Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Một số ảnh hưởng của các Hiệp định thương mại tự do tới việc bảo đảm quyền của nhóm xã hội yếu thế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.24 KB, 8 trang )

MỘT SỐ ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO
TỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NHÓM XÃ HỘI YẾU THẾ Ở VIỆT NAM
Ths. Đinh Thị Ngọc Hà
Trƣờng Đại học Thƣơng Mại
Tóm lược: Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế, thực hiện chính
sách mở cửa, hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế, Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định
thương mại tự do cả song phương và đa phương với nhiều đối tác. Việc tham gia các Hiệp
định thương mại tự do đặc biệt là các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là cơ hội để
phát triển nền kinh tế nước ta nhưng cũng đem lại những tác động hai chiều trên nhiều mặt
của đời sống xã hội đặc biệt là vấn đề nhân quyền nói chung và quyền của nhóm xã hội yếu
thế nói riêng. Bài viết sẽ phân tích khái quát về một số tác động tích cực và tiêu cực đến việc
bảo đảm các quyền của nhóm xã hội yếu thế đồng thời đưa ra một số ý kiến nhằm phát huy
những yếu tố tích cực và hạn chế những yếu tố tiêu cực của các Hiệp định thương mại tự do
góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền của nhóm xã hội yếu thế
trong bối cảnh tự do hóa thương mại tồn cầu hiện nay.
Từ khóa: Nhóm xã hội yếu thế, hiệp định thương mại tự do, quyền, ảnh hưởng…
1. Khái quát về các hiệp định thƣơng mại tự do và mối quan hệ của thƣơng mại tự do
với việc bảo đảm quyền của nhóm xã hội yếu thế
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, sau giai đoạn mở c a theo chiều rộng bằng
việc gia nhập và thực thi các cam kết WTO, Việt Nam đã bước sang giai đoạn hội nhập theo
chiều sâu, với việc đàm phán, k kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA). Về số
lượng các Hiệp định thương mại tự do được ký kết, Việt Nam nằm trong top giữa của các
nước ASEAN đồng thời đứng thứ hai về số lượng các Hiệp định đầu tư song phương (BIT) đã
ký kết38. Tính tới thời điểm 7/2019, Việt Nam đã có tổng cộng 12 FTA đang có hiệu lực, 01
FTA đã k , và 03 FTA đang trong quá trình đàm phán. Với số lượng này, Việt Nam nằm
trong tốp các nền kinh tế có nhiều FTA nhất trong khu vực và trên thế giới39.
Theo cách hiểu chung nhất, FTA là th a thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ nhằm mục đ ch tự do hóa thương mại bằng việc c t giảm thuế quan, tạo điều kiện
thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ, xúc tiến và tự do hóa đầu tư, chuyển giao công nghệ,
lao động, môi trường… Về cơ bản, các FTA được kỳ vọng là sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia như: tăng nguồn vốn đầu tư, tạo nhiều


việc làm, tạo nhiều cơ hội để phát huy các lợi thế so sánh hiện có, tăng cường kiến thức công
nghệ và quản lý hiện đại, khả năng tiếp cận thị trường hàng hóa, dịch vụ đa dạng, chất
lượng… Khơng ch các dịng thương mại, các FTA còn ảnh hưởng đến các dòng vốn đầu tư
PGS.TS Phan Văn Rân (chủ biên),Hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay vấn đề và giải pháp đột phá, NXb
L luận ch nh trị, Hà Nội, 2018, trang 119.
39
truy cập ngày 30/1/2020
38

382


trực tiếp nước ngoài (FDI). Thực tế của các FTA đang hoạt động đã chứng minh điều này khi
FDI không những tăng lên giữa các nước ký kết với nhau mà cịn có tác động thu hút nhiều
hơn FDI t các nước không phải thành viên của FTA. Bên cạnh đó, đặc biệt là đối với các
FTA thế hệ mới cịn có nhiều quy định các vấn đề thể chế, chính sách pháp luật sau đường
biên giới… sẽ tạo điều kiện và động lực cơ hội để thay đổi, cải thiện chính sách và pháp luật
theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Đồng thời điều đó
c ng góp phần kiện tồn hơn bộ máy nhà nước theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính,
tăng cường trách nhiệm, kỷ cương kỷ luật của cán bộ, t đó, hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mơ
hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam40. Tất cả những yếu tố đó sẽ góp
phần thúc đẩy các nền kinh tế phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
dân t đó nâng cao khả năng đảm bảo các quyền con người nói chung và quyền của nhóm xã
hội yếu thế nói riêng tốt hơn tại tất cả các quốc gia thành viên của FTA.
2. Một số tác động tích cực của các hiệp định thƣơng mại tự do tới việc bảo đảm quyền
của nhóm xã hội yếu thế
Trên thực tế, chưa có định nghĩa ch nh thức được th a nhận về nhóm xã hội yếu thế
(nhóm dễ bị tổn thương) nhưng những cụm t này lại được s dụng rất nhiều trong các tài liệu
thuộc nhiều thể loại và nhiều lĩnh vực nghiên cứu. Theo định nghĩa của UNESCO, nhóm yếu
thế bao gồm: những người ăn xin, nạn nhân của các loại tội phạm, người tàn tật, thanh thiếu

niên có hồn cảnh khó khăn, nhóm giáo dục đặc biệt, người cao tuổi, người nghèo, tù nhân,
gái mại dâm, người thất nghiệp, người lang thang cơ nhỡ, người tị nạn, người xin tị nạn,
người bị xã hội loại tr , người nghèo… Trong một số nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay cịn
tính cả đến nạn nhân chiến tranh, đặc biệt là nạn nhân chất độc da cam, nạn nhân bị bạo lực
gia đình, nạn nhân bị quấy rối và lạm dụng tình dục, nạn nhân bn bán người, các đối tượng
m c bệnh xã hội, trẻ em bị ảnh hưởng của HIV/AIDS…41
Luật nhân quyền quốc tế c ng xác định những nhóm sau đây là nhóm đối tượng dễ bị
tổn thương (nhóm xã hội yếu thế) ở những mức độ, cấp độ, góc độ khác nhau: phụ nữ; trẻ em;
người khuyết tật (thể chất, tâm thần); người thiểu số, bản địa; người nước ngồi, người khơng
quốc tịch; người tị nạn và tìm kiếm các quy chế tị nạn; người lao động di trú; người bị tước tự
do, tù nhân; tù binh chiến tranh, dân thường trong vùng chiến tranh hoặc vùng bị lực lượng
quân sự nước ngồi chiếm đóng; người già; người đồng t nh…42
Như vậy, có thể nói, nhóm xã hội yếu thế là những nhóm xã hội đặc biệt, có hồn cảnh
khó khăn hơn, có vị thế xã hội thấp kém hơn so với với các nhóm xã hội bình thường. Do
nhiều ngun nhân khác nhau về thể chất, tinh thần, tâm l , điều kiện, hoàn cảnh sống, nghề
nghiệp, sự kỳ thị của xã hội… những người thuộc nhóm xã hội yếu thế gặp phải nhiều khó
40

truy cập ngày 1/2/2020
41
Nguyễn Văn Quyết & Phạm Anh Tuấn (2012), Nhà nước Việt Nam với cơng tác hỗ trợ nhóm yếu thế, Kỷ yếu
hội thảo ngày công tác xã hội thế giới
42
V Công Giao (2014), Khoa Luật ĐHQG Hà Nội, Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự,
NXB ĐHQG, trang 14.
383


khăn, thách thức khi hòa nhập vào đời sống cộng đồng, tiếp cận và s dụng các nguồn tài
nguyên, các phương tiện sống thiết yếu hay các dịch vụ xã hội cần thiết như các thành viên

bình thường khác của xã hội. Mặc dù phần lớn các quốc gia tiến bộ đều tôn trọng nguyên t c
mọi cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật song so với các các nhóm xã hội khác, những đối
tượng thuộc nhóm xã hội yếu thế có xuất phát điểm thấp hơn nên nếu bình đẳng theo kiểu cào
bằng (các quyền và nghĩa vụ của nhóm xã hội yếu thế c ng tương đương với các nhóm xã hội
khác) thực chất là bất bình đẳng với nhóm xã hội yếu thế43. Do đó nhà nước và pháp luật của
mỗi quốc gia đều cần có những cách thức, biện pháp, quy định để giúp đỡ, bảo vệ các nhóm
xã hội yếu thế, làm cho họ c ng có cơ hội để hịa nhập cộng đồng như các thành viên bình
thường khác của xã hội. Việc bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế khơng ch là trách
nhiệm của mỗi nhà nước mà cịn là thước đo trình độ văn minh của mỗi chế độ chính trị, quốc
gia, dân tộc.
Về cơ bản, các FTA khơng đối lập với quyền con người nói chung và quyền của nhóm
xã hội yếu thế nói riêng bởi mục tiêu cuối cùng của nó c ng là hướng tới nâng cao chất lượng
cuộc sống cho con người. Thậm chí việc thực hiện các FTA c ng có thể tác động tích cực, tạo
điều kiện thúc đẩy và bảo đảm các quyền con người, quyền của nhóm xã hội yếu thế đặc biệt
là ở những quốc gia đang phát triển, kém phát triển. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Việc thực hiện các FTA được kỳ vọng là sẽ tạo ra những tác động lớn đến nền kinh
tế Việt Nam và thơng qua đó sẽ tạo cơ sở vững ch c cho đảm bảo và hiện thực hóa các quyền
con người nói chung và quyền của nhóm xã hội yếu thế nói riêng. Ngay trong Lời nói đầu của
Hiệp định thành lập WTO năm 1994 đã khẳng định mục đ ch của WTO là “cam kết nâng cao
mức sống, đảm bảo đầy đủ việc làm, gia tăng đáng kể và ổn định mức thu nhập thực tế và đáp
ứng nhu cầu hiệu quả; mở rộng sản xuất, thương mại hàng hóa và dịch vụ”. Lời nói đầu của
Hiệp định TPP c ng ghi nhận các quốc gia thành viên cam kết “đem lại tăng trưởng kinh tế
và lợi ích xã hội, tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp, góp phần
nâng cao mức sống, lợi ích người tiêu dùng, giảm nghèo và thúc đẩy tăng trưởng bền
vững”44. Những tác động tích cực về mặt kinh tế - xã hội của các FTA đối với những nhóm
quyền kinh tế - xã hội – văn hóa là rất dễ nhận thấy và dễ đánh giá như: nguồn vốn đầu tư,
kiến thức công nghệ mới, tạo thêm nhiều việc làm và khả năng tiếp cận thị trường hàng hóa,
dịch vụ đa dạng, chất lượng… tất cả những điều này sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, chất lượng đời sống của người dân sẽ ngày càng cao hơn t đó nâng cao khả năng bảo
đảm và thụ hưởng các quyền con người nói chung và quyền của nhóm xã hội yếu thế nói

riêng. Đặc biệt là quyền giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền bảo trợ xã hội, quyền an
V Công Giao (2014), Khoa Luật ĐHQG Hà Nội, Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự,nxb
đại học quốc gia, trang 20.
44
Ngày 12/11/2018 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV Quốc hội đã thơng qua Nghị quyết Phê chuẩn Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTTP). Đây là hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới có t nh toàn diện và tiêu chuẩn cao, là Hiệp định khẳng định lại các vấn đề đã được thể hiện trong lời
nói đầu hiệp định Đối tác xuyên Thái bình Dương (TPP), hiện thực hóa nhanh chóng các lợi ch của Hiệp định
TPP, duy trì và mở c a thị trường, thúc đẩy thương mại thế giới và tạo ra những cơ hội kinh tế mới cho tất cả
những người dân thuộc mọi mức thu nhập và hoàn cảnh kinh tế.
43

384


sinh xã hội… là những quyền cần thiết phải có sự bảo đảm bằng kinh tế và phụ thuộc rất
nhiều vào nguồn lực kinh tế của mỗi quốc gia.
- Bên cạnh các tác động tích cực về khía cạnh kinh tế, các FTA đặc biệt là FTA thế hệ
mới như EVFTA, CPTPP… ngoài việc ghi nhận các th a thuận, cam kết về thương mại còn
chứa đựng những cam kết về quyền con người, dân chủ và pháp luật như các cam kết nhằm
bảo đảm quyền của người lao động, tiêu chuẩn chi tiết về điều kiện làm việc t tế, chống phân
biệt đối x trong nghề nghiệp, việc làm, tôn trọng, thúc đẩy tự do hiệp hội và công nhận hiệu
quả quyền thương lượng tập thể giữa người lao động và người s dụng lao động; xóa b mọi
hình thức lao động cưỡng bức và b t buộc; xóa b lao động trẻ em; xóa b phân biệt đối x
trong việc làm và nghề nghiệp như phân biệt đối x về giới tính, tình trạng khuyết tật và
chủng tộc45… Những cam kết về lao động đó c ng ch nh là những tiêu chuẩn do Tổ chức lao
động quốc tế ILO xác định. Các quy định này tạo ra một khuôn khổ pháp lý hiệu quả để bảo
vệ các nhóm xã hội yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người lao
động di trú, người thiểu số, người bị tước tự do… đây là những đối tượng thường bị phân biệt
đối x , bị bóc lột hoặc bị cưỡng bức lao động46. Những tiêu chuẩn được quy định này đã có

sự tương th ch với các công ước quốc tế như Công ước về các quyền Dân sự và Chính trị,
Cơng ước về quyền trẻ em, Cơng ước về xóa b mọi sự phân biệt đối x với phụ nữ, Công
ước về quyền của người khuyết tật, Công ước về quyền của người lao động di trú và gia đình
họ, Cơng ước của ILO số 87 và 98 về tự do liên kết và th a ước lao động tập thể, công ước số
29 và 105 về xóa b lao động cưỡng bức và b t buộc, Công ước số 100 và 111 về xóa b phân
biệt đối x trong việc làm và nghề nghiệp, Cơng ước số 138 và 182 về xóa b lao động trẻ
em… Không những vậy, một số FTA thế hệ mới (như EVFTA) bên cạnh những quy định về
lao động còn chứa đựng những cam kết về trách nhiệm xã hội và bình đẳng thương mại.
Những cam kết này, đặc biệt là các cam kết về bình đẳng thương mại sẽ tạo ra cơ hội nâng
cao vị thế, vai trị và thu nhập của lao động nữ góp phần thực hiện được mục tiêu bình đẳng
giới trong lĩnh vực lao động. Như vậy, có thể thấy các FTA đặc biệt là các FTA thế hệ mới đã
có sự kết nối với những quy định của pháp luật quốc tế về nhân quyền đặc biệt là đã ràng
buộc các quốc gia tham gia vào FTA phải có những hành động thiết thực để hồn thiện quy
định của pháp luật, tơn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn các quyền của nhóm xã hội yếu thế
như thiết lập các cơ chế đóng góp kiến cho các bên có liên quan của Việt Nam và EU. Điều
đó c ng có nghĩa là các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và xã hội dân sự sẽ có cơ hội được
tham vấn trong quá trình hoạch định ch nh sách và như vậy khả năng đảm bảo tính phù hợp
của các chính sách với thực tiễn sẽ cao hơn, làm tăng thêm khả năng hiện thực hóa các quyền
cho nhóm xã hội yếu thế.
- Bên cạnh đó, các FTA c ng góp phần thúc đẩy cải cách thể chế, chính sách của các
quốc gia thành viên theo hướng hồn thiện, cơng khai, minh bạch hơn. Khi tham gia các FTA
truy cập ngày
3/2/2020
46
TS Lê Thị Hồi Thu - TS V Cơng Giao, Ảnh hưởng của thương mại tự do đến nhân quyền, NXB Hồng Đức,
Hà Nội 2016
45

385



với các quốc gia có nền tảng kinh tế phát triển hơn, có hệ thống thể chế và pháp luật hồn
thiện hơn thì sự khác biệt về thể chế và ch nh sách này c ng gây nhiều khó khăn với Việt
Nam do điều kiện là nước đang phát triển, có nền kinh tế với trình độ phát triển thấp, hệ thống
pháp luật chưa hồn thiện…. Điều đó đặt Việt Nam trước một yêu cầu bức thiết là phải nhanh
chóng hồn thiện thể chế, chính sách. Tuy việc cải cách thể chế chính sách khơng phải là việc
có thể thực hiện trong một khoảng thời gian ng n nhưng t nhất điều đó c ng tạo ra nhu cầu
và động lực để hồn thiện hệ thống thể chế và chính sách của Việt Nam. Các FTA đặc biệt là
FTA thế hệ mới rất quan tâm tới vấn đề này ví dụ như CPTPP đã có một chương riêng
(chương 26) về minh bạch hóa và chống tham nh ng. Các bên tham gia phải đảm bảo rằng
các luật, quy định, thủ tục và quyết định hành ch nh trong nước mang tính áp dụng chung liên
quan tới bất kì vấn đề nào thuộc phạm vi FTA sẽ ngay lập tức được đăng tải hoặc công bố.
Đồng thời c ng khẳng định quyết tâm loại tr hối lộ và tham nh ng trong thương mại và đầu
tư quốc tế, xây dựng tính liêm khiết của các công chức trong cả khu vực cơng và khu vực
tư… những cam kết đó có tác dụng quan trọng đối với việc hoàn thiện thể chế chính sách của
Việt Nam, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và qua đó góp phần
quan trọng đối với việc bảo vệ, bảo đảm các quyền con người nói chung và quyền của nhóm
xã hội yếu thế nói riêng.
3. Một số tác động tiêu cực của các hiệp định thƣơng mại tự do tới việc bảo đảm quyền
của nhóm xã hội yếu thế
Thương mại tự do g n liền với q trình tồn cầu hóa, là xu thế tất yếu của kinh tế thế
giới hiện nay và có nhiều quốc gia tích cực tham gia vào quá trình này. Mặc dù vậy, ngay cả ở
những quốc gia tiên phong, thương mại tự do c ng khơng thể tiến triển một cách hồn tồn
thuận lợi. Một số quốc gia, ở những giai đoạn hoặc thời kỳ nhất định vẫn tiếp tục theo đuổi
chính sách bảo hộ. Nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế và tổ chức xã hội dân sự ở nhiều quốc
gia, nhiều nghiệp đoàn trên thế giới phản đối gay g t các FTA bằng các cuộc biểu tình như
biểu tình của nơng dân Pháp phản đối th a thuận thương mại giữa EU với Canada và Khối
Thị trường chung Nam M (MERCOSUR), biểu tình phản đối của nhiều người dân Hàn Quốc
đối với FTA của Hàn Quốc với M , biểu tình của nhiều người dân ở châu Âu phản đối TTIP,
các cuộc biểu tình phản đối các hiệp định thương mại tự do đang thu hút sự ủng hộ chính trị

và nhiều người dân tại Đức, B , Canada, Thụy Điển, New Zealand, Australia và các nước
khác.… Điều đó c ng có nghĩa là khơng phải ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào các FTA c ng
được chào đón và ủng hộ.
Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học và cả Liên Hợp Quốc c ng đã chú đến khía
cạnh tiêu cực mà những FTA và các th a thuận có thể gây ra với việc thụ hưởng các quyền
con người như quyền được sống, quyền có lương thực, nước uống, được đảm bảo vệ sinh,
quyền về sức kh e, nhà ở, giáo dục, khoa học và văn hóa, tư pháp độc lập, môi trường trong
sạch và quyền không bị buộc phải di dời để tái định cư nơi khác… Những quyền này rất quan
trọng đối với con người, đặc biệt là đối với nhóm xã hội yếu thế bởi họ là nhóm đối tượng có
xuất phát điểm thấp hơn và những tác động tiêu cực trong xã hội ln có ảnh hưởng mạnh mẽ
386


trước hết đối với họ, thậm chí có khả năng làm cho họ đứng trước nguy cơ bị gạt ra ngồi lề
của sự phát triển.
Khơng thể phủ nhận những thành tựu mà các FTA và tự do thương mại đem lại nhưng
mặt trái của nó là sự phân tầng xã hội diễn ra ngày càng sâu s c, bất bình đẳng xã hội làm cho
khoảng cách của nhóm xã hội yếu thế với các nhóm khác càng tăng lên, sự chênh lệch giữa
các vùng miền và các nhóm dân cư vẫn cịn tồn tại có khả năng dẫn đến nhiều vấn đề khác về
chính trị - xã hội. Tình trạng ô nhiễm môi trường, tài nguyên bị khai thác bất hợp lý, những
xung đột thông qua việc thu hồi đất của nhân dân… gây ra nhiều bức xúc trong xã hội.
Những quy định về sở hữu trí tuệ trong các FTA được coi trọng đặc biệt là trong các
FTA thế hệ mới, yêu cầu bảo hộ với quyền sở hữu trí tuệ được nâng lên so với yêu cầu của
WTO (TRIPS) cả về đối tượng, phạm vi và thời hạn bảo hộ. Đối tượng của việc bảo hộ còn
được mở rộng đến cả những dấu hiệu có nguy cơ gây cạnh tranh khơng lành mạnh trong sở hữu
trí tuệ như tên quốc gia, tên miền s dụng trong môi trường số, ch dẫn địa lý... Ví dụ như trong
EVFTA, Việt Nam cam kết bảo hộ sở hữu trí tuệ của EU với những tiêu chuẩn cao hơn so với
Hiệp định về sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại của WTO (TRIPS). Cụ thể,Việt Nam cam
kết thực hiện các quy định pháp lý chặt chẽ hơn, trong đó có các biện pháp ngăn chặn s dụng
các công cụ k thuật để vi phạm bản quyền. Bên cạnh đó, các hãng dược phẩm của EU có thể

kéo dài thời gian bảo hộ sáng chế nếu việc xin phép lưu hành bị trì hỗn. Việt Nam c ng cam
kết áp dụng các chế tài mạnh mẽ đối với xâm phạm quyền, mở rộng độc quyền dữ liệu, mở rộng
phạm vi quyền của chủ sở hữu sáng chế dược phẩm… Những cam kết và biện pháp thực hiện
nó có thể dẫn đến giới hạn khả năng người dân tiếp cận với thuốc giá rẻ (vẫn đảm bảo khả năng
các quốc gia ứng phó với dịch bệnh và tạo điều kiện để người nghèo có thể tiếp cận với thuốc,
tạo cơ chế kết hợp giữa các nước không đủ và các nước đủ năng lực sản xuất thuốc để xuất
khẩu nhằm đáp ứng những nhu cầu trong nước.)47 Mặc dù vậy, những quy định bảo hộ sở hữu
trí tuệ liên quan đến lĩnh vực y học, dược phẩm, chăm sóc sức kh e cho người dân có thể khiến
cho người dân đặc biệt là những người thuộc nhóm xã hội yếu thế như người nghèo, người dân
tộc thiểu số… ở những nước nghèo càng trở nên khó khăn hơn trong việc tiếp cận do gia tăng
chi phí và thời hạn độc quyền một số loại thuốc đặc trị.48
Đối với vấn đề việc làm, mặc dù thương mại tự do và các FTA được cho rằng có thể
tạo ra nhiều việc làm hơn cho mọi người nhưng ngay cả ở những nước phát triển như M , vấn
đề tự do thương mại c ng gây ra những bất đồng và tranh cãi gay g t bởi “rất dễ tìm thấy
những người bị mất việc làm vì thương mại tự do, nhưng khó tìm ra được những người có
được việc làm do thương mại tự do tạo ra”49. Ở Việt Nam, khi thực hiện các cam kết trong
các FTA, nhất là những FTA thế hệ mới, các doanh nghiệp phải đứng trước những thách thức
lớn, đặc biệt là sức ép mở c a thị trường, cạnh tranh. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là
các doanh nghiệp v a và nh , khả năng quản lý còn yếu, thể chế kinh tế và thực thi pháp luật
Nghị định thư s a đổi Hiệp định TRIPS có hiệu lực t ngày 23/1/2017
TS Lê Thị Hồi Thu - TS V Công Giao, Ảnh hưởng của thương mại tự do đến nhân quyền, NXB Hồng Đức,
Hà Nội 2016, trang 26
49
Các Hiệp định thương mại bị ch tr ch trong chiến dịch tranh c M
47
48

387



còn nhiều bất cập, khả năng cạnh tranh thấp, chất lượng nguồn nhân lực thấp… điều đó c ng
có nghĩa là khả năng các doanh nghiệp trong nước mất đi thị phần thị trường hàng hóa, dịch
vụ và đầu tư, phải chia sẻ lợi ích với các doanh nghiệp nước ngồi. Các doanh nghiệp có năng
lực cạnh tranh yếu, kinh doanh kém hiệu quả có thể phải s p xếp tổ chức lại hoặc phá sản.
Một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả có thể bị tư nhân hóa. Q trình tư
nhân hóa đó sẽ làm cho nhiều người lao động đứng trước nguy cơ mất việc làm do nhu cầu tổ
chức lại doanh nghiệp và c t giảm những chi phí khơng cần thiết. Những người lao động
thuộc nhóm xã hội yếu thế như người cao tuổi, phụ nữ, người khuyết tật, người lao động di trú
đặc biệt là những lao động phổ thông, dịch chuyển t lao động nông nghiệp, chưa được đào
tạo nghề, chưa có sự chuẩn bị tốt về thái độ làm việc, kỷ luật lao động, kiến thức bảo đảm an
toàn lao động, năng lực thích nghi, thích ứng với cường độ lao động cao… có nguy cơ chịu
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền làm việc t đó tiềm ẩn khả năng gây ra những ảnh hưởng về
mặt xã hội như đói nghèo, phạm tội, rối loạn chính trị - xã hội…
4. Phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của các hiệp định thƣơng mại
tự do nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền của nhóm xã hội yếu thế
Việc th a thuận, cam kết và thực hiện các FTA do các quốc gia tự thực hiện. Bản thân
các FTA khơng thể tự mình tác động đến các quyền con người và quyền của nhóm xã hội yếu
thế theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Do đó, trong q trình đàm phán, xây dựng, ký
kết và thực hiện các FTA các quốc gia trong đó có Việt Nam cần thiết phải có sự nghiên cứu,
đánh giá các tác động của các FTA đến quyền con người và quyền của nhóm xã hội yếu thế
một cách nghiêm túc, minh bạch, cẩn trọng với sự tham gia của nhiều bên liên quan như các
tổ chức của người lao động, các tổ chức bảo vệ môi trường, các chuyên gia độc lập, các nhà
khoa học, các tổ chức đại diện cho người dân, cho các nhóm xã hội yếu thế để phân tích và
đánh giá những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến quyền con người và quyền của nhóm xã
hội yếu thế… t đó tìm ra những biện pháp kh c phục. Các văn kiện đàm phán và các dự thảo
c ng cần phải được công khai cho người dân và các tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp
biết để c ng tham gia đóng góp

kiến.


Bên cạnh đó cần nghiên cứu và thực hiện Các quy tắc hướng dẫn về doanh nghiệp và
nhân quyền: thực hiện khung pháp lý về “Bảo vệ, tôn trọng và khắc phục của Liên Hợp
Quốc”. Đây là các nguyên t c áp dụng cho tất cả Quốc gia và doanh nghiệp, dù là xuyên quốc
gia hay các loại hình khác, bất kể quy mơ, lĩnh vực, địa điểm, chủ sở hữu và cơ cấu quản trị
nào. Việc tham gia vào các FTA cần dựa trên tinh thần và quan điểm hợp tác kinh tế, tự do
hóa thương mại phù hợp với tiến trình và xu thế vận động của thế giới nhưng vẫn phải bảo
đảm được các mục tiêu cốt lõi của quốc gia đồng thời vì mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân và cơ hội thụ hưởng các quyền con người, quyền công dân.
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc Hội có thẩm quyền giám
sát tối cao với việc thực hiện các điều ước quốc tế, tuy nhiên hiệu quả giám sát còn chưa cao
và chưa thường xuyên. Như vậy, cần thiết phải có sự nghiên cứu để thành lập cơ quan chuyên
388


trách hoặc ủy ban chuyên môn của Quốc hội để kịp thời theo dõi và thực hiện việc đánh giá
tác động về quyền con người. Bên cạnh đó cần thiết phải xác định rõ và luật hóa các biện
pháp để bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của nhóm xã hội yếu thế nói riêng…
5. Kết luận:
Khơng thể phủ nhận những thành tựu mà các Hiệp định thương mại tự do đã đem lại
cho Việt Nam nhưng tự do thương mại và quá trình thực hiện các Hiệp định này c ng đồng
thời đem đến những tác động mang tính tiêu cực đặc biệt là vấn đề bảo đảm các quyền con
người và quyền của nhóm xã hội yếu thế. Để tận dụng tốt những thuận lợi và kh c phục
những tác động tiêu cực của tự do hóa thương mại nói chung cần thiết phải có nhận thức rõ về
những tác động này t đó nghiên cứu những biện pháp phát huy tính tích cực, hạn chế những
tiêu cực của thương mại tự do tới quyền con người nói chung và quyền của nhóm xã hội yếu
thế nói riêng. Đây c ng là sự chuẩn bị cần thiết để Việt Nam tham gia thành công các thiết
chế thương mại tự do khác ở quy mơ và trình độ phức tạp hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công thương, Các vấn đề môi trường trong thương mại quốc tế, Nxb Công
thương, Hà Nội 2018

2. Đại học Quốc gia Hà Nội, Thực hiện các quyền Hiến định trong Hiến pháp 2013,
NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 2017.
3. V Cơng Giao (2014), Khoa Luật ĐHQG Hà Nội, Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn
thương trong tố tụng hình sự, NXB ĐHQG.
4. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Thành tựu nhân quyền Việt Nam 70
năm qua, NXB L luận Chính trị, Hà Nội 2016.
5. Nguyễn Văn Quyết & Phạm Anh Tuấn (2012), Nhà nước Việt Nam với công tác hỗ
trợ nhóm yếu thế, Kỷ yếu hội thảo ngày công tác xã hội thế giới
6. PGS.TS Phan Văn Rân (chủ biên), Hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay vấn đề
và giải pháp đột phá, NXb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018
7. TS Lê Thị Hồi Thu - TS V Công Giao, Ảnh hưởng của thương mại tự do đến
nhân quyền, NXB Hồng Đức, Hà Nội 2016
8. UBND thành phố Hà Nội, Sở Công thương, Cẩm nang doanh nghiệp về thị trường
các nước thành viên Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), NXb Công
thương, Hà Nội 2018

389



×