Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

THUYET MINH VE CAC DANH LAM THANG CANH HAY LOP 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.58 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Bãi biển Tân Định thuộc xã Đức Thắng, huyện Mộ Đức, cách tỉnh lị Quảng
Ngãi khoảng 20 km về hướng đông nam. Nơi đây hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi
cho việc xây dựng khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, văn hóa lý tưởng. Thế
nhưng nhiều năm qua, bãi biển này vẫn còn nguyên nét hoang sơ, chưa được đầu
tư khai thác phục vụ nhu cầu khách tham quan, du lịch.


Biển ở đây có bãi cát trắng mịn, bằng phẳng và rất sạch sẽ. Vào mùa hè nước
biển trong xanh, diệu êm, với những con sóng nhỏ chạy lăn tăn dội vào bờ trông
thật đáng yêu. Dọc theo bờ biển là khu rừng dương xanh ngút ngàn, có từ những
năm mới thành lập Đảng. Trong chiến tranh, rừng phi lao là căn cứ địa cách
mạng, nơi che giấu cán bộ, bộ đội và nhân dân ta. Hiện nay những rặng cây
xanh này là nơi dừng chân nghỉ mát, cắm trại, du lịch của khách thập phương.
Đến với biển Tân Định, nơi non xanh nước biếc hữu tình, chúng ta được đắm
mình trong thế giới yên tĩnh, dịu êm của biển cả, nghe từng cơn gió mát lạnh
phả vào da thịt. Trong phút giây ngẫu hứng, bạn cũng có thể với đơi chân trần
chạy dọc dài trên bãi cát trắng, bắt những chú cịng gió, sau đó dùng lá phi lao
khơ có sẵn để nướng lên làm thức ăn, mồi nhậu.


Đứng ở phía bờ biển phóng tầm mắt nhìn về hướng tây, khách tham quan sẽ bắt
gặp một dãy núi, đó là núi Long Phụng, nằm trong quần thể khu du lịch. Núi có
độ cao khoảng 70 mét, dài gần 2 nghìn mét, chạy dọc theo bờ biển. Phía nam
của núi là hịn Long, có loại đá trắng, mà khi ánh mặt trời chiếu rọi xuống thấy
một màu trắng xóa, nên dân gian gọi là núi Đá Bạc. Phía bắc là hịn Phụng, cấu
tạo bởi đá tổ ong, có sắc màu đỏ tươi như gạch. Về hình thể, sắc thái của hai hòn
núi này rất khác biệt nhau, nhưng do nằm liền kề tựa đầu rồng, đuôi phụng, nên
người địa phương gọi là núi Long Phụng. Cuối đuôi Long Phụng cịn có một quả
núi hình nón, đứng tách biệt, mang tên núi Một.


Trên núi Long Phụng có cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, ăm ắp các di tích lịch
sử văn hóa, là điều kiện tốt cho khách tham quan, thượng lãm. Đó là chùa Ơng
Rau, một ngôi chùa khá đặc biệt, tọa lạc trên lưng chừng núi, mặt quay ra biển.


Chùa được kiến tạo bởi những tảng đá tổ ong son đỏ nhốm màu huyền thoại.
Tương truyền xưa kia có một nhà sư chuyên ăn ngũ cốc để sống, không kinh kệ,
không để tử bổn đạo, suốt ngày ngồi tham thiền. Đến đúng giờ ngọ, ngài trở dậy
hái rau rừng ăn qua loa rồi tiếp tục nhập định. Tên nhà chân tu này là gì, q
qn nơi đâu, đến giờ khơng ai biết chính xác, chỉ biết ơng ăn rau nên gọi ơng là
Ơng Rau, hang động ơng tu gọi là chùa Ơng Rau. Hiện nay chùa vẫn cịn lại
hang đá cô tịch với ba bệ thờ đơn sơ đêm ngày bảng lảng khói sương.


Trong quần thể núi Long Phụng cịn có địa điểm đặt Trụ Bồ, một thời đóng vai
trị cảnh giới và thơng báo mật hiệu về tình hình địch cho bộ đội ta biết để đối
phó trong 9 năm kháng chiến. Khi thấy tàu Pháp xuất hiện trên biển, Trụ Bồ lập
tức được kéo lên, sau đó trống đánh thùng thùng. Nếu tàu địch chỉ có một chiếc
thì đánh một hồi trống, hai chiếc thì hai hồi, bao nhiêu chiếc thì tương ứng bấy
nhiêu hồi trống. Nghe trống Trụ Bồ dóng lên, các địa phương khác cũng lần lượt
đánh trống, báo hiệu cho khắp nơi biết có tàu Pháp đến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

phương xây dựng nhiều năm về trước.


Đứng trên ngọn núi Long Phụng du khách có thể nhìn bao qt một vùng rộng
lớn của tỉnh. Ngoài kia là biển Đơng thấy đảo Lý Sơn thấp thống trong sương
mờ, thấy mũi Ba Làng An như hạm đội nhồi mình ra biển. Xa xa phía bắc là
núi Thiên Ấn, núi Thiên Bút, biểu tượng thiêng liêng của Quảng Ngãi. Rồi dịng
sơng Vệ như dải lụa trắng chạy quanh co giữa những làng mạc và đồng ruộng
mênh mơng. Phía nam núi chập chùng nhấp nhô chạy đến tận cửa Sa Huỳnh. Ở
độ cao này, du khách sẽ tận hưởng bản hợp xướng âm thanh bất tận của đất trời.
Hịa trong tiếng sóng biển rì rào là tiếng vi vút của rừng dương và tiếng chim
hoan hỉ hót trong những tán cây rừng.


Được biết, để khai thác tiềm năng thiên nhiên ưu đãi cho bãi biển Tân Định,
phục vụ mục đích du lịch, chính quyền địa phương và các ngành chức năng đã


tiến hành lập dự án qui hoạch và phát triển vùng bãi biển này. Theo đó, các hạng
mục cơng trình cần được xây dựng như: Hệ thống giao thơng, cơng trình thốt
nước, đèn chiếu sáng, bãi tắm, nhà giữ xe, các kiốt bán hàng, cơng trình vệ sinh,
nhà hàng, nhà nghỉ dưỡng, khu thể thao vui chơi giải trí, v.v…Tuy nhiên, những
hạng mục này hiện vẫn còn nằm trên giấy, chưa được đầu tư khai thác. Hy vọng
một ngày không xa, khi tuyến đường dọc biển Dung Quất - Sa Huỳnh đi ngang
qua đây hoàn thành, "nàng tiên" biển Tân Định đang say giấc ngủ nồng sẽ được
các nhà đầu tư đánh thức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

sâu trong lòng khối nham thạch khổng lồ hình dáng ở thế đang phun trào. Chùa
rộng 480 mét vng, chỉ cao có 3,2 mét. Tiền thân của chùa là một ngôi đền
Chăm cổ. Những tượng Chăm đã bị người Pháp đưa đi từ đầu thế kỷ 20, và dân
đảo thay thế bằng bàn thờ Phật và thờ các tiên hiền của 3 tộc lớn nhất đảo. Hàng
ngày vào buổi chiều, tiếng cầu kinh của vợ các ngư dân có chồng đang rong ruổi
trên biển cất lên, kéo dài cho đến tận hồng hơn, buồn da diết. Trong chùa, thỉnh
thoảng lại có một giọt nước mát trên vịm hang nhỏ xuống, rồi tan giữa câu kinh.
Lý Sơn còn hấp dẫn du khách bởi những hàng quán bình dân với những đĩa thức
ăn được chế biến từ hải sản, mà đặc biệt là từ 14 loại ốc biển khác nhau, mang
những cái tên rất kỳ dị như ốc nhảy, ốc đụn, ốc cừ, ốc hương, ốc voi… Viếng
cảnh chùa, ngắm những ngọn núi lửa đang ngủ yên giữa trùng dương, rồi sau đó
vào quán thưởng thức một đĩa mực thả mới vớt từ biển lên, uống một ly nhỏ
rượu tỏi và nhìn hồng hơn trơi dần về đất liền cách đó 20 hải lý. Lý Sơn trong
tim du khách lúc đó có thể sẽ khác, mặc dù tiếng kinh cầu từ chùa vẳng ra vẫn
đang còn buồn da diết.


<b>Sa Huỳnh nằm ở cực nam tỉnh Quảng Ngãi, thuộc huyện Đức Phổ, cách thị </b>
<b>xã tỉnh lỵ 60 km. Sa Huỳnh là bãi biển đẹp, nổi tiếng là vựa muối quan </b>
<b>trọng ở miền Trung. Bãi biển Sa Huỳnh nằm sát quốc lộ 1A, ở km 985, có </b>
<b>ga xe lửa Sa Huỳnh, cho nên từ Hà Nội vào hay từ thành phố Hồ Chí Minh </b>
<b>ra, du khách có thể dừng chân ghé lại đây rất thuận lợi. Địa danh Sa Huỳnh</b>


<b>phải viết cho đúng là Sa Hồng, có nghĩa là cát vàng. Thật vậy, màu cát ở </b>
<b>đây không trắng như ở nơi khác mà lại có màu vàng óng ánh thật đẹp. Sở </b>
<b>dĩ, phải viết thành Sa Huỳnh, vì chữ “Hồng” trùng tên Chúa Nguyễn </b>
<b>Hoàng thời Nguyễn sơ. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>danh bằng khái niệm “Văn hóa Sa Huỳnh”'. Những gị Ma Vương, gị Điều </b>
<b>Gà … là những nơi có nhiều dấu tích của nền văn hóa Chăm pa, từ lâu đã </b>
<b>thu hút nhiều du khách đến tham quan và nghiên cứu. </b>


Thiên Ấn có tục danh là núi Hó, từ xưa đã được xem là "đệ nhất phong cảnh"
của tỉnh Quảng Ngãi với mỹ danh "Thiên Ấn niêm hà", tức ấn trời đóng trên
sơng. Sơng ở đây là sông Trà Khúc, con sông lớn nhất tỉnh. Cùng với sông Trà,
núi Thiên Ấn từ lâu đã trở thành biểu tượng của vùng đất Quảng Ngãi.


Thực ra, núi Thiên Ấn chỉ là một quả đồi cao trên trăm mét, nằm ở thị trấn Sơn
Tịnh, bên bờ bắc sơng Trà Khúc, có quốc lộ 24B áp sát chân núi, cách quốc lộ
1A khoảng 3km về phía tây. Do vậy, khách theo quốc lộ 1A vào Nam hay ra
Bắc đều có thể thấy rõ núi Thiên Ấn. Muốn ghé thăm Thiên Ấn, từ ngã ba đầu
cầu Trà Khúc trên quốc lộ 1A, rẽ sang quốc lộ 24B về hướng đông chạy xe ô tô
chỉ khoảng năm mười phút là đến chân núi. Ðường lên đỉnh Thiên Ấn xoắn ốc
theo chiều kim đồng hồ, độ dốc khơng cao, lịng đường rộng, đã trải nhựa nên xe
các loại đều lên xuống dễ dàng.


Sở dĩ núi có tên là Thiên Ấn vì đỉnh núi rộng, bằng phẳng, nhìn xa giống như
một cái triện lớn do trời sinh ra. Sườn núi Thiên Ấn có nhiều cỏ tranh, phía đơng
sườn núi có chùa Thiên Ấn nằm giữa lùm cây cổ thụ rậm rạp. Ngôi chùa cổ này
được xây dựng từ cuối thế kỷ XVII, đã được chúa Nguyễn ban cho biển ngạch
"Sắc tứ Thiên Ấn tự", năm 1717. Trong khn viên chùa có cái cái giếng cổ sâu
hun hút tương truyền được đào quết nhiều năm liền, tục gọi Giếng Phật. Chùa
còn có quả chng lớn thỉnh về từ làng đúc đồng Chú Tượng năm 1845, dưới


triều vua Thiệu Trị, tục gọi là Chuông Thần. Giếng Phật, Chuông Thần đều đã đi
vào thơ ca và gắn với những huyền thoại lý thú, đi vào thơ ca vịnh cảnh Thủ
khoa Phạm Trinh từng có câu: "Giếng Phật mạch sâu mùi nước ngọt/ Chng
Thần đêm vắng giọng đưa thanh".


Phía đơng chùa có khu "viên mộ" thiết diện hình lục giác, gồm nhiều tầng, là nơi
an táng các vị sư trụ trì chùa. Ngồi ra, tại đỉnh Thiên Ấn, trên trảng đất bằng
phẳng thống đãng phía tây cịn có phần mộ của cụ Huỳnh Thúc Kháng, là nơi
được nhiều du khách viếng thăm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cầu Trà Khúc, sông Trà Khúc, nổi lên giữa những dải cát trắng, từng là nguồn
cảm hứng cho hai bài thơ hay nhất của thi sĩ Cao Bá Quát: Trà Giang dạ bạc và
Trà Giang thu nguyệt ca.


Quả Thiên Ấn không hổ danh là "đệ nhất thắng cảnh" của tỉnh Quảng Ngãi, là di
tích quốc gia đã được Bộ Văn hóa-Thơng tin cơng nhận từ năm 1990.


Sơn Mỹ thuộc tỉnh Quảng Ngãi, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa
quốc gia theo Quyết định số 54/VH-QÐ ngày 29/4/1979, là khu di tích lịch sử,
nơi ghi lại tội ác đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt Nam.


Di tích vụ thảm sát Sơn Mỹ nằm trên địa bàn xã Tịnh Khê, huyện SơnTượng đài
tưởng niệm vụ thảm sát Sơn Mỹ ngày 16/3/1968 Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, cách
thành phố Quảng Ngãi 13km về phía đơng bắc. Ngày 16/3/1968, một cuộc hành
quân huỷ diệt dã man chưa từng thấy, được quân xâm lược Mỹ mưu tính và thực
hiện, đánh vào người dân Sơn Mỹ vơ tội không một tấc sắt trong tay. Với chủ
trương: đốt sạch, phá sạch, giết sạch, chúng đã biến nơi này thành vùng đất
chết.


Lính Mỹ đã đổ bộ xuống phía tây xóm Thuận n thơn Tư Cung và xóm Gị


thơn Cổ Lũy và cuộc thảm sát bắt đầu. Số người tàn sát ở thôn Tư Cung là 407
người, tại thôn Mỹ Hội là 97 người. Tổng số người bị tàn sát ở Sơn Mỹ là 504
người, trong đó có 182 phụ nữ, 173 trẻ em, 60 cụ già, 24 gia đình bị giết sạch,
247 ngôi nhà bị thiêu cháy. Vụ thảm sát Sơn Mỹ là đỉnh cao trong muôn vàn tội
ác của đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh xâm lược
phi nghĩa, bị cả loài người lên án.


Khu di tích vụ thảm sát Sơn Mỹ là một tổng thể các địa điểm nơi ghi dấu tội ác
của giặc Mỹ đối với đồng bào ta.


Cụm di tích: ruộng ơng Nhiều, tháp canh, gốc cây gịn nằm ở xóm Khê Thuận
và điểm di tích vườn ông Phạm Minh (Khê Ðông), Phạm Hội (Khê Tây).
Ðiểm di tích: hầm chống pháo của gia đình ơng Lý Lệ, ơng Ngơ Mân tại xóm
Mỹ Hội (thơn Cổ Lũy).


Các điểm di tích mộ chơn chung các nạn nhân bị thảm sát.


Bên cạnh giá trị lịch sử, khu di tích Sơn Mỹ là nơi ghi tội ác điển hình của giặc
Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, là nơi tưởng niệm 504 đồng bào
ta đã ngã xuống. Sơn Mỹ cịn có giá trị về du lịch: nó nằm trong tuyến du lịch
Thiên Ấn (khu mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng) - Châu Sa - Sơn Mỹ - Mỹ Khê -
Dung Quất. Hàng năm có hơn 5 vạn người đến Sơn Mỹ tham quan. Hiện nay,
mỗi tháng có gần 3.300 lượt khách đến tham quan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nỗi đau tột cùng của nạn nhân Sơn Mỹ ngày ấy. Bên trong nội thất Nhà Chứng
tích, du khách có thể xem nhiều hiện vật cịn được lưu giữ: đó là chiếc mâm thau
cũ cịn lỗ chỗ vết đạn, chiếc áo, đơi dép của một cháu bé bị bắn chết; các loại
chén đĩa, xoong chảo bị bắn thủng vỡ, chiếc mõ tụng kinh của nhà sư Thích
Tâm Trí cịn tìm lại được. Trong những hiện vật đó cịn tìm thấy chiếc kẹp tóc
của cơ Nguyễn Thị Huỳnh. Sau khi cơ bị sát hại, người u cơ đã tìm nhặt lại


được chiếc kẹp tóc ấy, trân trọng giữ gìn nó suốt 8 năm trời trước khi giao nó
cho Nhà Chứng tích...


Bên ngồi khn viên chứng tích, rải rác đó đây trong các xóm thơn là những
tấm bia dựng lên ở các địa điểm đã xảy ra các cuộc bắn giết. Ðây là tháp canh ở
rìa làng, bên con đường đất nhỏ xóm Thuận


<b>Huyện Đức Phổ nằm về phía nam Tỉnh lỵ Quảng Ngãi, đơng giáp biển </b>
<b>Đông, tây giáp huyện Ba Tơ, nam giáp tỉnh Bình Định, bắc giáp huyện Mộ </b>
<b>Đức. Đức Phổ là huyện đồng bằng ven biển, đồng ruộng xen kẽ núi đồi, có </b>
<b>sơng Trà Câu đổ ra biển. Bờ biển dài 42km có cửa biển Mỹ Á, Sa Huỳnh, có</b>
<b>đường quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam chạy dọc theo chiều dài của huyện</b>
<b>tạo nên một vị thế thuận lợi cho phát triển nền kinh tế - văn hóa của huyện.</b>
<b>Đức Phổ còn là một mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, trước khi </b>
<b>Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Đức Phổ đã nhiều lần nổi dậy </b>
<b>chống thực dân Pháp và tay sai. Năm 1885 tham gia cuộc khởi nghĩa chiếm </b>
<b>thành Quảng Ngãi do Lê Trung Đĩnh lãnh đạo, năm 1886-1886 tham gia </b>
<b>cuộc khởi nghĩa Nguyễn Bá Loan. Hương ứng phong trào Đông Du của </b>
<b>Phan Bội Châu, các nhà yên nước Quảng Ngãi đã lập Hội Duy Tân, vận </b>
<b>động thanh niên xuống đường, mở trường dạy học…..Ở Đức Phổ có trường </b>
<b>ở Tân Hội, Hùng Nghĩa (Phổ Phong), trường Lộ Bàn ở Phổ Ninh, xuất bản </b>
<b>tờ báo “dân cày”, “thanh niên”, phổ biến những bài giảng của đồng chí </b>
<b>Nguyễn Ái Quốc và được in thành sách “Đường cách mệnh”.</b>


<b>Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (3/2/1930), vào mùa xuân </b>
<b>1930 Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi được thành lập, do đồng chí Nguyễn </b>
<b>Nghiêm người làng Tân Hội (xã Phổ Phong) làm Bí thư. Sau khi Tỉnh ủy </b>
<b>lâm thời Quảng Ngãi được thành lập, tháng 4/1930, chi bộ cộng sản đầu </b>
<b>tiên của Đức Phổ ra đời tại làng Tân Hội, do đồng chí Nguyễn Suyền (người</b>
<b>thơn Hùng Nghĩa, xã Phổ Phong) làm Bí thư.</b>



<b>Sau thời gian được thành lập, chi bộ cộng sản Đức Phổ đã tập hợp và lãnh </b>
<b>đạo nhân dân trong huyện tiến hành cuộc đấu tranh mới với nhiều hình </b>
<b>thức đấu tranh như mít tinh, biểu tình thị uy, rải truyền đơn, treo cờ cách </b>
<b>mạng nhân ngày Quốc tế Lao động 1/5, qua đó đem lại niềm tin cho quần </b>
<b>chúng bị áp bức bóc lột và làm cho kẻ địch phải kiêng dè.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>lâm thời Quảng Ngãi được thành lập tại đây (làng Tân Hội, Đức Phổ). </b>
<b>Nhận được chỉ thị của Phân cục Trung ương Trung kỳ, các đồng chí trong </b>
<b>Ban chấp hành tỉnh bộ lâm thời tỉnh Quảng Ngãi đã triệu tập ngay cuộc </b>
<b>họp Tỉnh uỷ để thống nhất kế hoạch chỉ đạo cuộc đấu tranh ủng hộ Xô Viết </b>
<b>Nghệ Tĩnh. Cuộc họp nhất trí chủ trương phát động điểm, lấy Đức Phổ làm </b>
<b>điểm khởi đầu có phối hợp với các huyện khác để rút kinh nghiệm rồi triển </b>
<b>khai dần ra các phủ huyện khác theo sự chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh uỷ và </b>
<b>quyết định biểu tình tồn huyện vào ngày 8/10/1930.</b>


<b>Đúng giờ quy định, đêm mồng 7 rạng sáng mồng 8/10/1930, dưới sự chỉ đạo </b>
<b>trực tiếp của đồng chí Nguyễn Nghiêm –Bí thư Tỉnh ủy và các đồng chí </b>
<b>lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Ngãi, huyện ủy, các chi bộ Đảng, ban chỉ huy đấu </b>
<b>tranh và Nông hội đỏ quần chúng Đức Phổ đã vùng lên đấu tranh. Phía Tây</b>
<b>bắc vùng Hùng Nghĩa, Vạn Lý (Phổ Phịng), rồi phía bắc vùng Mỹ Thuận, </b>
<b>Kim Giao sáng bừng lên. Tiếp theo là phía đơng vùng Thanh Hiếu, Tân Tự </b>
<b>(Phổ Minh), rồi tiếp tục ở phía tây, phía nam cũng lần lượt bừng sáng. Cả </b>
<b>Đức Phổ như rực lên trong lửa đỏ. Nhiều chỗ đồn biểu tình đi qua cánh </b>
<b>đồng trống, hàng trăm, hàng nghìn ánh đuốc bập bùng, chuyển động như </b>
<b>con rồng lửa dài vô tận, di chuyển lần lượt về phía trước. Tiếng trống dục </b>
<b>giã hồ lẫn với tiếng hô vang khẩu hiệu náo động vang dội khắp nơi. Cuộc </b>
<b>biểu tình lúc đầu chỉ khoảng 3000 người ở cả 5 ngã kéo đến. Đến đâu, nhân </b>
<b>dân ở đó lại nhập thêm vào, điều đặc biệt là khá nhiều đoàn phu, đoàn thập</b>
<b>và một số lý hương cũng tham gia, lúc đến huyện con số lên đến 5000 người.</b>


<b>Các cánh phối hợp nhịp nhàng, lực lượng tự vệ đỏ bảo vệ tốt đội ngũ biểu </b>
<b>tình, lực lượng phịng triệt được bố trí ở tất cả các ngả; bọn chánh tổng, lý </b>
<b>hương ở các làng xã hoảng sợ nằm im hoặc chạy trốn. Trước đông đảo </b>
<b>quần chúng, các đồng chí trong Tỉnh ủy (Phan Thái Ất và Nguyễn Nghiêm </b>
<b>-Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi) đã vạch rõ tội ác của đế quốc Pháp và Nam </b>
<b>triều, tuyên truyền đường lối của Đảng và kêu gọi quần chúng đoàn kết đấu</b>
<b>tranh. Buổi diễn thuyết đã kích động mạnh mẽ tinh thần cách mạng của </b>
<b>nhân dân, đồn biểu tình với khí thế hừng hực rầm rộ kéo nhau về huyện </b>
<b>đường Đức Phổ đưa yêu sách.</b>


<b>Bốn giờ sáng ngày 8/10/1930 đồn biểu tình kéo về bao vây huyện đường. </b>
<b>Vào đến nơi thì cổng huyện đường đã mở, tên tri huyện Phan Lang bỏ trốn,</b>
<b>lính tráng chạy dạt khắp nơi. Lá cờ Đảng lớn nhất được treo lên trụ cờ </b>
<b>chính trước huyện đường. Đồn biểu tình xơng vào đốt phá cơng văn giấy </b>
<b>tờ, hồ sơ, ấn triện, thả tù nhân, dán áp phích, rải truyền đơn, treo cờ đỏ búa</b>
<b>liềm, hô vang các khẩu hiệu cách mạng: “Chống khủng bố đồng bào Nghệ </b>
<b>Tĩnh! Không được đụng đến công nông Nghệ Tĩnh”. Sau khi làm chủ huyện</b>
<b>đường, đồn biểu tình tiếp tục tuần hành xung quanh huyện lỵ và các xã </b>
<b>lân cận đến 8 giờ sáng mới giải tán.</b>


<b>Phối hợp hành động với Đức Phổ, các nơi khác trong tỉnh cũng đã tổ chức </b>
<b>rải truyền đơn, treo cờ Đảng và khẩu hiệu đấu tranh. Sau Đức Phổ, nhân </b>
<b>dân các huyện Sơn Tịnh, Mộ Đức cũng liên tiếp nổi dậy biểu tình.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>Sau cao trào cách mạng 1930 - 1931, nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân </b>
<b>trong huyện đòi tự do dân chủ, chống khủng bố, chống sưu cao thuế nặng </b>
<b>diễn ra liên tục dưới sự lãnh đạo của Đảng và cho đến cuộc Tổng khởi </b>
<b>nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945.</b>


<b>Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu </b>


<b>nước, Đức Phổ cũng như các huyện khác của Quảng Ngãi đã đóng góp sức </b>
<b>người, sức của cho cuộc kháng chiến, làm hậu phương vững chắc cho tiền </b>
<b>tuyến, cùng với cả tỉnh và Khu V tạo nên thắng lợi trong chiến dịch Đông - </b>
<b>Xuân 1953 - 1954, chiến thắng mùa khô 1965 – 1966, chiến thắng mùa khô </b>
<b>năm 1967 đến đại thắng mùa xuân 1975.</b>


<b>Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân Đức Phổ </b>
<b>đã vượt qua mọi khó khăn, vừa hàn gắn vết thương chiến tranh, đẩy mạnh </b>
<b>sản xuất, từng bước ổn định và cải thiện đời sống cho nhân dân, xây dựng </b>
<b>và phát triển kinh tế - xã hội.</b>


<b>Với những thành tích đạt được qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và </b>
<b>chống Mỹ, Đảng bộ, quân và dân Đức Phổ đã được Đảng và Nhà nước trao </b>
<b>tặng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có 16 đơn vị, 8 cá nhân được </b>
<b>trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, 431 bà mẹ </b>
<b>được phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng</b>
<b>Huyện đường Đức Phổ năm xưa nay được sử dụng làm nơi làm việc của </b>
<b>UBND huyện Đức Phổ, nằm trung tâm huyện lỵ, thuộc thị trấn Đức Phổ.</b>
<b>Huyện đường Đức Phổ với diện tích 5576m2, dài 90m, rộng 62m, mặt quay </b>
<b>về hướng tây (đường quốc lộ IA), bao bọc xung quanh huyện đường là một </b>
<b>bờ tường gạch thấp, chính giữa là cổng ra vào, phía tay trái cổng có bốt gác </b>
<b>nhỏ để kiểm tra, kiểm soát người ra vào, hai bên cổng là hai vây nhãn, giữa </b>
<b>sân có một trụ cờ.</b>


<b>Trụ sở huyện đường nhà xây bằng gạch theo kiểu nhà xưa có 3 gian 2 chái </b>
<b>với diện tích 60m2, dài 10m, rộng 6m, có bốn cửa ra vào, phía trước hai cửa</b>
<b>hai hồi, hai bên hai cửa; 4 mái lợp ngói âm dương.</b>


<b>Phía bên sân phải huyện đường có một miếu nhỏ gọi là miếu âm hồn để các </b>
<b>quan thắp hương cúng lễ. Bên trái sân có một căn nhà 3 gian làm trại giam </b>


<b>tù nhân và trại lính để bảo vệ huyện đường, quản lý tù nhân. Nhà của vợ </b>
<b>chồng tri huyện cũng được xây dựng làm 3 gian, lợp ngói âm dương nằm </b>
<b>phía bên trái sân, phía sau là nhà bếp và giếng nước.</b>


<b>Đến khoảng năm 1960, huyện đường Đức Phổ được sử dụng làm trung tâm </b>
<b>trụ sở chính của huyện và được xây dựng lại hoàn toàn trên nền nhà cũ với </b>
<b>ngôi nhà lớn 7 gian, dài 30m, rộng 16m, nhà gỗ lợp ngói, kiến trúc 1 tầng. </b>
<b>Xung quanh trụ sở được xây dựng 9 ngôi nhà cấp 4 làm nhà làm việc cho </b>
<b>các phịng ban.</b>


<b>Năm 1985 ngơi nhà trụ sở chính của huyện được nâng lên thành nhà 2 tầng.</b>
<b>Cùng đó, một bức phù điêu cờ đỏ búa liềm phía trước mặt tiền ngơi nhà </b>
<b>được xây dựng. Bức phù điêu cao 10m, chân đế vuông, tái hiện lại hình ảnh </b>
<b>cuộc biểu tình đánh chiếm huyện lỵ năm 1930 của nhân dân Đức Phổ, dưới </b>
<b>chân là tấm bia đá tóm tắt nội dung lịch sử cuộc đấu tranh ngày 8/9/1930 </b>
<b>tại di tích huyện đường Đức Phổ.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>1.</b> <b>Thiên</b> <b>Ấn</b> <b>niêm</b> <b>hà</b>
Nằm ở tả ngạn sơng Trà Khúc, về phía bắc tỉnh lỵ Quảng Ngãi, núi Thiên Ấn chỉ
cao hơn 100m, giống một cái triện (ấn), nhín phía nào cũng thấy núi có hình
thang cân. Núi chỉ cách đầu cầu Trà Khúc chừng 2km về hướng đông, nay thuộc
thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh.


Đỉnh núi bằng phẳng, có một khoảng cây cổ thụ bao bọc ngôi chùa cổ, tương
truyền được xây dựng từ thời vua Lê và qua nhiều lần trùng tu, cịn lại di tích
cửa tam quan rêu phong cổ kính. Trong khn viên vườn chùa có 7 "viên mộ"
của các vị sư tổ trụ trì chùa, có giếng nước sâu gọi là giếng Phật, có quả chng
cổ gọi là Chng thàn. Ngồi khn viên nhà chùa, trên khoảng đất thống đãng
phía tây có phần mộ của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, người đã gắng bó máu thịt
với đất Quảng Ngãi thuở bình sinh.Đường lên Thiên Ấn hình xoắn ốc, quang


sườn núi có tranh mọc đầy,"Bao giờ núi Ấn hết tranh, sông Trà hết nước anh
đành xa em"Đứng bên hữu ngạn sơng Trà nhìn qua, ta có cảm giác như ngọn núi
nằm ngay trên mặt sông Trà, nên được người xưa gọi là Thiên Ấn niêm hà (ấn
trời đóng trên sơng) với niềm tin thiêng liêng vào một vùng đất địa linh sinh
nhân kiệt. Xưa Thiên Ấn được xem là đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi, chùa
Thiên Ấn được xem là một trong những ngôi chùa nổi tiếng cả miền Trung.
Năm 1717, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban sắc phong “Thiên Ấn tự”. Năm Minh
Mạng thứ 11 (1830), núi được liệt hạng danh sơn và ghi vào tự điển, có sắc
phong "Thiên Ấn tự".


Từ trên đỉnh núi Thiên Ấn, tầm mắt có thể thu về một khoảng khơng gian bao la:
xung quanh là những làng mạc, ruộng đồng ngát xanh, dòng Trà Khúc lượn lờ
duyên dáng, tây là dãy Trường Sơn hùng vĩ, đông là mặt biển bao la... Đỉnh núi
gợi cho khách tham quan cái cảm giác thoát tục, thanh khiết, như thủ khoa Phạm
Trinh xưa kia đã viết:"Sông bên góc núi đua dịng biếcBiển sát chân trời bủa
sóng xanhGiếng Phật mạch sâu mùi nước ngọtChuông thần đêm vắng giọng đưa
thanh"Đầu năm 1990, Bộ Văn hóa đã xếp hạng núi Thiên Ấn và mộ cụ Huỳnh


Thúc Kháng là Di tích quốc gia.


<b>2.</b> <b>Long</b> <b>đầu</b> <b>hý</b> <b>thuỷ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Ngày nay bờ xe nước khơng cịn, Long Đầu đã trở thành phế tích. Thắng Cảnh
này đã phần nào mất đi vẻ đẹp vốn có.Từ Thiên Ấn – Long Đầu xi theo quốc
lộ 24B về hướng đông chừng 15km, ta sẽ bắt gặp một loại cảnh đẹp mà trước


hết là bãi biển Mỹ Khê.


<b>3.</b> <b>Thiên</b> <b>Bút</b> <b>phê</b> <b>vân</b>



Núi Thiên Bút nằm ở địa phận xã Nghĩa Chánh, thành phố Quảng Ngãi. Núi
Thiên Bút cao 60m, hình chóp nón, trên núi nhiều cây, trông xa tựa như ngọn
bút lông chỉ lên trời. Về phía đơng núi có hịn Nghiên tựa như nghiên mực. Vào
buổi chiều tà có dải mây thấp thống in bóng đàn nhạn bay qua đỉnh núi, người
xưa thường bảo ấy là lúc “Thiên Bút phê vân” (bút trời viết lên mây).


Núi tượng trưng cho văn khí của Quảng Ngãi. Hiện nay trên đỉnh núi cịn dấu


tích một đền tháp Champa cổ.


<b>4.</b> <b>Cổ</b> <b>Luỹ</b> <b>cô</b> <b>thôn</b>


Núi Phú Thọ và Cổ Lũy cô thôn nằm ở địa phận xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa.
Núi Phú Thọ cịn có tên là núi Đá Đen, hay Thạch Sơn, cao 60m, rộng chừng 8
hécta, trên núi là quần thể phế tích cung điện nhà cửa đền tháp và thành quách
Champa. Núi có chùa Hang với huyền tích con cọp thần. Đứng trên đỉnh núi có
thể phóng tầm mắt bao qt trơng về dịng sơng Trà hùng vĩ, cửa Đại nên thơ,
rừng dừa xanh Cổ Luỹ, đảo Lý Sơn thấp thống trong khói sóng biển xanh, phía
tây là đồng bằng Quảng Ngãi xanh tít tắp. Tương truyền Nguyễn Cư Trinh khi
trơng về xóm Mồ Cơi của những người dân chài đơn độc bên cửa Đại đã đặt tên


là Cổ Luỹ cơ thơn .


<b>5.</b> <b>Liên</b> <b>Trì</b> <b>dục</b> <b>nguyệt</b>


Thuộc thôn Liên Chiểu, xã Phổ Thuận, huyện Đức Phổ. Nơi đây có hồ sen rộng,
soi bóng núi Xương Rồng ở phía Tây, vào những đêm trăng thanh nên thơ huyền
ảo, đi thuyền trên hồ thấy bóng trăng thấp thống dưới sen, chìm trong đáy nước
nên cổ nhân đặt tên Liên Trì dục nguyệt. Phía bắc hồ là ngơi đền Quan Thánh,
có tạc 4 pho tượng cao hơn 3m diễn tả sự tích vào đêm trăng hồn Quan Cơng


bay xuống núi đàm đạo cùng Phổ Tĩnh thiền sư và hoá duyên theo Phật).


<b>6.</b> <b>Hà</b> <b>Nhai</b> <b>vãn</b> <b>độ</b>


Bến đò Hà Nhai thuộc xã Tịnh Hà huyện Sơn Tịnh. Ngày trước nơi đây trên bến
dưới thuyền tấp nập, những người dân vùng bờ bắc sông Trà Khúc thường qua
lại để lao động sản xuất ở vùng bờ nam sông. Vào những buổi chiều tà khi ánh
dương đỏ trên rặng Thạch Bích phía tây, soi bóng những con thuyền lờ lững qua


sơng, làm cho lịng người buồn man mác


<b>7.</b> <b>Thạch</b> <b>Bích</b> <b>tà</b> <b>dương</b>


Một cảnh đẹp hùng vĩ nên thơ nằm về phía đơng nam huyện Sơn Hà giáp huyện
Minh Long. Thạch Bích (Đá Vách) là một ngọn núi cao nổi tiếng của Quảng
Ngãi, thế núi quanh co đứng cao chót vót, cây cối rậm rạp, vách đá dựng ngược,
sắc đá màu ngọc lúc ráng chiều nên được gọi là Thạch Bích tà dương. Cảnh vật
nơi đây thay đổi từng thời khắc trong ngày, đặc biệt là mỗi buổi chiều tà, khi
vạn vật bắt đầu chìm vào bóng đêm thì trên đỉnh Thạch Bích vẫn cịn sáng bừng
ánh hồng hơn, tạo nên một vẻ đẹp vừa oai hùng vừa thơ mộng.


<b>8.</b> <b>An</b> <b>Hải</b> <b>sa</b> <b>bàn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

trông giống hình dáng cái mâm cát khổng lồ rất đẹp.


<b>9.</b> <b>Thạch</b> <b>cơ</b> <b>điếu</b> <b>tẩu</b>


Là một trong 12 cảnh đẹp ở Quảng Ngãi - Thạch cơ điếu tẩu gồm hai quả núi đá
tọa lạc trên cửa biển Sa Kỳ cách tỉnh lỵ 16 km về hướng đơng bắc. Đó là một
dãy đá thiên nhiên thẳng hàng, ở giữa có một tảng đá in hình hai dấu chân


người, bên cạnh là một hang đá lộ thiên, mỗi khi sóng biển dội vào hang đá
nước phun lên rất đẹp trơng như lị nấu rượu. Trên một tảng đá có in hình một
vết lõm trơng giống như dấu bàn chân nên gọi là bàn chân khổng lồ. Truyền
thuyết đó là dấu chân của ơng khổng lồ gánh đất bị soạc chân, hai trạc đất rơi
xuống tạo thành núi Hó (Thiên Ấn) và núi Bút (Thiên Bút). Ngồi mép nước
một hịn đá đen nổi lên ở cửa biển trơng như người ngồi câu giữa dịng nước gọi
là Thạch cơ điếu tẩu (Ông câu trên ghềnh đá).


<b>10.</b> <b>La</b> <b>Hà</b> <b>thạch</b> <b>trận</b>


Thuộc thị trấn Tư Nghĩa, huyện Tư Nghĩa. Tương truyền rằng, lúc trong vùng
cịn hoang vắng, gió thổi qua đây gầm rất mạnh, tưởng như có cả một đồn quân
mai phục, nên gọi là La Hà thạch trận. Đây là 3 cụm núi đá liên hoàn: núi La Hà,
núi đá Chẻ, núi Hùm. Do việc khai thác đá chưa được kiểm soát, nên ngày nay
thắng cảnh này đã gần như hoàn toàn phế tích.


<b>11.</b> <b>Vân</b> <b>Phong</b> <b>túc</b> <b>vũ</b>


</div>

<!--links-->

×