ Xuyên, tỉnh
Hà Giang
- Thời gian:
Thời gian
Từ 26/12/2009 – 15/01/2010
Từ 28/02/2010 – 13/03/2010
Từ 15/03/2010 – 30/09/2010

Đề tài tiến hành trong thời gian từ tháng 12/2009 đến tháng 9/2010
3.3. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá nhận thức của người dân tại 3 xã giáp ranh với khu bảo tồn và cơ
hội tiếp cận của người dân địa phương với các chương trình giáo dục bảo tồn, góp
phần bảo tồn lồi Voọc Mũi hếch ở Khau Ca nói riêng và ở Việt Nam nói chung.


21

3.4. Nội dung nghiên cứu
3.4.1. Đánh giá nhận thức và thái độ của người dân đối với các vấn đề bảo tồn
tài nguyên thiên nhiên trong khu vực nghiên cứu
3.4.2. Các hoạt động gây ảnh hưởng tốt đến tài nguyên môi trường trong khu vực
và nguyên nhân
3.4.3. Các hoạt động gây ảnh hưởng xấu đến tài nguyên môi trường trong khu
vực và nguyên nhân
3.4.4. Các cơ hội tham gia bảo tồn và giáo dục bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
của cộng đồng
3.4.5. Đề xuất nâng cao hiệu quả chương trình giáo dục bảo tồn cho người dân
địa phương trong tương lai.
3.5. Phương pháp nghiên cứu
3.5.1. Phương pháp PRA

Để thực hiện được các nội dung nghiên cứu của đề tài, tôi đã sử dụng
phương pháp Đánh giá nhanh nơng thơn có sự tham gia (Parcipatory Rapid/Rural
Assessment – PRA), với 2 thanh công cụ phổ biến là phỏng vấn bán cấu trúc và
phỏng vấn cấu trúc.
3.5.1.1. Phỏng vấn bán cấu trúc
Đề tài đã tiến hành 25 cuộc phỏng vấn bán cấu trúc với các đối tượng là
người dân và chính quyền địa phương (cấp thơn, bản và một số ít là cấp xã) nhằm
thu thập những thông tin về tài nguyên thiên nhiên xung quanh khu vực họ sinh
sống, xác định nhận thức với các vấn đề bảo tồn tại địa phương và công tác thực thi
pháp luật. Tuy nhiên, những kết quả thu được từ phỏng vấn bán cấu trúc chỉ được sử
dụng để hỗ trợ những kết quả của phỏng vấn cấu trúc, cơng cụ chính được tác giả sử
dụng trong nghiên cứu này.
Đối tượng phỏng vấn là người dân địa phương và được lựa chọn sao cho
có sự khác nhau về lứa tuổi, thu nhập hàng năm, địa vị xã hội và giới tính.


22

Các câu hỏi phỏng vấn được đề tài thiết kế với tiêu chí đơn giản và dễ
hiểu. Ngồi ra, để khai thác tối đa những thông tin từ người dân, đề tài chuẩn bị
thành một bộ câu hỏi để giải quyết từng nội dung cụ thể (chi tiết nội dung của bộ
câu hỏi được trình bày tại phụ lục 04). Một số các nội dung chính trong phỏng vấn
bán cấu trúc như sau:
1.
Hiểu biết của người dân về Khu bảo tồn như ranh giới KBT, khoảng cách
từ nơi
sinh sống tới ranh giới KBT, năm thành lập KBT, tầm quan trọng của việc thành lập
KBT và tình trạng lồi Voọc mũi hếch trong KBT.
2. Tìm hiểu ảnh hưởng của các hoạt động sinh kế của người dân địa phương đến đa
dạng sinh học trong KBT. Các hoạt động được xem xét bao gồm: hoạt động chăn

thả gia súc trong gia đình thường diễn ra ở đâu, có đủ thức ăn cho chúng trong
tương lai hay khơng và nếu khơng thì giải pháp cho vấn đề này của người dân là gì,
hoạt động lấy củi phục vụ nhu cầu hàng ngày diễn ra ở đâu và như thế nào …
3. Xác định những khó khăn của người dân địa phương trong các hoạt động sinh kế
bên trên cũng như tìm hiểu nguyện vọng của họ trong việc cải thiện sinh kế.
Phỏng vấn được tiến hành tại nhà dân. Thời gian mỗi cuộc phỏng vấn kéo dài
khoảng 1 giờ. Số lượng người cho một cuộc phỏng vấn khoảng 3 – 5 người. Những
thông tin trong các cuộc phỏng vấn được ghi lại một cách chi tiết bằng tay vào sổ
ngoại nghiệp ngay trong thời gian phỏng vấn và được bổ sung sau khi cuộc phỏng
vấn kết thúc.
3.5.2.2. Phỏng vấn cấu trúc
Để đánh giá nhận thức, thái độ của người dân xung quanh KBT, đề tài đã
tiến hành phỏng vấn 90 người dân bằng phiếu câu hỏi phỏng vấn cấu trúc. Kết quả
của các cuộc phỏng vẫn này được sử dụng cho việc phân tích chính và đưa ra các
kết luận của đề tài.
Đối tượng phỏng vấn trong phương pháp này rộng hơn so với phương pháp
phỏng vấn bán cấu trúc. Những người được lựa chọn phỏng vấn bao gồm người dân
thuộc 3 xã với đủ các ngành nghề như nông dân, cán bộ hành chính, nhân viên cơng
ty và tiểu thương và những đối tượng khác. Trong các đối tượng tham gia phỏng


×