Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của Hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.9 KB, 9 trang )

SỰ TƢƠNG THÍCH GIỮA QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ BẢO ĐẢM ĐẦU TƢ VÀ QUY ĐỊNH
CỦA HIỆP ĐỊNH EVIPA VỀ BẢO HỘ ĐẦU TƢ
Ths. Đỗ Phƣơng Thảo
Trƣờng Đại học Thƣơng mại
Tóm lược: Thực hiện kế hoạch năm học 2019-2020 đã được nhà trường phê duyệt từ
đầu năm học, Khoa Kinh tế - Luật tổ chức buổi hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề
“Tác động của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới tới thương mại và đầu tư của Việt
Nam”. Là một giảng viên thuộc bộ môn Luật Chuyên ngành, Khoa Kinh tế - Luật, nh m thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của cá nhân c ng như thực hiện kế hoạch nghiên cứu
khoa học năm học 2019-2020 của khoa, tơi đã tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu và giới thiệu
với hội nghị một trong những vấn đề thuộc chủ đề của hội thảo, đó là: “Sự tương thích giữa
quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA
về bảo hộ đầu tư”. Bài hội thảo đã trình bày về sự cần thiết, bối cảnh ra đời c ng như những
nội dung cụ thể của vấn đề bảo đảm đầu tư được quy định trong hai văn bản nói trên. Từ đó
phân tích và đánh giá những điểm tương đồng và khác biệt nhất định giữa hai văn bản khi
cùng đề cập đến một vấn đề đó là những cam kết của quốc gia tiếp nhận đầu tư đối với một số
quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư. Qua đây, hy vọng bài hội thảo có thể đóng góp
một phần nh bé vào q trình hồn thiện pháp luật đầu tư Việt Nam nói riêng c ng như cải
thiện thể chế đầu tư nói chung trong tiến trình Việt Nam tham gia và phê chuẩn các hiệp định
tự do thế hệ mới trong đó có EVIPA.
Từ khoá: Bảo hộ đầu tư, quốc hữu hoá, trưng dụng, trưng mua
1. Giới thiệu khái quát về Hiệp định EVIPA
Trong những năm vừa qua, hoạt động đối ngoại của nhà nước Việt Nam vẫn luôn
được chú trọng và dành được nhiều thành tựu to lớn, không thể không kể đến hoạt động thu
hút đầu tư nước ngoài mà việc ký kết EVIPA – Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU vào
tháng 6 năm 2019 là một minh chứng rõ rệt nhất cho những nỗ lực không ngừng nhà của nước
để biến Việt Nam trở thành môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn và là hành trình về phương
đơng của các doanh nghiệp EU nói riêng cũng như các doanh nghiệp nước ngồi nói chung.
EVIPA là hiệp định được tách ra từ hiệp định EVFTA(Hiệp định thương mại tự do Việt Nam
và Liên minh Châu Âu) với tên gọi Hiệp định về bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh


Châu Âu được chính thức ký kết vào ngày 30 tháng 6 năm 2019 và ở thời điểm hiện tại, cả hai
hiệp định đều đang trong quá trình chờ phê chuẩn nội bộ của Việt Nam và EU để chính thức
có hiệu lực với hai bên.
Kết cấu của hiệp định EVIPA được xây dựng với 3 phần lớn: (i) Lời nói đầu; (ii) nội
dung cụ thể được thiết kế thành bốn chương với Chương 1 là Mục tiêu và định nghĩa chung,
Chương 2 là Bảo hộ đầu tư, Chương 3 là giải quyết tranh chấp, Chương 4 là các điều khoản
thể chế, các điều khoản chung và các điều khoản cuối cùng; (iii) bên cạnh đó là 12 phụ lục về
1039


các vấn đề chi tiết như: cơ quan có thẩm quyền, biên bản ghi nhớ về trưng dụng, ngoại lệ cho
Việt Nam về đối xử quốc gia, tố tụng trọng tài, nợ cơng, cơ chế hồ giải cho giải quyết tranh
chấp giữa các bên.... Với những cam kết dành sự đối xử cơng bằng, bình đẳng, bảo hộ an tồn
và đầy đủ cho các khoản đầu tư và nhà đầu tư của nhau trong EVIPA sẽ tiếp tục góp phần tích
cực vào việc xây dựng mơi trường pháp lý đầu tư minh bạch, giúp Việt Nam đẩy mạnh hoạt
động thu hút đầu tư từ EU và các quốc gia khác. Đây được đánh giá là một bước tiến lớn
trong quan hệ giữa Việt Nam và EU về hợp tác kinh tế nói chung và hợp tác trong lĩnh vực
đầu tư nói riêng.
Mặc dù khơng thể phủ nhận những cơ hội to lớn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - đầu
tư mà EVIPA mang lại như các thoả thuận về quy tắc đầu tư kinh doanh hiện đại, tiêu chuẩn
cao, minh bạch, khả năng được bảo hộ tốt hơn, an toàn hơn khi các nhà đầu tư tiến hành đầu
tư vào hai khu vực kinh tế này. Tuy nhiên, theo ông Vũ Tiến Lộc – chủ tịch của Phòng
thương mại và cơng nghiệp Việt Nam (VCCI) thì ―Thị trường đã thơng nhưng nếu thể chế
khơng thống, cơ chế trói buộc doanh nghiệp thì sẽ khơng thực sự tạo ra cơ hội cho các nhà
đầu tư trong và ngoài nước”.Như vậy, một vấn đề quan trọng để Việt Nam có thể tận dụng
được một cách tối đa những lợi thế từ EVPIA mang lại với mục tiêu xây dựng môi trường đầu
tư Việt Nam trở thành một trong những điểm đầu tư hấp dẫn, sinh lời cao và là cửa ngõ để các
nhà đầu tư EU tiến vào các thị trường ASEAN đó là phải cải thiện được một thể chế đầu tư
phù hợp tại Việt Nam.
2. Xem xét, đánh giá sự tƣơng thích giữa Luật Đầu tƣ Việt Nam hiện hành về những

vấn đề chung đối với bảo đảm đầu tƣ và quy định về vấn đề này trong Hiệp định EVIPA
Một trong những yếu tố cấu thành nên thể chế đầu tư của một quốc gia nói chung
trong đó có Việt Nam đó chính là các quy định pháp lý về đầu tư. Đây được coi là yếu tố quan
trọng chính yếu và có khả năng cải thiện rõ rệt trong nhóm các yếu tố tạo nên một cơ chế đầu
tư tại một quốc gia hay một vùng lãnh thổ. Từ đó có thể thấy việc đảm bảo sự hài hồ hố
giữa pháp luật đầu tư của Việt Nam với các cam kết trong EVIPA là một yêu cầu cần thiết và
mang tính quyết định ở thời điểm hiện tại. Hiện nay, các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh
về hoạt động đầu tư tại Việt Nam hiện hành bao gồm: nhóm quy phạm pháp luật về các biện
pháp bảo đảm, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư; nhóm quy phạm pháp luật về hoạt động đầu tư trong
nước, nhóm quy phạm pháp luật về hoạt động đầu tư nước ngồi, nhóm quy phạm pháp luật
về các khu vực đầu tư có quy chế pháp lý đặc biệt (Luật Đầu tư 2014 và các văn bản dưới luật
hướng dẫn thi hành). Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài hội thảo quốc gia có giới hạn về
dung lượng, bài viết chỉ xem xét, nghiên cứu và đánh giá sự tương thích giữa quy định của
pháp luật hiện hành về bảo đảm đầu tư tại Việt Nam và bảo hộ đầu tư theo EVIPA. Cụ thể:
Thứ nhất, về tên gọi và vị trí của vấn đề được đề cập trong hai văn bản là Luật Đầu tư
Việt Nam và Hiệp định EVIPA đều có một sự tương đồng nhất định. Theo đó, trong Luật đầu
tư 2014, với tên gọi ―Bảo đảm đầu tư‖ được thiết kế trong những chương đầu tiên của văn bản
luật, cụ thể là chương 2 của Luật Đầu tư 2014 như một sự cam kết của nhà nước Việt Nam về
việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư (bao gồm an tồn về vốn tài sản và
1040


bảo đảm các quyền tự chủ đầu tư) trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh.
Trong khi đó, cũng với một vấn đề này trong Hiệp định EVIPA được kết cấu tại chương 2 và
với tên gọi ―Bảo hộ đầu tư‖. Như vậy là về vị trí cả pháp luật Việt Nam và Hiệp định EVIPA
đều ghi nhận nội dung mang tính thể hiện trách nhiệm của các quốc gia tiếp nhận đầu tư đối
với quyền và lợi ích của nhà đầu tư trong những nội dung đầu tiên của văn bản. Điều này, thể
hiện sự cần thiết, tầm quan trọng của nội dung ghi nhận và bảo đảm sự an tồn, bình đẳng của
các nhà đầu tư trong cả văn kiện quốc gia cũng như văn kiện quốc tế. Ngoài ra, mặc dù giữa
Hiệp định và Luật Đầu tư Việt Nam hiện hành có sử dụng tên gọi với hai thuật ngữ khác nhau

là ―bảo đảm‖ và ―bảo hộ‖ để đề cập đến những cam kết của mình với hoạt động đầu tư của
nhà đầu tư nhưng hai thuật ngữ này có cùng nội hàm, đó là đều thể hiện sự cam kết của các
chủ thể mang quyền lực nhà nước trong việc tạo ra và duy trì những điều kiện thuận lợi, cơng
bằng, an tồn và thoả đáng đầu tư cho các nhà đầu tư mang các quốc tịch khác nhau. Có như
vậy, mới tạo được sự an tâm, vững tin cho các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư vào Việt Nam
hoặc EU để tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Thứ hai, nhìn chung về các nội dung của vấn đề bảo đảm đầu tư trong Luật Đầu tư
Việt Nam và bảo hộ đầu tư trong hiệp định EVIPA cũng đảm bảo những sự phù hợp nhất
định. Minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định này đó là nội dung của những biện pháp bảo
đảm đầu tư tại Việt Nam bao gồm các quy định về: bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu
tư(điều 9 Luật Đầu tư 2014), bảo đảm quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư(Điều 10 Luật
Đầu tư 2014), bảo đảm quyền chuyển lợi nhuận của nhà đầu tư ra nước ngoài (Điều 11 Luật
Đầu tư 2014), bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh của chính phủ đối với một số dự án(Điều 12
Luật Đầu tư 2014), bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có sự thay đổi pháp luật(Điều 13
Luật Đầu tư 2014), bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp đối với các nhà đầu tư (Điều 14
Luật Đầu tư 2014). Và những nội dung tương tự như vậy nhưng được thiết kế trong các điều
luật mang các tên gọi khác nhau và cách diễn đạt khơng hồn toàn đồng nhất là những cam
kết của Hiệp định EVIPA, bao gồm: Phạm vi(2.1 EVIPA), Đầu tư và Biện pháp quản lý và
Mục tiêu(2.2 EVIPA), Nguyên tắc đối xử quốc gia(2.3 EVIPA), Nguyên tắc đối xử tối huệ
quốc(2.4 EVIPA), Đối xử đầu tư(2.5 EVIPA), Bồi thường thiệt hại(2.6 EVIPA), Trưng
dụng(2.7 EVIPA), Chuyển tiền(2.8 EVIPA), Thế quyền(2.9 EVIPA). Như vậy có thể thấy các
cam kết cụ thể của EVIPA về bảo hộ đầu tư và các biện pháp bảo đảm đầu tư trong luật Đầu
tư 2014 của Việt Nam là khá tương thích với nhau. Có thể chỉ ra các quy định về bảo đảm
quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư hiện diện trong những cam kết về nguyên tắc đối
xử Quốc gia (NT) và nguyên tắc đối xử tối huệ quốc(MFM) và nguyên tắc đối xử đầu tư trong
Hiệp định. Thông qua các quy định này, các nhà đầu tư từ Việt Nam hay EU không phân biệt
quốc tịch đều được nhà nước Việt Nam đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh của mình: đó
là quyền tự do lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, địa bàn, phương thức kinh doanh,
lựa chọn đối tác, lựa chon nguồn cung cấp nguyên liệu, linh phụ kiện...Bên cạnh đó, là những
quy định mang tính thừa nhận trường hợp có thể trong q trình kinh doanh của nhà đầu tư,

chính sách hoặc pháp luật đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư có thể có sự thay đổi nhất định
1041


trong điều 2.2 của Hiệp định là một trong những nội dung được ghi nhận trong điều 13 Luật
Đầu tư 2014 của Việt Nam. Về vấn đề này, những quy định hiện hành của Việt Nam phần nào
cịn có sự cụ thể và chi tiết hơn khi đưa ra ―hứa hẹn‖ về quyền lợi của nhà đầu tư sẽ được đảm
bảo theo hướng hạn chế tối đa những rủi ro, thiệt hại cho các nhà đầu tư khi pháp luật có sự
thay đổi về ưu đãi đầu tư đối với họ. Ngoài ra, trong hiệp định EVIPA cũng ghi nhận những
trường hợp vì sức khoẻ cộng đồng, an tồn hoặc vì bảo vệ người tiêu dùng, bảo đảm đạo đức
xã hội như là những ngoại lệ cần phải hiện diện trong Hiệp định trong việc thực thi các cam
kết của các bên của Hiệp định EVIPA. Đồng thời những ngoại lệ tương tự như vậy cũng tồn
tại trong Luật Đầu tư năm 2014 của Việt Nam trong một số trường hợp nhất định như khi nhà
nước quyết định việc trưng mua tài sản của nhà đầu tư(điều 9 Luật Đầu tư 2014), bồi thường
cho nhà đầu tư khi bị thiệt hại khi bị tác động bởi sự thay đổi của pháp luật...
3. Nghiên cứu, phân tích sự tƣơng thích giữa những quy định cụ thể về các cam kết bảo
hộ đầu tƣ trong Hiệp định EVIPA và Luật đầu tƣ Việt Nam năm 2014
Bên cạnh đó, xem xét một số cam kết cụ thể của Hiệp định EVIPA và Luật Đầu tư
2014 về quy định liên quan đến vấn đề đảm bảo an toàn về tài sản, vốn của nhà đầu tư cũng
như vấn đề đảm bảo quyền chuyển lợi nhuận của nhà đầu tư ra nước ngồi có thể thấy hai văn
bản có những nét tương đồng và khác biệt nhất định.(i) Cụ thể, quy định về cam kết đảm bảo
an toàn tài sản cho các nhà đầu tư trong EVPIA và Luật Đầu tư 2014 của Việt Nam như sau:
Theo quy định tại điều 9 Luật Đầu tư 2014, hoạt động đầu tư kinh doanh được bắt đầu bằng
việc nhà đầu tư phải tiến hành ―bỏ vốn‖ hay nói cách khác là phải ―sử dụng một lượng tài
sản‖ của mình để tìm kiếm một lợi ích lớn hơn trong tương lai. Vậy thì vấn đề nhà đầu tư
quan tâm hàng đầu trong trường hợp này là khối tài sản mà mình đem đi ―đầu tư‖ có ln
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình hay khơng?(trừ những trường hợp hoạt động đầu tư
được tiến hành không hiệu quả nhà đầu tư phải dùng tài sản của mình để trả nợ). Đây cũng là
một nhu cầu hồn tồn chính đáng của nhà đầu tư xuất phát từ bản chất của chế độ tư hữu tài
sản, bất kỳ chủ thể nào trong xã hội không riêng các nhà đầu tư khi tích luỹ được một khối tài

sản nhất định đều có nhu cầu được bảo vệ và phát triển khối tài sản này. Đặc biệt khác với các
chủ thể khác, các chủ đầu tư lại sử dụng khối tài sản này để bắt đầu hoạt động đầu tư kinh
doanh thì nhu cầu này lại càng trở nên bức thiết bởi lẽ khối tài sản này sẽ được đưa vào lưu
thông trong nền kinh tế với khả năng gặp rủi ro là khá cao.
Tuy nhiên, nếu chỉ với mục đích được cơng nhận quyền sở hữu tài sản nói chung trước
các chủ thể khác trong xã hội thì chỉ cần sử dụng các quy định của hệ thống pháp luật Dân sự
là nhà đầu tư có thể thiết lập một cơ chế bảo vệ khá hữu hiệu cho mình. Vấn đề đặt ra ở đây là
hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư luôn được xác định bằng hành vi ―tạo lập tài sản‖
trong một lãnh thổ, địa bàn đầu tư nhất định. Do đó, xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc
gia với nội dung là mỗi một nhà nước có tồn quyền định đoạt tối cao trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia mình, bao gồm cả với cơng dân và tài sản của cơng dân. Vì vậy, tài sản của nhà đầu
tư tạo lập được trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh cũng khơng phải là một
ngoại lệ trong tình huống này.
1042


Trong những trường hợp nhất định, nhà nước tiếp nhận đầu tư có tồn quyền quyết
định đối với tài sản của nhà đầu tư nói riêng cũng như tài sản của các chủ thể khác nói chung
trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia của mình. Thậm chí có trường hợp quốc gia tiếp nhận
đầu tư cịn có quyền tun bố biến tài sản thuộc sở hữu của nhà đầu tư thành tài sản thuộc sở
hữu của nhà nước thông qua thủ tục ―quốc hữu hố‖. Và khơng phải trường hợp nào các nhà
đầu tư bị tuyên bố quốc hữu hố tài sản cũng được đền bù kinh phí từ phía nhà nước thực hiện
quy trình đặc biệt này. Như vậy, nhà đầu tư có thể sẽ ―mất trắng‖ tài sản đầu tư của mình khi
bị nhà nước tiếp nhận đầu tư ―tịch thu‖ hay ―sung công‖ tài sản. Từ đây có thể thấy bên cạnh
những nguy cơ xâm hại quyền sở hữu tài sản từ các chủ thể khác trong xã hội thì bản thân các
nhà đầu tư lại phải đối mặt với một nguy cơ rất lớn là gặp rủi ro thiệt hại toàn bộ tài sản đầu
tư trong kinh doanh đến từ chính các quốc gia tiếp nhận đầu tư thơng qua q trình thực thi
quyền lực tuyệt đối của mình trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Thực tế cũng không hiếm những trường hợp các quốc gia trên thế giới đã thực hiện
quá trình quốc hữu hố này, có thể kể đến trường hợp của các cơng ty khai thác và chế biến

dầu của nước ngồi bị chính phủ Mexico tun bố quốc hữu hố vào năm 1938 ; các trường
hợp trưng thu tài sản của tư nhân của các nước Đông Âu sau thế chiến thứ hoặc quá trình tịch
thu tài sản nhà đầu tư nước ngoài của các quốc gia đang phát triển trong q trình thuộc địa
hố35. Một trường hợp điển hình gần đây là của chính phủ Argentina khi tuyên bố quốc hữu
hố cơng ty YPF – cơng ty xăng đầu lớn nhất đất nước này vào năm 2012. Được biết trước
khi bị quốc hữu hố cơng ty YPF do một cơng ty của Tây Ban Nha là Repsol nắm giữ phần
lớn cổ phần và sau khi tuyên bố này của chính phủ Argentina thì số cổ phần mà cơng ty này
nắm giữ giảm xuống chỉ còn khoảng 1/10 so với ban đầu. Việc này đã gây ra những căng
thẳng nhất định cho hai quốc gia trong quan hệ kinh tế trong một thời gian dài, thậm chí Tây
Ban Nha cịn tiến hành các biện pháp trả đũa kinh tế và yêu cầu phía Argentina phải đền bù
cho Repsol36. Như vậy có thể thấy, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác thì việc thực hiện q
trình quốc hữu hố cũng sẽ gây ra những thiệt hại nhất định cho những nhà đầu tư là đối
tượng của chiến địch này.
Chính vì vậy để làm yên lòng các nhà đầu tư cũng như thể hiện sự thiện chí của mình
đối với họ, các quốc gia tiếp nhận đầu tư trong đó có Việt Nam ln thiết kế các quy định
mang tính cam kết bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các nhà đầu tư với nội dung ―khơng
quốc hữu hố hoặc tịch thu tài sản hợp pháp của nhà đầu tư b ng biện pháp hành chính‖37.
Với cam kết này, các nhà đầu tư vào Việt Nam hoàn toàn yên tâm về việc tài sản hợp pháp
của họ sẽ không bị nhà nước Việt Nam biến thành tài sản quốc gia thông qua các biện pháp
hành chính. Và như vậy, nguy cơ rủi ro ở mức độ cao nhất là ―mất trắng‖ toàn bộ tài sản của
nhà đầu tư vào tay nhà nước là bằng không nếu như tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam. Tiếp theo đó, kể cả trong những trường hợp ―vì lý do quốc phịng an ninh‖ hoặc ―vì
35

A.Lowenfeld(2002), International Economic Law, Oxford University Press
/>37
Khoản 1 điều 9 Luật Đầu tư 2014
36

1043



lợi ích quốc gia‖ hay ―trong những tình trạng khẩn cấp‖ thì tài sản của nhà đầu tư cũng chỉ bị
nhà nước Việt Nam ―trưng mua, trưng dụng‖ và trong tình huống này nhà đầu tư sẽ được
―thanh tốn, bồi thường theo quy định của pháp luật trưng mua, trưng dụng tài sản và quy
định khác của pháp luật có liên quan” (khoản 2 điều 9 Luật Đầu tư 2014). Như vậy, tài sản
thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư chỉ có khả năng bị xâm hại thơng qua quy trình ―trưng
mua, trưng dụng‖ cuả nhà nước với một sự đền bù kinh phí thoả đáng theo quy định của pháp
luật. Quan trọng hơn, khả năng này cũng rất hạn chế xảy ra khi lý do để tiến hành ―trưng mua,
trưng dụng‖ cũng chỉ được quy định hạn hẹp trong một số trường hợp nhất định. Ngoài ra,
biện pháp bảo đảm đầu tư này là một sự hứa hẹn, cam kết dành cho tất cả các nhà đầu tư có
hoạt động đầu tư theo pháp luật Việt Nam, không phân biệt quốc tịch cũng như nguồn gốc tài
sản đầu tư của nhà đầu tư.
Về vấn đề này, quy định của EVIPA cũng có những nội dung tương tự như Luật Đầu
tư 2014 của Việt Nam khi khẳng định ―Một Bên khơng được quốc hữu hóa hoặc trưng dụng
các khoản đầu tư được bảo hộ của các nhà đầu tư của Bên kia trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua các biện pháp tương đương với quốc hữu hóa hoặc trưng dụng (sau đây gọi là “trưng
dụng”), ngoại trừ: (a) vì mục đích cơng cộng; (b) được thực hiện thơng qua quy trình hợp
pháp;(c) dựa trên cơ sở khơng phân biệt đối xử; và(d) được bồi thường nhanh chóng, đầy đủ
và hiệu quả‖38. Vậy là theo Hiệp định, các bên bao gồm Việt Nam và EU không được phép
tiến hành biện pháp ―quốc hữu hoá‖ hoặc bất kỳ biện pháp gì có tính chất tương tự đối với tài
sản hoặc những khoản đầu tư của nhà đầu tư phía bên kia để bảo đảm sự an toàn về tài sản
của họ. Tuy nhiên trong một số trường hợp ngoại lệ khẩn cấp hoặc vì những lợi ích to lớn
mang tính cộng đồng thì nhà nước tiếp nhận đầu tư có thể sử dụng biện pháp trưng dụng
nhưng phải đảm bảo quy trình theo quy định của pháp luật, đối xử công bằng và đảm bảo bồi
thường cho nhà đầu tư một cách kịp thời và thoả đáng…
Bên cạnh những điểm tương đồng trong việc đảm bảo quyền sở hữu tài sản của nhà
đầu tư trước quyền tuyên bố trưng dụng tài sản của quốc gia tiếp nhận đầu tư thì vẫn có nét
khác biệt giữa quy định của Hiệp định EVIPA so với Luật Đầu tư 2014 của Việt Nam như
sau: (1) Một là quy định về vấn đề bồi thường cho nhà đầu tư khi nhà nước tiếp nhận đầu tư

thực hiện quyền trưng dụng tài sản của nhà đầu tư trong những trường hợp vì mục đích cơng
cộng trong Hiệp định EVIPA cụ thể và chi tiết hơn Luật Đầu tư 2014, cụ thể: Trong EVIPA
quy định rõ ràng và chi tiết là nhà đầu tư sẽ được nhận khoản bồi thường ―b ng giá trị thực
của khoản đầu tư được bảo hộ ngay trước khi bị trưng dụng hoặc trước khi nguy cơ bị trưng
dụng trở nên công khai, tuỳ trường hợp nào xảy ra trước, các khoản bồi thường như vậy c ng
bao gồm cả lãi suất tính theo lãi suất thương mại thơng thường cho tới ngày thanh toán.
Khoản bồi thường như vậy được thực thi một cách hiệu quả, tự do chuyển nhượng phù hợp
với Điều 2.8 (Chuyển nhượng)của Hiệp định và được thực hiện không chậm tr .39 Như vậy là
38
39

Khoản 1 điều 2.7 về Trưng Dụng của Hiệp định EVIPA
Khoản 2 điều 2.7 về Trưng Dụng của Hiệp định EVIPA

1044


so với Luật Đầu tư 2014 về vấn đề bồi thường thiệt hại khi tài sản của nhà đầu tư bị trưng
dụng, Hiệp định EVIPA có đề cập một cách cụ thể, chi tiết hơn về quyền của nhà đầu tư được
nhận thêm ―lãi suất tính theo lãi suất thương mại‖ bên cạnh khoản bồi thường mà nhà nước
tiếp nhận đầu tư phải chi trả. Mặc dù, quy định cụ thể về trường hợp, thẩm quyền, quy trình,
điều kiện trưng mua trưng dụng tài sản của nhà nước Việt Nam được xây dựng trong Luật
Trưng mua, trưng dụng năm 2008 nhưng cũng khơng tính đến quyền nhận lãi suất cho nhà
đầu tư như trong Hiệp định. (2) Hai là, trong Hiệp định có đề cập đến trường hợp cấp ly xăng
cưỡng bức về quyền sở hữu trí tuệ là một trường hợp ngoại lệ của quyền trưng dụng của nhà
nước tiếp nhận đầu tư ―Việc cấp li-xăng cưỡng bức liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ khơng
tạo thành hành vi trưng dụng trong phạm vi khoản 1, mi n là việc cấp li-xăng phù hợp với
Hiệp định các khía cạnh liên quan thương mại của quyền sở hữu trí tuệ trong Phụ lục 1C của
Hiệp định WTO (sau đây gọi là “Hiệp định TRIPS”).40 Theo quy định này, yêu cầu nhà đầu
tư cấp ly xăng cưỡng bức để chuyển giao quyền sử dụng quyền sở hữu trí tuệ trong những

trường hợp khẩn cấp hoặc vì mục đích cộng đồng, mục đích quốc gia sẽ khơng được coi một
trường hợp của Trưng dụng tài sản, nghĩa là sẽ không tuân theo những quy định về điều kiện,
quy trình mà Hiệp định đã đề cập. Cam kết này là hoàn toàn cần thiết đối với loại tài sản đặc
thù như quyền hữu trí tuệ, bởi lẽ tài sản này được điều chỉnh theo quy định của Hiệp định
TRIPs thuộc khuôn khổ những cam kết trong WTO để đảm bảo tính đặc trưng bản chất của
tài sản. Hay nói cách khác, quyền sở hữu trí tuệ với những khác biệt rõ rệt với tài sản thơng
thường do đó khơng thể xác lập một quy chế trưng dụng của nhà nước giống như các loại tài
sản hữu hình khác được. Điều này có thể sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền của nhà nước tiếp
nhận đầu tư và gây thiệt hại nhất định cho nhà đầu tư bị yêu cầu cấp ly xăng cưỡng bức tài
sản sở hữu trí tuệ.
(ii) Về quy định đối với vấn đề chuyển tài sản của nhà đầu tư ra nước ngồi trong q
trình tiến hành hoạt động đầu tư, Hiệp định quy định như sau: ―Mỗi Bên phải cho phép việc
chuyển tiền liên quan đến khoản đầu tư được bảo hộ b ng bất kỳ đồng tiền tự do chuyển đổi
nào, mà khơng có hạn chế hay sự chậm tr nào và với tỉ giá thị trường hối đoái vào thời điểm
chuyển đổi. Việc chuyển tiền bao gồm:
(a) góp vốn, ví dụ vốn ban đầu hoặc vốn góp thêm để duy trì, phát triển hoặc tăng
khoản đầu tư;
(b) lợi nhuận, cổ tức, thu nhập từ vốn hoặc các nguồn thu khác từ việc bán toàn bộ
hay một phần khoản đầu tư hoặc từ việc thanh khoản một phần hay toàn bộ khoản đầu tư;
(c) các khoản thanh tốn tiền lãi, tiền bản quyền, phí quản lý, và hỗ trợ kỹ thuật và
các khoản phí khác;
(d) các khoản thanh toán theo một hợp đồng do nhà đầu tư ký kết hoặc khoản đầu tư
được bảo hộ, bao gồm các khoản thanh toán th a thuận vay;

40

Khoản 4 điều 2.7 về Trưng Dụng của Hiệp định EVIPA

1045



(e) thu nhập và khoản thù lao khác của nhân sự làm việc ở nước ngồi và có liên quan
đến khoản đầu tư;
(f) các khoản thanh toán căn cứ vào Điều 2.6 (Bồi thường thiệt hại) và Điều 2.7
(Trưng dụng); và
(g) các khoản thanh toán thiệt hại căn cứ vào phán quyết theo Mục B (Giải quyết
Tranh chấp giữa Nhà đầu tư và các Bên) của Chương 3 (Giải quyết tranh chấp)”41. Trong khi
đó, Luật Đầu tư 2014 của Việt Nam quy định ―Sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối
với Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật, nhà đầu tư nước ngoài được chuyển ra
nước ngoài các tài sản sau đây:
1. Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư;
2. Thu nhập từ hoạt động đầu tư kinh doanh;
3. Tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư.‖42
Như vậy, về vấn đề này Hiệp định đề cập đến quyền của nhà đầu tư liên quan đến vấn
đề chuyển tiền có phạm vi rộng hơn so với quy định của Luật Đầu tư 2014. Theo đó, Hiệp
định quy định quyền của nhà đầu tư đối với tiền thuộc sở hữu hợp pháp của họ đối một cách
tự do định đoạt nó dưới dạng ―góp vốn, chuyển lợi nhuận, chuyển tiền thanh toán, thu nhập
dưới dạng thù lao, thanh toán thiệt hại….‖. Trong khi đó, Luật Đầu tư năm 2014 chỉ đề cập
đến việc chuyển lợi nhuận và tài sản của nhà đầu tư ra nước ngoài sau khi đã thực hiện xong
nghĩa vụ tài chính với nhà nước Việt Nam. Mặc dù, về vấn đề này quy định của Luật Đầu tư
hiện hành Việt Nam và Hiệp định có phạm vi rộng hẹp khác nhau nhưng vẫn gặp nhau ở một
điểm đó là cùng đề cập đến quyền tự do chuyển lợi nhuận và tài sản của nhà đầu tư nước
ngồi ra nước ngồi.
4. Kết luận
Tóm lại sau khi xem xét, nghiên cứu về sự tương thích giữa các quy định của Luật
Đầu tư Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và các cam kết của EVIPA về bảo hộ đầu tư có
thể nhận thấy những sự tương đồng và những điểm khác biệt nhất đinh. Tuy có những nội
dung khơng hồn tồn đồng nhất giữa hai văn bản nhưng xét một cách toàn diện những điểm
tương đồng vẫn là chủ yếu. Điều đó cho thấy kỹ năng cũng như tư duy lập pháp của Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập đã có những bước tiến bộ đáng kể, rõ rệt, ngày càng phù hợp với thông

lệ quốc tế và tư duy lập pháp của của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù vậy,
trong tương lai khi có điều kiện thích hợp, chúng ta vẫn nên có sự sửa đổi, bổ sung các quy
định hiện hành của Việt Nam về vấn đề trên để có thể góp phần hồn thiện một thể chế đầu tư
để từ đó có thể tận dụng tối đa các cơ hội mà EVIPA mang lại trong quá trình tạo lập một mơi
trường đầu tư hồn chỉnh. Cụ thể, nên bổ sung vào Luật về trưng mua, trưng dụng hiện hành
của Việt Nam các quy định về việc tính lãi suất đối với khoản tiền bồi thường cho nhà đầu tư
trong trường hợp tài sản của họ bị nhà nước Việt Nam tuyên bố trưng mua, trưng dụng ( có
thể tham khảo quy định vấn đề này trong EVIPA). Ngoài ra, trong quy định về vấn đề thực
41
42

Điều 2.8 Hiệp định EVIPA
Điều 11 Luật Đầu tư 2014

1046


hiện quyền trưng mua, trưng dụng có thể bổ sung quy định về các quy trình thủ tục khác nhau
cho các loại tài sản khác nhau của nhà đầu tư để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhà
đầu tư được bảo vệ triệt để nhất kể cả trong bối cảnh nhằm thực hiện những lợi ích mang tính
quốc gia cơng cộng. Thiết nghĩ, nếu làm được như vậy sẽ góp phần xây dựng được một thể
chế đầu tư hồn thiện, giúp mơi trường đầu tư Việt Nam thực sự trở thành một cửa ngõ đầu tư
phương đông ―vừa thơng vừa thống, vừa an tồn vừa hiệu quả‖.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.

7.

Hiệp định EVIPA
Luật Đầu tư 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Trưng mua, trưng dụng năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành
Giáo trình Luật Đầu tư của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2015
A.Lowenfeld(2002), International Economic Law, Oxford University Press
/> />
NGHIÊN CỨU CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẦU TƢ TRONG HIỆP ĐỊNH
ĐỐI TÁC TỒN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUN THÁI BÌNH DƢƠNG (CPTPP) –
SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ VIỆT NAM
Ths. Phùng Bích Ngọc
Trƣờng Đại học Thƣơng mại
Tóm lược: Việc triển khai CPTPP và EVFTA là bước đi quan trọng thúc đẩy đa dạng
hoá thị trường, mở rộng đối tác cho Việt Nam. Trong lĩnh vực thu hút FDI43, Việt Nam sẽ có
cơ hội đón nhận dịng vốn FDI “chất lượng cao” của các nước thành viên CPTPP như Nhật
Bản, Canada. Quy định liên quan tới đầu tư trong CPTPP được đánh giá là có tác động lớn
trong việc thu hút đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Do vậy, trọng tâm của
bài viết là khái quát các quy định của CPTPP về đầu tư; đánh giá quy định về nguyên tắc đầu
tư và cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư trong CPTPP với các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành để từ đó đưa ra một số giải pháp cho Việt Nam sao cho phù hợp với các
quy định trong CPTPP nh m tạo ra một môi trường đầu tư được bảo đảm tồn diện.
Từ khố: Đầu tư kinh doanh, đầu tư trong CPTPP.

43

Foreign Direct Investment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài)

1047




×