Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Nghiên cứu đề xuất những nội dung cơ bản quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện mường nhé, tỉnh điện biên​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 148 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------

TRẦN THỊ HỒNG HẠNH

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
QUY HOẠCH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
HUYỆN MƯỜNG NHÉ TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------

TRẦN THỊ HỒNG HẠNH

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
QUY HOẠCH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
HUYỆN MƯỜNG NHÉ TỈNH ĐIỆN BIÊN


Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRỌNG BÌNH

Hà Nội, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng và đất rừng của Việt Nam hiện nay đã và đang bị suy giảm
nghiêm trọng, nạn khai thác rừng trái phép, đốt nương làm rẫy làm cho mơi
trường sinh thái bị huỷ hoại, diện tích đất trống đồi núi trọc ngày càng tăng.
Vì vậy mà việc quản lý, bảo vệ, khôi phục lại và phát triển tài nguyên rừng,
phấn đấu hạn chế và tiến tới chấm dứt nạn phá rừng, nâng cao độ che phủ của
rừng là mục tiêu của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời, để
quản lý và sử dụng tài nguyên rừng một cách bền vững và lâu dài, việc xây
dựng phương án qui hoạch hợp lý là yêu cầu cấp thiết đối với các nhà quản lý.
Mường Nhé là một huyện vùng cao biên giới, đặc biệt khó khăn của
tỉnh Điện Biên; Mường Nhé có đường biên giới chung với hai nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào và Cộng hồ nhân dân Trung Hoa.
Tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện là 249.950,43 ha; gồm 16 xã chủ
yếu là dân tộc thiểu số với diện tích đất lâm nghiệp là 215.489,8 ha. Đời sống
của người dân nơi đây cịn gặp nhiều khó khăn, ngành nghề chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp thuần túy và khai thác sản phẩm từ rừng. Những năm gần
đây được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ nhiều Chương trình, Dự án phát

triển kinh tế xã hội được ưu tiên đầu tư vào địa bàn huyện như dự án trồng
rừng 661, chương trình 135, và mới đây là chương trình hỗ trợ giảm nghèo
nhanh và bền vững chính sách 30a cho 61 huyện nghèo. Vì vậy đời sống của
nhân dân trong huyện đã được cải thiện một bước đáng kể. Tuy vậy Mường
Nhé vẫn là một trong bốn huyện nghèo nhất của tỉnh Điện Biên, tỷ lệ hộ nghèo
tính đến tháng 3 năm 2010 là 65,3%.
Trên địa bàn huyện các cơ sở sản xuất lớn hầu như chưa có, sản xuất
nơng, lâm, ngư nghiệp cịn manh mún, nhỏ lẻ, chưa hình thành được các vùng
sản xuất hàng hóa tập trung. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và


2

chuyển dịch cơ cấu trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp những năm gần
đây đã có chuyển biến tích cực song cịn chậm. Các ngành nghề cơng nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển nên chưa hỗ trợ được cho sản
xuất nông lâm nghiệp. Bên cạnh đó cơng tác bảo vệ và phát triển rừng cũng
như quản lý sử dụng rừng còn nhiều tồn tại, bất cập như những diện tích rừng
và đất lâm nghiệp đã được giao, khoán ổn định lâu dài theo quy định của Nhà
nước sử dụng kém hiệu quả, năng suất và chất lượng rừng chưa cao, tình
trạng khai thác rừng trái phép vẫn diễn ra thường xuyên. Công tác quy hoạch
phân chia ba loại rừng chưa phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương,
việc sử dụng rừng chưa đúng mục đích. Những tồn tại này làm cho cơng tác
quản lý, bảo vệ và phát triển rừng gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc lập kế
hoạch, triển khai một phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp
hợp lý, có cơ sở khoa học sẽ góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống của
người dân địa phương, thực hiện xố đói giảm nghèo và đưa kinh tế xã hội
của huyện, hồ nhập với tiến trình cơng nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là
hết sức cần thiết. Là cơ sở để Nhà nước đầu tư hỗ trợ cho sản xuất lâm nghiệp
đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và bền vững; Đáp ứng được mục tiêu của

chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững ở một huyện nghèo; Phù
hợp và phát huy được lợi thế của từng địa phương, gắn với chiến lược tổng
thể phát triển kinh - tế xã hội của huyện, tỉnh và vùng.
Với những lý do trên và để hồn thành chương trình đào tạo thạc sỹ của
mình tơi tiến hành luận văn với đề tài “ Nghiên cứu đề xuất những nội dung
cơ bản quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Mường Nhé tỉnh Điện
Biên” nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm
nghiệp trên địa bàn huyện.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung về quy hoạch
Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng là một hoạt
động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí tổ chức các hoạt động khơng gian và
thời gian một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu
trong tương lai [19].
1.1.1. Quy hoạch sử dụng đất đai.
Hiện nay có rất nhiều tài liệu nghiên cứu định nghĩa về QHSDĐĐ khác
nhau từ đó đưa đến những việc phát triển quan điểm và phương pháp được sử
dụng trong QHSDĐĐ cũng khác nhau.
Theo Dent (1988; 1993) [25]: QHSDĐĐ như là phương tiện giúp cho
lãnh đạo quyết định sử dụng đất đai như thế nào thơng qua việc đánh giá có
hệ thống cho việc chọn mẫu hình trong sử dụng đất đai, mà trong sự lựa chọn
này sẽ đáp ứng với những mục tiêu riêng biệt, và tự đó hình thành nên chính
sách và chương trình cho sử dụng đất đai.
Một định nghĩa khác của Fresco và ctv ., (1993) [38], QHSDĐĐ như là
dạng hình của quy hoạch vùng, trực tiếp cho thấy việc sử dụng tốt nhất về đất

đai trên quan điểm chấp nhận những mục tiêu, và những cơ hội về môi
trường, xã hội và những vấn đề hạn chế khác.
Theo Mohammed (1999)[25], những từ vựng kết hợp với những định
nghĩa về QHSDĐĐ là hầu hết đều đồng ý chú trọng và giải đốn những hoạt
động như là một tiến trình xây dựng quyết định cấp cao. Do đó QHSDĐĐ,
trong một thời gian dài với quyết định từ trên xuống nên cho kết quả là nhà
quy hoạch bảo người dân phải làm những gì. Trong phương pháp tổng hợp và
người sử dụng đất đai là trung tâm. [36] đã đổi lại định nghĩa về QHSDĐĐ


4

như sau QHSDĐĐ là một tiến trình xây dựng những quyết định để đưa đến
những hành động trong việc phân chia đất đai cho sử dụng để cung cấp những
cái có lợi bền vững nhất. [37] Với cái nhìn về quan điểm khả năng bền vững
thì chức năng của QHSDĐĐ là hướng dẫn sự quyết định trong sử dụng đất
đai để làm sao trong nguồn tài nguyên đó được khai thác có lợi cho con
người, nhưng đồng thời cũng được bảo vệ cho tương lai. Cung cấp những
thông tin tốt liên quan đến nhu cầu và sự chấp nhận của người dân, tiềm năng
thực tại của nguồn tài nguyên và những tác động đến mơi trường có thể có
của những sự lựa chọn là một yêu cầu đầu tiên cho tiến trình quy hoạch sử
dụng đất đai thành cơng. Ở đây đánh giá đất đai giữ vai trò quan trọng như là
công cụ để đánh giá thực trạng của đất đai khi được sử dụng cho mục đích
riêng biệt [35], hay như là một phương pháp để giải nghĩa hay dự đoán tiềm
năng sử dụng của đất đai [41].
Lê Quang Trí (2005) [25]: QHSDĐĐ là sự đánh giá tiềm năng đất nước
có hệ thống, tính thay đổi trong trong sử dụng đất đai và những điều kiện kinh
tế xã hội để chọn lọc và thực hiện các sự chọn lựa sử dụng đất đai tốt nhất.
Đồng thời QHSDĐĐ cũng là chọn lọc và đưa vào thực hành những sử dụng
đất đai đó mà nó phải phù hợp với yêu cầu cần thiết của con người về bảo vệ

nguồn tài nguyên thiên nhiên trong tương lai.
Do đó trong quy hoạch cho thấy: Những sự cần thiết phải thay đổi;
Những cần thiết cho việc cải thiện quản lý, hay những cần thiết cho kiểu sử
dụng đất đai hoàn toàn khác nhau trong các trường hợp cụ thể khác nhau.
Các loại sử dụng đất đai bao gồm: Đất ở, nông nghiệp (thuỷ sản, chăn
nuôi …) đồng cỏ, rừng, bảo vệ thiên nhiên và du lịch đều phải được phân chia
một cách cụ thể theo thời gian được quy định. Do đó trong QHSDĐĐ phải
cung cấp những hướng dẫn cụ thể để có thể giúp cho các nhà quyết định có
thể chọn lựa trong các trường hợp có sự mâu thuẫn giữa đất nơng nghiệp và


5

phát triển đo thị hay cơng nghiệp hố bằng cách chỉ ra các vùng đất đai nào có
giá trị nhất cho đất nông nghiệp và nông thôn mà không nên sử dụng cho các
mục đích khác.
Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và
pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả
cao thơng qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất (cả nước hoặc trong
phạm vi một đơn vị, đối tượng sử dụng đất cụ thể), tổ chức sử dụng đất như
một tư liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả sản xuất xã hội tạo điều kiện bảo vệ
đất và bảo vệ môi trường [33]
1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ
Theo Nguyễn Nhật Tân - Nguyễn Thị Vòng (1995)[20] Quy hoạch vùng
lãnh thổ là hệ thống các biện pháp xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý gắn
liền với cơ cấu đất đai và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, các cơng
trình kinh tế - văn hố - xã hội, nguồn lao động, tăng cương xây dựng cơ sở
hạ tầng, phát triển lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế, xây dựng nông
thôn mới và xã hội mới

Quy hoạch vùng lãnh thổ là khoa học về quản lý tài nguyên mang cả 3
tính chất: Kinh tế, kỹ thuật và pháp lý. Là cơ sở để lập dự án đầu tư phát triển
kinh tế và xây dựng nông thôn mới. Sự phát triển của khoa học quy hoạch
vùng lãnh thổ liên quan đến sự phát triển của các quản lý phát triển kinh tế và
phân bổ lực lượng sản xuất trên địa bàn lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển nông thôn là quy hoạch tổng thể, nó bao gồm tổng
hợp nhiều nội dung hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế văn hố xã hội và
mơi trường liên quan đến vấn đề phát triển con người trong các cộng đồng
nông thôn theo các tiêu chuẩn của phát triển bền vững. Về khái niệm quy
hoạch phát triển nơng thơn có thể tiếp cận theo 2 góc độ, đứng trên góc độ


6

phân bố lực lượng sản xuất, quy hoạch phát triển nông thôn là sự phân bố các
nguồn lực tài nguyên, đất đai, lao động, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, sự bố trí
cơ cấu kinh tế nơng nghiệp, cơng nghiệp, dịch vụ trên lãnh thổ nông thôn một
cách hợp lý để đạt hiệu quả cao. Đứng trên góc độ kế hoạch hố, quy hoạch
phát triển nơng thơn là một khâu trong quy trình kế hoạch hố nơng thơn. Bắt
đầu tự chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông thôn đến quy hoạch phát triển
nông thôn rồi cụ thể hoá bằng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn
trên địa bàn nông thôn [12].
Đăc điểm của quy hoạch là quy hoạch thường mang tính định hướng về
tương lai, vì vậy quy hoạch phải có mục tiêu rõ rệt. Mục tiêu khơng thể hình
thành do ý nghĩ chủ quan của một số người làm quy hoạch, cũng không thể
hình thành chóng vánh trong ngày một ngày hai mà nó phải trải qua một q
trình tìm toig, cân nhắc lâu dài từ tổng quát đến chi tiết, từ cục bộ đến tồn
diện. Mục tiêu phải có tính khả thi, nếu quy hoạch khơng hướng về tương lai
thì chỉ là một việc làm tốn kém, một bức tranh khơng có lợi ích [12]
1.1.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng

Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các
hoạt động gắn liền với sản xuất hàng hoá và dịch vụ từ rừng như các hoạt
động bảo vệ, gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và
các dịch vụ môi trường có liên quan đến rừng; đồng thời ngành lâm nghiệp có
vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ mơi trường, bảo tồn đa dạng sinh học,
xố đói, giảm nghèo, đặc biệt cho người dân miền núi, góp phần ổn định xã
hội và an ninh quốc phòng.[24]
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một hoạt động vừa mang tính
khoa học vừa mang tính pháp lý của hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế,
xã hội. Thực chất đó là q trình ra quyết định sử dụng rừng và đất rừng như
một tư liệu sản xuất đặc biệt, nhằm mục tiêu sử dụng rừng và đất rừng một cách


7

hiệu quả. Công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp luôn được trú
trọng và coi là nhiệm vụ chiến lược trong quản lý rừng và đất rừng.
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một bộ phận cấu thành của quy
hoạch tổng thể phát triển nông thơn. Do đó cơng tác quy hoạch bảo vệ và phát
triển lâm nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau
giữa các ngành. Thực chất của công tác quy hoạch là tổ chức không gian và
thời gian phát triển cho một ngành hoặc một lĩnh vực sản xuất trong từng giai
đoạn cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại và phát triển thì nhất thiết phải
thực hiện quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý mà trong đó công tác điều tra
cơ bản phục vụ cho quy hoạch phát triển phải đi trước một bước. Quy hoạch
bảo vệ và phát triển lâm nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngành lâm
nghiệp nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nếu cơng tác quy
hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp được chú ý quan tâm đúng mức thì sự
phát triển của ngành lâm nghiệp sẽ mang lại tính bền vững, trong điều kiện

ngược lại sẽ gặp những trở ngại, khó khăn. Ngày nay khi nhu cầu của xã hội
về lâm sản đáp ứng cho nguyên liệu, gỗ, củi … ngày càng cao, tạo áp lực
ngày càng lớn vào tài nguyên rừng và đất rừng thì vấn đề quy hoạch bảo vệ và
phát triển lâm nghiệp một cách bền vững càng trở lên quan trọng và cấp thiết
hơn bao giờ hết, và đã trở thành một nguyên tắc hàng đầu trong chiến lược
phát triển lâm nghiệp của mỗi quốc gia nói riêng và trên tồn thế giới nói
chung [19]
Tuỳ theo cách nhìn nhận về quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng sao
cho hợp lý đã được nhiều tác giả khác nhau đề cập tới ở những mức độ rộng
hẹp khác nhau. Việc đưa ra một khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực
hiện, song phân tích qua các khái niệm cho thấy có những điểm giống nhau,
đó là dựa trên quan điểm về sự phát triển bền vững thì các hoạt động có liên


8

quan đến đất đai phải được xem xét một cách tồn diện và đồng thời nhằm
đảm bảo nó một cách lâu dài và bền vững.
Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh
tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái đa dạng sinh học và các đặc
điểm xã hội, nhân văn. Quá trình phát triển của việc quản lý sử dụng đất trên
thế giới luôn gắn liền với lịch sử phát triển xã hội loài người.
1.2. Trên thế giới
1.2.1. Quy hoạch sử dụng đất
Tại Châu âu, vào thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ
vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm
1946, Jack. G. V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với
tên “Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây là tài liệu đầu tiên đề
cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng
Rhodesia trước đây, nay là Cộng hịa Zimbabwe, Bộ Nơng nghiệp đã xuất bản

cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ
tầng cho trồng rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, tạp chí “East
Afican Journal fof Agricultue and Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về quy
hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam châu phi. Năm 1966, Hội đất học của Mỹ và Hội
nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả
năng của đất và ứng dụng trong quy hoạch sử dụng đất, … [11].
Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO
năm 1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính
[35]. Trong đó phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất
được xét như là các bước chính trong q trình quy hoạch.
Năm 1985 một nhóm chun gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng
đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử
dụng đất.


9

Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh
luật pháp. Tác giả đề nghị “Một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát
triển nhằm mục đích: Cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước
về đất đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp yêu cầu sử dụng theo quy
trình kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thơng hiểu về sử dụng đất và
khuyến khích xây dựng cơ chế giám sát và cưỡng chế” [42].
Năm 1986, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về cơng trình quy
hoạch. Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối
quan hệ của các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh,
huyện) cấp cộng đồng (xã, thơn) [34]. Ơng cịn đề xuất quá trình quy hoạch
gồm 4 giai đoạn và 10 bước.
Những kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu á, Châu
Phi và Nam mỹ xác nhận rằng phân tích hệ thống canh tác là một cơng cụ quy

hoạch và lập kế hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất cấp địa
phương. Luning năm 1990 lần đầu tiên nghiên cứu đánh giá đất đai với phân
tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất [39].
1.2.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ
Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ở Liên Xô trước đây: Nguyễn
Nhật Tân - Nguyễn Thị Vịng (1995) [20]: Quy hoạch vùng nơng nghiệp là
một biện pháp tổng hợp của Nhà nước về phân bố và phát triển lực lượng sản
xuất trên lãnh thổ các vùng hành chính - nơng nghiệp nhằm đáp ứng các nhu
cầu về phát triển tất cả các ngành kinh tế quốc dân trong vùng. Quy hoạch
vùng nông nghiệp là giai đoạn kết thúc của kế hoạch hoá tương lai của Nhà
nước một cách chi tiết sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh
thổ của vùng, là biện pháp xác định các xí nghiệp chun mơn hố một cách
hợp lý, là biện pháp thiết kế và đưa vào nề nếp việc sử dụng đất đai trên từng
khu vực cụ thể của vùng, là biện pháp xác định sự phân bố đúng đắn các cơ


10

quan y tế và phục vụ sinh hoạt văn hoá cho nhân dân, là biện pháp xây dựng
các tiền đề tổ chức lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý các của cải tự nhiên, các
thành tựu khoa học kỹ thuật, các nguồn lao động nhằm phát triển với tốc độ
nhanh kinh tế của tất cả các xí nghiệp đồng thời cải thiện đời sống vật chất và
văn hoá của nhân dân trong vùng lao động nơng nghiệp đó.
Trần Hữu Viên (2005) [32]: Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tuân
theo học thuyết Mác - Lê Nin về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất theo
lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra “Mức độ phát triển lực lượng sản xuất
của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở sự phân công lao động của dân tộc
đó được phát triển đến mức độ nào”
Lê Nin đã chỉ ra “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự nhiên

kinh tế xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố sản xuất”.
Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản xuất
cho một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng tiềm tàng và
tương lai phát triển của vùng đó.
Dựa trên cơ sở học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên
cứu các hướng cụ thể về kế hoạch hoá phát triển lực lượng sản xuất trong xã
hội chủ nghĩa.
Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây: Nhằm sử dụng hiệu quả
nhất lãnh thổ của đất nước. Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm
đảm bảo tái sản xuất mở rộng. Xây dựng đồng bộ môi trường sống.
Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng: Lãnh thổ là môi
trường thiên nhiên phải bảo vệ; Lãnh thổ thiên nhiên không có nơng thơn, sự
tác động của con người vào đây rất ít; Lãnh thổ là mơi trường thiên nhiên có
mạng lưới nơng thơn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho
nghỉ mát; Lãnh thổ là môi trường nơng nghiệp khơng có mạng lưới nơng thơn


11

nhưng có tác động đặc biệt của con người; Lãnh thổ là mơi trường nơng
nghiệp có mạng lưới nơng thơn và có sự can thiệp vừa phải của con người,
thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp; Lãnh thổ là môi trường cơng nghiệp với
sự can thiệp tích cực của con người.
Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước tiến hành quy hoạch lãnh
thổ vùng và quy hoạch lãnh thổ địa phương.
Quy hoạch vùng ở Pháp: Theo quan niệm chung của hệ thống các mơ
hình quy hoạch vùng lãnh thổ M. Thénevin (M. Pierre Thénevin), một chuyên
gia thống kê đã giới thiệu một số mơ hình quy hoạch vùng được áp dụng
thành công ở miền Tây nam nước Cộng hồ Cơte D’ivoire. Trong mơ hình
quy hoạch vùng này, người ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng

thêm xã hội với các giàng buộc trong nội vùng, có quan hệ với các vùng khác
và với nước ngồi. Thực chất mơ hình là một bài tốn quy hoạch tuyến tính có
cấu trúc:
- Các hoạt động sản xuất:
+ Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng
trọt cơng nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ
điển (truyền thống).
+ Hoạt động khai thác rừng
+ Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ, thương mại …
- Nhân lực phân theo các dạng thuế thời vụ, các loại lao động nông
nghiệp, lâm nghiệp.
- Cân đối xuất nhập, thu chii và các cân đối khác vào giàng buộc về diện
tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực …
Tóm lại: Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng
tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hố trong điều
kiện thực tiễn của vùng, so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài.


12

Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan: Công tác quy hoạch vùng lãnh
thổ được chú ý từ những năm 1970. Hệ thống quy hoạch được tiến hành theo
3 cấp: (Quốc gia, vùng, á vùng hay địa phương).
Vùng (Region) được coi như một á miền (Subdivision) của đất nước. Đó
là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các phương diện
khác nhau như phân bố dân cư, khí hậu, địa hình… Đồng thời vì lý do quản lý
hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như đơn vị hành chính hay
đơn vị bầu cử. Quy mơ diện tích của một vùng phụ thuộc vào kích thước, diện
tích của đất nước. Thơng thường vùng nằm trên một diện tích lớn hơn đơn vị
hành chính lớn nhất. Sự phân chia các vùng theo mục đích của quy hoạch,

theo đặc điểm của lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo 2 cách:
Thứ nhất: Sư bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng,
những mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch
vùng được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.
Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng,
các kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.
Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,
phải phối hợp với Chính phủ và chính quyền địa phương.
Dự án phát triển của Hoàng gia Thái Lan đã xác định được vùng nơng
nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội và chính trị ở Thái Lam
và tập trung xây dựng ở 2 vùng: Trung tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm
(1961 - 1988 đến 1992 - 1996), tổng dân cư nông thôn trong các vùng nông
nghiệp từ 80% giảm xuống 66,6%, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan
trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư kỹ thuật, nông nghiệp, thị trường.


13

1.2.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [30]: Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy
hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “khoanh khu chặt luân chuyển” có
nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm
của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng
hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi,
chu kỳ khai thác ngắn.
Sau cách mạng công nghiệp, vào đầu thế kỷ XIX phương thức kinh
doanh rừng chồi được thay thế bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu
kỳ khai thác dài. Và phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường
chỗ cho phương thức “chia đều” của Hartig. Hartig đã chia chu kỳ khai thác

thành nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm.
Đến năm 1816 xuất hiện phương pháp phân kỳ lợi dụng của H.Cotta. Cotta
chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế
lượng chặt hàng năm.
Sau đó phương pháp “Bình qn thu hoạch” ra đời. Quan điểm phương
pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời
vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỳ
XIX xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich, phương pháp
này khác với phương pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản. Judeich cho
rằng những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ đưa vào
diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh
tế” chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng
khác nhau. Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp
“Cấp tuổi” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng
phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và
đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh


14

doanh rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài ngun rừng phong
phú. Cịn phương pháp “Lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp
“Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi
lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh.
Cũng từ phương pháp này, cịn phát triển thành “Phương pháp kinh doanh
lơ” và “Phương pháp kiểm tra”.
Năm 1929 bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai trong đó có quy
định nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng
đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xây định các
diện tích cho sử dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí [40]

1.3. Ở Việt Nam
1.3.1. Quy hoạch sử dụng đất
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra “Xúc tiến công tác điều tra
cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất,
nghiên cứu chiến lược kinh tế xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị
cho kế hoạch 5 năm sau (1986 - 1990)
Các tác giả: Phạm Văn Chiểu (1964); Bùi Huy Đáp (1977); Vũ Tuyên
Hoàng (1987); Lê Trọng Cúc (1971); Nguyễn Ngọc Bình (1987); Bùi Quang
Toản (1991) đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về luân canh tăng vụ, trồng
xen, trồng gối vụ với mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai. Bên cạnh
đó những nghiên cứu lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng
đồi núi phía Bắc Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến.
Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và
giao đất lâm nghiệp cấp xã do dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp
thực hiện tại xã Tử Nê, xã Hang Kìa và xã Pà Cị thuộc Tỉnh Hịa Bình. Một
trong những bài học rút ra được qua việc thực thi dự án là công tác quy hoạch
sử dụng đất phải được coi là một nội dung chính và cần được thực hiện trước


15

khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn
vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già
làng, trưởng bản và chính quyền xã. Hạn chế của chương trình này là chưa có
kế hoạch sử dụng chi tiết nên khó tránh khỏi các mâu thuẫn của cộng đồng
phát sinh sau quy hoạch.
Năm 1994, Tổng cục địa chính đã xây dựng kế hoạch và triển khai công
tác quy hoạch sử dụng đất trên quy mơ cả nước giai đoạn 1995 -2000. Trong
đó việc lập kế hoạch giao đất nơng nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng
vào mục đích khác cũng được đề cập tới. Báo cáo đánh giá tổng quát hiện

trạng sử dụng đất và định hướng phát triển đến năm 2000 làm căn cứ để các
địa phương, các ngành thống nhất triển khai công tác lập quy hoạch và kế
hoạch sử dụng đất [21].
Nguyễn Xn Qt (1996), [14] đã phân tích tình hình sử dụng đất đai
và đề xuất mơ hình sử dụng đất tổng hợp bền vững, mơ hình khoanh ni
phục hồi rừng ở Việt Nam. Đồng thời, đưa ra tập đồn cây trồng thích hợp
cho các mơ hình sử dụng đất tổng hợp bền vững trong cơng trình nghiên cứu “
Sử dụng đất tổng hợp và bền vững”.
Các vấn đề sử dụng đất đai gắn liền với bảo vệ độ phì nhiêu của đất và
mơi trường vùng đồi núi trung du phía bắc Việt Nam, đã được Lê Vĩ (1996)
đề cập tới trên các khía cạnh: Tiềm năng đất vùng trung du; Hiện trạng sử
dụng đất vùng trung du; Các kiến nghị về sử dụng đất bền vững.
Tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges (1996) [10], đã thử nghiệm phương
pháp quy hoạch sử dụng đất có người dân tham gia tại Quảng Ninh đã đề xuất
6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong QHSDĐ trong đó cấp xã đóng vai trò
phát triển trong phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: Kết hợp hài
hồ giữa ưu tiên của Chính phủ và nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa
phương; Tiến hành trong khuôn khổ luật định và các nguồn lực hiện có tại địa


16

phương; Đảm bảo tính cơng bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi,
nhóm người nghèo và vai trị của phụ nữ; Đảm bảo tính bền vững; Đảm bảo
nguyên tắc cùng tham gia; Kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng.
Luật đất đai năm 2003 quy định cụ thể về công tác quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất. Điều 21 quy định nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất; Điều 22 quy định căn cứ để lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 23
quy định nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 25 quy định rõ cả 4
cấp hành chính trong cả nước phải lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều

26 quy định về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều
29 thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [16].
Ngày 01/7/2004 Luật đất đai mới chính thức có hiệu lực thi hành. Luật
quy định rõ về công tác quản lý đất đai, trong đó nêu rõ nội dung, cơng tác
quản lý quy hoạch sử dụng đất.
Chính phủ đã ban hành nghị định số 181/2004/NĐ - CP Ngày
29/10/2004 về việc thi hành luật đất đai [7]. Đồng thời Bộ tài nguyên và môi
trường cũng ban hành thông tư số 30/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 về
việc hướng dẫn, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [3].
1.3.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ
Theo các tác giả Nguyễn Nhật Tân - Nguyễn Thị Vòng (1995) [20]:
1.3.2.1. Quy hoạch vùng chuyên canh (Quy hoạch vùng chuyên canh cây trồng)
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên
canh lúa ở đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long, các vùng rau
thực phẩm cho các thành phố lớn, các vùng cây công nghiệp ngắn ngày (hàng
năm): Vùng bông Thuận Hải, vùng đay Hải Hưng, vùng thuốc lá Quảng An
(Cao Bằng), Ba vì (Hà Sơn Bình nay là Hà Nội), Hữu lũng (Lạng Sơn), Nho
Quan (Hà Nam Ninh nay là Ninh Bình), vùng mía Vạn Điểm, Việt Trì, Sơng
Lam, Quảng Ngãi,… Các vùng cây công nghiệp dài ngày (lâu năm): Vùng


17

cao su Sông Bé, Đồng Nai, Buôn Hồ (Đắc Lắc), Chư Pả, Ninh Đức (Gia lai
Kon Tum), vùng chè ở Hoàng Liên Sơn, Mộc Châu, Thái Nguyên, Lâm
Đồng, Gia Lai Kon Tum, vùng dâu tằm Bảo Lộc (Lâm Đồng),…
Quy hoạch vùng chuyên canh có tác dụng: Xác địng phương hướng sản
xuất, chỉ ra những vùng chun mơn hố và những vùng có khả năng hợp tác
quốc tế; Xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp nhà nước tập trung
đầu tư vốn đúng đắn; Xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất

sản phẩm và sản phẩm hàng hoá của vùng, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật phục vụ sản xuất, nhu cầu lao động; Cơ sở để xây dựng kế hoạch phát
triển, nghiên cứu tổ chức quản lý kinh doanh theo ngành và theo lãnh thổ.
Quy hoạch vùng chuyên canh dã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí cơ
cấu cây trồng được chọn với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo hướng
tập trung, để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, sản lượng
và chất lượng sản phẩm cây trồng, đồng thời phân bố các chỉ tiêu nhiệm vụ cụ
thể cho từng cơ sở sản xuất, làm cơ sở cho công tác quy hoạch, kế hoạch của
các cơ sở sản xuất.
Quy hoạch vùng chuyên canh có các nội dung chủ yếu sau: Xác định quy
mơ, ranh giới vùng; Xác định phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất; Bố
trí sử dụng đất đai; Xác định quy mô, ranh giới nhiệm vụ chủ yếu cho các xí
nghiệp trong vùng và tổ chức sản xuất ngành nơng nghiệp; Xác định hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất đời sống; Tổ chức và sử dụng lao
động; Ước tính đầu tư và hiệu quả kinh tế; Dự tính tiến độ thực hiện quy hoạch.
1.3.2.2. Quy hoạch nông nghiệp huyện.
Quy hoạch nông nghiệp huyện được tiến hành ở hầu hết các huyện, là
một quy hoạch ngành bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thủ
công nghiệp và công nghiệp chế biến. Nhiệm vụ chủ yếu của quy hoạch nông
nghiệp huyện: Một là trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện,


18

căn cứ vào dự án phát triển và phân bổ lực lượng sản xuất và phân vùng nông
nghiệp tỉnh (hoặc thành phố) đã được phê duyệt, xác định phương hướng
nhiệm vụ, mục tiêu phát triển nông nghiệp và xây dựng các biện pháp nhằm
thực hiện được các mục tiêu đó theo hướng chun mơn hố, tập trung hố
kết hợp phát triển tổng hợp nhằm thực hiện ba mục tiêu nông nghiệp là giải
quyết lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất

khẩu ổn định. Hai là hoàn thiện phân bổ sử dụng đất đai cho các đối tượng sử
dụng đất nhằm sử dụng đất đai được hiệu quả cao, đồng thời bảo vệ và nâng
cao được độ phì nhiêu cho đất. Ba là tạo điều kiện để ứng dụng các tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất nơng nghiệp. Bồn là tính vốn đầu tư cơ bản và hiệu quả của
sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch.
Nội dung chủ yếu của quy hoạch nông nghiệp huyện: Xác định phương
hướng và mục tiêu phát triển nông nghiệp; Bố trí sử dụng đất đai; Xác định cơ
cấu và quy mơ sản xuất nơng nghiệp (phân chia và tính tốn quy mơ các vùng
sản xuất chun mơn hố, xác dịnh vùng sản xuất thâm canh cao sản, các tổ
chức liên kết nông - công nghiệp, các cơ sở dịch vụ nơng nghiệp, bố trí trồng
trọt, bố trí chăn ni); Tổ chức các cơ sở sản xuất nông nghiệp; Tổ chức công
nghiệp chế biến nông sản và tiểu thủ công nghiệp trong nông nghiệp; Giải
quyết mối quan hệ giữa các ngành sản xuất có liên quan trong và ngồi ngành
nơng nghiệp; Bố trí các cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ nơng nghiệp (thuỷ
lợi, giao thơng, cơ khí, điện, cơ sở dịch vụ thương nghiệp); Tổ chức sử dụng
lao động nông nghiệp, phân bố các điểm dân cư nông thôn; Những cân đối
chính trong sản xuất nơng nghiệp (lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc,
phân bón, vật tư kỹ thuật nơng nghiệp, ngun liệu cho các xí nghiệp chế
biến); Tổ chức các cụm kinh tế xã hội; Bảo vệ môi trường; Vốn đầu tư cơ
bản; Hiệu quả sản xuất và tiến độ thực hiện quy hoạch.


19

Đối tượng quy hoạch nơng nghiệp huyện là tồn bộ đất đai, ranh giới
hành chính huyện.
1.3.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng áp dụng ở nước ta từ thời kỳ pháp
thuộc. Như việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi, điều
chế rừng Thông theo phương pháp hạt đều …

Đến năm 1955 - 1957, tiến hành sơ thám mô tả để ước lượng tài
nguyên rừng. Năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc.
Cho đến năm 1960-1964 công tác quy hoạch lâm nghiệp mới áp dụng ở Miền
Bắc. Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được
tăng cường và mở rộng.
Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra
quy hoạch của các sở Lâm nghiệp (nay là sở nông nghiệp và phát triển nông
thôn) các tỉnh, không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm
nghiệp của các nước cho phù hợp với điều kiện, trình độ tài nguyên rừng ở
nước ta. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch
lâm nghiệp nước ta hình thành và phát triển muộn hơn rất nhiều. Vì vậy, những
nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác
quy hoạch lâm nghiệp chưa được giải quyết triệt để, nên công tác này ở nước ta
đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng [30].
Trong cơng trình “Đất rừng Việt Nam”, Nguyễn Ngọc Bình (1996) [1]
đã đưa ra những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những
đặc điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam.
Năm 1997, Đặng Văn Phụ, Hà Quang Khải [13] trong chương trình tập
huấn hỗ trợ lâm nghiêp xã hội của Trường đại học lâm nghiệp đã đưa ra khái
niệm về hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống, kỹ thuật sử dụng
đất bền vững trong điều kiện Việt Nam. Trong đó các tác giả đã đi sâu phân


20

tích về: Quan điểm về tính bền vững; Khái niệm tính bền vững và phát triển
bền vững; Hệ thống sử dụng đất bền vững; Kỹ thuật sử dụng đất bền vững; Các
chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất.
Tài liệu tập huấn về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự
tham gia của người dân, tác giả Trần Hữu Viên (1997) [31] đã kết hợp

phương pháp quy hoạch sử dụng đất trong nước và của một số dự án Quốc tế
đang áp dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam. Trong đó tác giả đã trình
bầy về khái niệm và nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và giao đất có
người dân tham gia.
Theo Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006-2020
một trong những tồn tại mà Bộ NN&PTNT đánh giá là: “ Công tác quy hoạch
nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ
với quy hoạch của các ngành khác, cịn mang nặng tính bao cấp và thiếu tính
khả thi. Chưa quy hoạch 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết lập được lâm phần
ổn định trên thực địa…”. Đây cũng là nhiệm vụ nặng nề và cấp bách đối với
ngành lâm nghiệp ở nước ta hiện nay [24].
Trong khuôn khổ của chương trình hợp tác kỹ thuật Việt Đức, dự án phát
triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp
quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại hai xã của 2 huyện Yên
Châu (Sơn La) và Tủa Chùa (Điện Biên) trên co sở hướng dẫn của Cục kiểm
lâm. Với cách làm 6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị hành chính để quy
hoạch và giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội với
cộng đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt [19].
1.3.3.1. Đặc điểm của quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Theo Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [30]: Địa bàn quy hoạch bảo vệ
và phát triển rừng rất đa dạng, phức tạp (bao gồm cả vùng ven biển, trung du, núi


21

cao và biên giới, hải đảo), thường có địa hình cao, dốc, chia cắt phức tạp, giao
thơng đi lại khó khăn và có nhiều ngành kinh tế hoạt động.
Là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí
thấp, kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp
nhiều khó khăn.

Đối tượng của cơng tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là rừng và
đất lâm nghiệp, từ bao đời nay là “của chung” của đồng bào các dân tộc,
nhưng thực chất là vô chủ.
Cây lâm nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài (ngắn 8-10 năm, dài từ 40100 năm). Người dân chỉ tự giác bỏ vốn tham gia trồng rừng nếu biết chắc
chắn sẽ có lợi.
Mục tiêu của quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cũng rất đa dạng: Quy
hoạch rừng phòng hộ (phòng hộ đầu nguồn, phịng hộ ven biển, phịng hộ mơi
trường); Quy hoạch rừng đặc dụng (các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên
nhiên, các khu di tích văn hố - lịch sử - danh lam thắng cảnh) và quy hoạch
phát triển các loại rừng sản xuất.
Quy mô của công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng bao gồm cả tầm vĩ
mơ và vi mơ: Quy hoạch tồn quốc, từng vùng lãnh thổ, từng tỉnh, từng huyện, xí
nghiệp, lâm trường, quy hoạch phát triển lâm nghiệp xã và làng lâm nghiệp.
Lực lượng tham gia công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
thường luôn phải lưu động, điều kiện sinh hoạt khó khăn, cơ sở vật chất thiếu
thổn về mọi mặt … Đội ngũ cán bộ xây dựng phương án quy hoạch cũng rất
đa dạng, bao gồm cả lực lượng của trung ương và địa phương, thậm chí các
ngành khác cũng tham gia làm quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp
(nông nghiệp, công an, quân đội …); Trong đó, có một bộ phận được đào tạo
bài bản qua các trường lớp, song phần lớn chỉ dựa vào kinh nghiệm hoạt động
lâu năm trong ngành lâm nghiệp.


22

1.3.3.2. Đối tượng của quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Theo Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [30]: Tuỳ theo phạm vi của
công tác quy hoạch mà đối tượng của cơng tác quy hoạch có thể lớn nhỏ khác
nhau được phân ra hai hệ thống tổ chức khác nhau.
* Quy hoạch cho các cấp quản lý lãnh thổ: Bao gồm diện tích quản lý

theo các đơn vị quản lý hành chính như quy hoạch bảo vệ và phát trin rng
ton quc, quy hoch bảo vệ và phát triển rng cp tnh, quy hoch bảo vệ và
phát triển rng cp huyn v quy hoch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. Nội
dung quy hoạch chủ yếu xuất phát từ toàn bộ, chiếu cố mọi mặt phát triển
kinh tế, đề ra phương hướng và nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh có tính ngun
tắc nhằm phát triển kinh tế lâm nghiệp trong phạm vi cấp quản lý đó.
Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các cấp đơn vị quản lý hành
chính: Từ tồn quốc tới Tỉnh (Thành phố trực thuộc trung ương), huyện
(Thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận) và xã (phường). Để phát phát triển, mỗi
đơn vị đều phải xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các ngành sản xuất và quy hoạch dân cư, phát
triển văn hoá xã hội …
Ở những đối tượng có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch bảo
vệ và phát triển rừng là một vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc phát triển
sản xuất nghề rừng nói riêng và góp phần phát triển kinh tế - xã hội nói chung
trên địa bàn.
- Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng toàn quốc
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng toàn quốc là quy hoạch phát triển
sản xuất lâm nghiệp trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm giải quyết một số
vấn đề cơ bản, bao gồm: Xác định phương hướng nhiệm vụ chiến lược phát
triển lâm nghiệp toàn quốc. Quy hoạch đất đai tài nguyên rừng theo các chức
năng (sản xuất, phòng hộ và đặc dụng). Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và


23

phát triển tài nguyên rừng hiện có. Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh
tự nhiên và trồng rừng), thực hiện nông lâm kết hợp. Quy hoạch lợi dụng
rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ. Quy hoạch tổ chức sản
xuất, phát triển nghề rừng, phát triển lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dung
cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải. Xác định tiến độ thực hiện.

Do đặc thù khác với những nghành kinh tế khác, cho nên thời hạn quy
hoạch lâm nghiệp thường thực hiện trong thời gian 10 năm và các nội dung
quy hoạch được thực hiện tuỳ theo các vùng kinh tế lâm nghiệp.
- Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh giải quyết những vấn đề:
Xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trong phạm vi tỉnh,
trên cơ sở căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, căn cứ quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc đồng thời căn cứ vào điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh. Căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ phát triển
lâm nghiệp của tỉnh, điều kiện đất đai tài nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và
các nhu cầu đặc biệt khác tiến hành quy hoạch đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh
theo ba chức năng: Rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Quy
hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên rừng hiện có. Quy hoạch tái
sinh rừng (bao gồm trồng rừng và tái sinh tự nhiên) và nông lâm kết hợp. Quy
hoạch khai thác lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ. Quy
hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp cho các thành phần kinh tế, phát triển lâm
nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải phục vụ sản
xuất lâm nghiệp, lưu thơng hàng hố và đời sống. Xác định tiến độ thực hiện.
- Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp huyện
Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện về cơ bản các nội dung quy hoạch lâm
nghiệp cũng tương tự như quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh, tuy nhiên nó được


×