Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Pháp luật Việt Nam về kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ở khu vực doanh nghiệp FDI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.22 KB, 13 trang )

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ KIỂM SỐT Ơ NHIỄM MƠI TRƢỜNG NƢỚC
Ở KHU VỰC DOANH NGHIỆP FDI
Ths. Tạ Thị Thùy Trang
Trƣờng Đại học Thƣơng mại
Tóm lược: Trong những năm gần đây, thế giới liên tục được chứng kiến sự tham gia
ký kết của các hiệp định thương mại tự do (FTA), số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Điều này tác động khơng nh
đến cơng tác bảo vệ mơi trường và kiểm sốt ơ nhi m nguồn nước ở nước ta. Bài viết tập
trung xem xét khung khổ pháp luật Việt Nam về kiểm sốt ơ nhi m môi trường nước nh m
giảm thiểu các tác động môi trường ở khu vực doanh nghiệp FDI, c ng như tình hình thực
hiện các quy định về pháp luật mơi trường nước của các doanh nghiệp này. Từ đó, xây dựng
chính sách và đưa ra những kiến nghị hồn thiện pháp luật phù hợp trong thời gian tới nh m
hỗ trợ Việt Nam giảm thiểu tác động môi trường từ các dự án FDI, qua đó góp phần tăng
cường quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
Từ khóa: Ơ nhi m mơi trường nước, xử lý nước thải, bảo vệ môi trường
1. Khái quát chung về cam kết bảo vệ môi trƣờng trong các FTA và pháp luật về kiểm
sốt ơ nhiễm môi trƣờng nƣớc tại Việt Nam
1.1. hái quát về cam kết về môi trường trong các FTA của Việt Nam
Trong những năm gần đây, thế giới đang được chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng
của các hiệp định thương mại tự do. Cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của thế giới
và khu vực, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội
nhập quốc tế về kinh tế, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết nhiều FTA đa phương và
song phương ở trong khu vực và quốc tế.
Ở phạm vi khu vực, Việt Nam đã tham gia và là thành viên của 6 FTA ASEAN, bao
gồm: Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA); Khu vực thương mại tự do ASEAN Trung Quốc; Khu vực thương mại tự do ASEANHàn Quốc; Khu vực thương mại tự do
ASEAN - Nhật Bản; Khu vực thương mại tự do ASEAN - Úc và New Zealand; Khu vực
thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ. Ngoài việc ký kết và tham gia các FTA với tư cách là
thành viên khối ASEAN thì FTA đầu tiên mà Việt Nam ký kết với tư cách là một bên độc lập
là Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (2008), FTA Việt Nam - Chi Lê (2011), và
FTA Việt Nam - Hàn Quốc (2015);
Ở phạm vi quốc tế, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO


vào năm 2007. Bên cạnh đó, thời gian gần đây, Việt Nam cũng đã tham gia đàm phán, ký kết
nhiều FTA với các vùng, khu vực khác trên thế giới, điển hình như: Hiệp định Đối tác Xuyên
Thái Bình Dương (TPP, từ 11/2017 đổi tên thành Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ
Xun Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Việt Nam - Liên minh Châu Âu EU (EVFTA), Hiệp
định khối mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), FTA Việt Nam và Liên minh Hải quan Nga Belarus - Kazakhstan VCUFTA, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
1005


Trong 12 FTA đã ký kết, có thể chia làm hai loại FTA thế hệ cũ và FTA thế hệ mới,
trong đó 8 FTA ―thế hệ cũ‖ bao gồm FTA Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam - Chi Lê, Cộng
đồng kinh tế ASEAN - AEC, ASEAN - Australia - NewZealand, ASEAN - Hàn Quốc,
ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Nhật Bản. Các FTA thế hệ cũ mà Việt
Nam đã ký kết phần lớn tập trung vào các nghĩa vụ truyền thống như việc cắt giảm và xóa bỏ
hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do
đối với hàng hóa và dịch vụ. Đối với các FTA này, nội dung liên quan đến các vấn đề mơi
trường mới chỉ được đề cập mang tính khái quát chung. FTA ASEAN có quy định về việc vận
chuyển sản phẩm hàng hóa nguy hiểm đến mơi trường hoặc hợp tác liên quan đến môi trường.
Trong số các FTA thế hệ mới Việt Nam tham gia ký kết và phê chuẩn thời gian qua,
Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA là hai FTA khu vực tiêu chuẩn và điển hình về mức
độ cam kết cao, độ phủ rộng với lĩnh vực và nội dung mới về môi trường. Hiệp định EVFTA
gồm 20 chương, trong đó, Chương 15 - Thương mại và phát triển bền vững của Hiệp định
EVFTA cam kết nhiều lĩnh vực liên quan đến phát triển bền vững có mục tiêu thúc đẩy sự
tương hỗ lẫn nhau giữa các chính sách về thương mại và mơi trường, tăng cường bảo vệ môi
trường (BVMT) ở mức độ cao, thông qua thực thi hiệu quả luật pháp trong nước về BVMT.
Đồng thời, cam kết về phát triển bền vững còn hướng tới mục tiêu tăng cường năng lực của
các bên để giải quyết vấn đề về môi trường liên quan đến thương mại. Ngoài ra, Chương phát
triển bền vững cũng đặt ra các nghĩa vụ cụ thể liên quan đến nội dung hàng hóa và dịch vụ
mơi trường (EGS), các cơ chế, sáng kiến tự nguyện về BVMT, trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp (CSR). Tuy nhiên, các nghĩa vụ liên quan đến những nội dung này không có tính ràng
buộc cao, chủ yếu là nâng cao nhận thức, khuyến khích và khuyến nghị các bên áp dụng.

Việc thực thi các nghĩa vụ đã cam kết trong các thỏa thuận quốc tế và pháp luật quy
định trong nước về môi trường không phải là vấn đề mới, tuy nhiên, trong khuôn khổ các
FTA, các nghĩa vụ này trở thành rào cản lớn đối với các ràng buộc và điều chỉnh về thương
mại. Cho đến nay, Việt Nam chưa có, thậm chí khơng có kinh nghiệm trong vấn đề này. Hệ
thống chính sách và pháp luật mơi trường về kiểm sốt bảo vệ mơi trường nước của Việt Nam
vẫn đang trong q trình tiếp tục được hồn thiện. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chính sách,
pháp luật về môi trường được ban hành, song khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực bảo vệ mơi
trường nước cịn chưa đầy đủ và thậm chí cịn chồng chéo trong một số lĩnh vực cụ thể, gây
khó khăn cho việc thực thi các cam kết quốc tế.
Cùng với đó, các FTA thế hệ mới góp phần quan trọng, tạo mơi trường đầu tư thơng
thống, thu hút được nhiều tập đồn, nhà đầu tư lớn, có tiềm năng từ các nước trong khu vực
và thế giới đến Việt Nam. Đến nay khu vực kinh tế đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở
thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2018, EU là đối tác thương mại lớn
thứ tư (sau Trung Quốc, Mỹ và Hàn Quốc) và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai (sau Mỹ)
của Việt Nam. EU đồng thời là đối tác đầu tư nước ngoài lớn thứ tư của Việt Nam (sau
ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản). Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, FDI cũng
1006


đã bộc lộ một số những hạn chế, trong đó có vấn đề về ơ nhiễm mơi trường nói chung và mơi
trường nước nói riêng.
Theo thống kê, lũy kế đến hết năm 2018, Việt Nam đã thu hút được 27.353 án đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), với tổng vốn đăng ký khoảng 340 tỷ USD. Theo Tổng cục Thống
kê, đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/7/2019 thu hút 2.064 dự án cấp
phép mới với số vốn đăng ký đạt hơn 8,2 tỷ USD, tăng 24,6% về số dự án và giảm 37,4% về
vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, có 791 lượt dự án đã cấp phép từ các
năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt hơn 3,4 tỷ USD, giảm
30,8% so với cùng kỳ năm trước [1].
Về cơ bản, thời gian qua các doanh nghiệp FDI đã thể hiện việc tuân thủ các quy định

về môi trường khá tốt nhưng cũng khơng ít doanh nghiệp FDI vận hành nhà máy xử lý nước
thải chưa tuân thủ theo quy định, gây tác động không nhỏ đến môi trường. Nơi nào tập trung
càng nhiều khu cơng nghiệp thì nơi đó mơi trường càng bị ô nhiễm nặng. Một số doanh
nghiệp FDI đã gây ra sự cố môi trường nghiêm trọng, làm biến đổi hệ sinh thái, ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế, an sinh xã hội trên địa bàn và gây bức xúc trong dư luận nhân dân.
Người ta đã đề cập rất nhiều về FDI chưa sạch" tại Việt Nam liên quan đến vấn đề xử lý
nước thải, các khu công nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư trú
của các động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy, ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh
học, tài nguyên nước, thủy sản, biến đổi khí hậu và gia tăng ơ nhiễm các lưu vực sông… Các
doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam về cơ bản có trình độ cơng nghệ sản xuất trung bình,
tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên, lượng phát thải lớn. Tính đến năm 2017, dịng vốn FDI
đầu tư vào Việt Nam đến từ các nước phát triển, có nền khoa học cơng nghệ hiện đại như:
Đức, Pháp, Thụy Sỹ, Mỹ, Canada, Nga… còn khá khiêm tốn mà chủ yếu đến từ châu Á như:
Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc… Ngoại trừ các đối tác đến từ Hàn
Quốc, Nhật Bản, còn lại về cơ bản có trình độ cơng nghệ trung bình, hàm lượng cơng nghệ
cao cịn rất ít, hiệu quả thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tài ngun thiên nhiên, ít cơng nghệ
nguồn; nguồn vốn FDI chỉ tập trung ở ngành chế biến, chế tạo, dịch vụ, sử dụng nhiều lao
động, vốn lớn nhưng mức độ lan tỏa công nghệ thấp, không dành chi phí bảo vệ mơi trường.
Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, có khoảng 67% doanh
nghiệp FDI thuộc ngành sản xuất có giá trị gia tăng thấp, ngày càng có nhiều doanh nghiệp
FDI gây ô nhiễm mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Kết quả điều tra 150 doanh nghiệp FDI năm
2016, có 45% doanh nghiệp chưa áp dụng quy trình sản xuất ít phát thải, 69% doanh nghiệp
cho rằng họ sẽ khơng thực hiện quy trình giảm phát thải nếu như đó khơng phải là u cầu bắt
buộc, tương tự như thế 57,7% lấy lý do chi phí cao… Trên thực tế, nhiều khu công nghiệp đi
vào hoạt động nhưng chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ hoặc có nhưng
khơng vận hành, hay vận hành khơng hiệu quả hoặc xuống cấp; hiện chỉ có khoảng 66% trong
số 289 khu cơng nghiệp trên cả nước có trạm xử lý nước thải tập trung. Đặc biệt, tại đồng
bằng sơng Cửu Long có 75% khu và 85% cụm cơng nghiệp chưa có xử lý nước thải tập trung
[2]. Thậm chí trong giai đoạn năm 2011 - 2015, có hơn 50% đối tượng thuộc diện thanh tra và
1007



kiểm tra bị phát hiện có vi phạm về bảo vệ môi trường. Một điều tưởng như rất nghịch lý là
gần 70% doanh nghiệp FDI cho biết đầu tư vào Việt Nam sẽ tiết kiệm chi phí về mơi trường
so với đầu tư ở nước họ. Bởi lẽ chi phí xử lý nước thải ngành Dệt nhuộm, sắt thép rất lớn,
việc quản lý, giám sát xả thải rất khó, địi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Vì thế, khi đầu tư tại Việt
Nam sẽ tiết kiệm chi phí 10 - 15% so với đầu tư ở nước họ. Phải chăng do chúng ta đang chạy
theo thành tích tăng trưởng GDP nên dễ dãi trong thu hút FDI, nhập khẩu ô nhiễm vào Việt
Nam. Nhiều dự án FDI hiệu quả thấp, chỉ sử dụng tài nguyên và lao động giá rẻ nhưng vẫn
nhận được nhiều ưu đãi của các tỉnh về giá đất, nước, tài nguyên, thậm chí hạ thấp tiêu chuẩn
môi trường đối với dự án thuộc lĩnh vực nhuộm, luyện kim... Vì thế FDI tạo động lực tăng
trưởng cho nền kinh tế Việt Nam nhưng ô nhiễm môi trường cũng tăng theo, chưa thành nước
cơng nghiệp hóa nhưng vấn đề ô nhiễm môi trường đã rất nghiêm trọng.
1.2. hái qt pháp luật về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường nước tại Việt Nam
Theo Tiêu chuẩn Việt Nam 5980-1995 và ISO 6107/1-1980: “Nước thải là nước đã
được thải ra sau khi đã sử dụng hoặc được tạo ra trong một q trình cơng nghệ và khơng
cịn giá trị trực tiếp đối với q trình đó”. Khái niệm này được xây dựng dựa trên giá trị sử
dụng của nguồn nước để xác định nước thải và phân biệt nó với các loại nước thơng thường
khác. Từ đó có thể thấy được đặc tính đầu tiên của nước thải là đã qua sử dụng hoặc được tạo
ra qua quá trình phản ứng giữa các chất hóa học, nguyên liệu sản xuất trong các quy trình sản
xuất của dây chuyền, nhà máy.
Nước thải là một loại nước hỗn hợp đặc biệt, gây ra nhiều tác hại đối với môi trường,
sức khỏe của con người và các nhân tố khác liên quan do đó cần một quá trình xử lý riêng
biệt, đảm bảo hạn chế tối đa những thiệt hại nước thải tạo ra.
Khoản 16 Điều 3 Nghị định 38/2015/NĐ-CP về “Quản lý chất thải và phế liệu” quy
định: “Xử lý chất thải là q trình sử dụng các giải pháp cơng nghệ, kỹ thuật (khác với sơ
chế) để làm giảm, loại b , cô lập, cách ly, thiêu đốt, tiêu hủy, chôn lấp chất thải và các yếu tố
có hại trong chất thải.”
Có thể thấy, khái niệm trên khắc họa phần nào các bước xử lý nước thải nói chung
theo tiêu chuẩn kỹ thuật một cách cơ bản và khái quát nhất. Luật bảo vệ môi trường 2014

cũng dành nguyên mục 4 chương IX quy định về quản lý nước thải.
Kiểm sốt ơ nhiễm là q trình phịng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ơ nhiễm 23.
Q trình thải và xử lý nước thải cần được kiểm soát và phải tuân thủ theo các quy định về độ
an toàn trước khi thải ra môi trường xung quanh. Tuy nhiên, vấn đề này ở nước ta chưa thực
sự được chú ý và quan tâm đúng với tính chất phức tạp và quan trọng của nó, phạm trù kiểm
sốt ơ nhiễm nước chỉ có một vị trí rất khiêm tốn nằm trong rất nhiều luật và dưới các công cụ
khác nhau. Sơ đồ Hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan tới một hành vi xả thải nước thải
được khái quát hóa trong sơ đồ như sau:

23

Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường 2014

1008


Hình 1: Sơ đồ hệ thống kiểm sốt ơ nhiễm nước ở Việt Nam
Từ sơ đồ này có thể nhận thấy, hệ thống luật có nhiều tầng (Luật, Nghị định, Thông tư và
các công cụ. Các công cụ trực tiếp quản lý hành vi xả thải gồm quy hoạch, đánh giá tác động môi
trường (ĐTM), giấy phép xả thải, công nghệ, quy chuẩn tiêu chuẩn, kiểm tra giám sát…Chính do
có nhiều tầng như vậy nên việc thực thi các luật và các văn bản dưới luật mang nặng tính hành
chính và gián tiếp, với sự tham gia của rất nhiều cơ quan hành chính thuộc các bộ ngành khác
nhau. Các công cụ chế tài trực tiếp quản lý hành vi xả thải có các quan hệ chéo với hệ thống hành
chính, gây ra sự khơng rõ ràng về cấp quản lý và trách nhiệm, dễ chồng chéo.
Cùng với việc xóa bỏ dần các rào cản thương mại, thu hút doanh nghiệp FDI trong
điều kiện quy định tiêu chuẩn về môi trường cịn thấp và năng lực kiểm sốt tn thủ còn
chưa chặt chẽ sẽ dẫn đến nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường Việt Nam. Để hạn
chế tác động ô nhiễm môi trường từ các dự án FDI, các quy định pháp lý liên quan đến bảo vệ
môi trường nước cần được sửa đổi phù hợp thực tiễn hơn nữa.
Cùng với đó, các FTA thế hệ mới góp phần quan trọng, tạo mơi trường đầu tư thơng

thống, thu hút được nhiều tập đồn, nhà đầu tư lớn, có tiềm năng từ các nước trong khu vực
và thế giới đến Việt Nam. Đến nay khu vực kinh tế FDI đã trở thành bộ phận quan trọng của
nền kinh tế, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đã đạt được, FDI cũng đã bộc lộ một số những hạn chế, trong đó có vấn đề về ơ nhiễm
mơi trường.
Theo thống kê, lũy kế đến hết năm 2018, Việt Nam đã thu hút được 27.353 án đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), với tổng vốn đăng ký khoảng 340 tỷ USD. Theo Tổng cục Thống
kê, đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/7/2019 thu hút 2.064 dự án cấp
phép mới với số vốn đăng ký đạt hơn 8,2 tỷ USD, tăng 24,6% về số dự án và giảm 37,4% về
vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, có 791 lượt dự án đã cấp phép từ các
1009


năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt hơn 3,4 tỷ USD, giảm
30,8% so với cùng kỳ năm trước. Thực tiễn cho thấy, trong thời kỳ đầu của quá trình thu hút
vốn FDI, nhiều nước đang phát triển có xu hướng nới lỏng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường
nhằm cạnh tranh với các nước khác trong quá trình thu hút nguồn vốn này. Điều này đã dẫn
tới nguy cơ gia tăng mức độ ô nhiễm môi trường.
Về cơ bản, thời gian qua các doanh nghiệp FDI đã thể hiện việc tuân thủ các quy định
về mơi trường khá tốt. Ví dụ tại Bắc Ninh, năm 2015 có khoảng 85 - 90% các cơng ty đầu tư
nước ngồi tại tỉnh có báo cáo thường xuyên và đúng hạn về theo dõi chất lượng mơi trường
và chỉ có 5 - 7% số doanh nghiệp FDI được khảo sát có những vi phạm về mơi trường mà chủ
yếu là chưa tuân thủ các thủ tục hành chính về báo cáo những thay đổi trong hệ thống quản lý
mơi trường của họ.
Tuy nhiên, có khơng ít doanh nghiệp FDI vận hành nhà máy xử lý nước thải chưa tuân
thủ theo quy định, gây tác động không nhỏ đến môi trường. Nơi nào tập trung càng nhiều khu
cơng nghiệp thì nơi đó mơi trường càng bị ơ nhiễm nặng. Khơng ít các doanh nghiệp FDI bị
phát hiện gây hậu quả nghiêm trọng đến môi trường. Một số doanh nghiệp FDI đã gây ra sự
cố môi trường nghiêm trọng, làm biến đổi hệ sinh thái, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, an
sinh xã hội trên địa bàn và gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Người ta đã đề cập rất nhiều

về FDI chưa sạch" tại Việt Nam liên quan đến vấn đề xử lý nước thải, các khu cơng nghiệp
mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư trú của các động vật hoang dã, thực
vật đã bị xáo trộn, phá hủy, ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên nước, thủy sản,
biến đổi khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông… Không những thế, các doanh nghiệp
FDI đầu tư vào Việt Nam về cơ bản có trình độ cơng nghệ sản xuất trung bình, tiêu tốn nhiều
tài nguyên thiên nhiên, lượng phát thải lớn. Tính đến năm 2017, dòng vốn FDI đầu tư vào
Việt Nam đến từ các nước phát triển, có nền khoa học công nghệ hiện đại như: Đức, Pháp,
Thụy Sỹ, Mỹ, Canada, Nga… còn khá khiêm tốn mà chủ yếu đến từ châu Á như: Hàn Quốc,
Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc… Ngoại trừ các đối tác đến từ Hàn Quốc, Nhật
Bản, cịn lại về cơ bản có trình độ cơng nghệ trung bình, hàm lượng cơng nghệ cao cịn rất ít,
hiệu quả thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tài ngun thiên nhiên, ít cơng nghệ nguồn; nguồn
vốn FDI chỉ tập trung ở ngành chế biến, chế tạo, dịch vụ, sử dụng nhiều lao động, vốn lớn
nhưng mức độ lan tỏa cơng nghệ thấp, khơng dành chi phí bảo vệ môi trường. Nhiều doanh
nghiệp FDI chưa tuân thủ nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường khi đầu tư sản xuất,
kinh doanh vào Việt Nam. Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung
ương, có khoảng 67% doanh nghiệp FDI thuộc ngành sản xuất có giá trị gia tăng thấp, ngày
càng có nhiều doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Kết quả điều tra
150 doanh nghiệp FDI năm 2016, có 45% doanh nghiệp chưa áp dụng quy trình sản xuất ít
phát thải, 69% doanh nghiệp cho rằng họ sẽ khơng thực hiện quy trình giảm phát thải nếu như
đó khơng phải là u cầu bắt buộc, tương tự như thế 57,7% lấy lý do chi phí cao… Trên thực
tế, nhiều khu công nghiệp đi vào hoạt động nhưng chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý
nước thải cục bộ hoặc có nhưng khơng vận hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc xuống
1010


cấp; hiện chỉ có khoảng 66% trong số 289 khu cơng nghiệp trên cả nước có trạm xử lý nước
thải tập trung. Đặc biệt, tại đồng bằng sông Cửu Long có 75% khu và 85% cụm cơng nghiệp
chưa có xử lý nước thải tập trung [2]. Một điều tưởng như rất nghịch lý là gần 70% doanh
nghiệp FDI cho biết đầu tư vào Việt Nam sẽ tiết kiệm chi phí về môi trường so với đầu tư ở
nước họ. Bởi lẽ chi phí xử lý nước thải ngành Dệt nhuộm, sắt thép rất lớn, việc quản lý, giám

sát xả thải rất khó, địi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Vì thế, khi đầu tư tại Việt Nam sẽ tiết kiệm
chi phí 10 - 15% so với đầu tư ở nước họ. Phải chăng do chúng ta đang chạy theo thành tích
tăng trưởng GDP nên dễ dãi trong thu hút FDI, nhập khẩu ô nhiễm vào Việt Nam. Nhiều dự
án FDI hiệu quả thấp, chỉ sử dụng tài nguyên và lao động giá rẻ nhưng vẫn nhận được nhiều
ưu đãi của các tỉnh về giá đất, nước, tài nguyên, thậm chí hạ thấp tiêu chuẩn môi trường đối
với dự án thuộc lĩnh vực nhuộm, luyện kim... Vì thế FDI tạo động lực tăng trưởng cho nền
kinh tế Việt Nam nhưng ô nhiễm môi trường cũng tăng theo, chưa thành nước công nghiệp
hóa nhưng vấn đề ơ nhiễm mơi trường đã rất nghiêm trọng.
2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trƣờng nƣớc ở khu vực
doanh nghiệp FDI
Chúng ta không thể phủ nhận hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường nước
ngày càng được hồn thiện, phần nào kiềm chế việc gia tăng ơ nhiễm mơi trường, là cơng cụ
pháp lý hữu hiệu góp phần bảo vệ mơi trường hiệu quả hơn. Có thể kể đến như Việt Nam đã
có các quy định về ngành nghề bị cấm hoặc kinh doanh có điều kiện liên quan đến môi
trường; một số ưu đãi cho đầu tư mà có thể tác động tích cực đến mơi trường. Đối với giai
đoạn chuẩn bị đầu tư và xây dựng, yêu cầu đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường, lập kế hoạch bảo vệ môi trường trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Theo đó,
các nhà đầu tư phải điều chỉnh dự án để phù hợp với quyết định phê duyệt đánh giá tác động
môi trường. Thực hiện tất cả các giải pháp để bảo vệ môi trường trong giai đoạn chuẩn bị dự
án và giai đoạn xây dựng dựa trên các nội dung của quyết định phê duyệt đánh giá tác động
môi trường (thiết kế và cài đặt cơ sở môi trường bao gồm cả xử lý nước thải, chất thải nguy
hại và chất thải khơng nguy hại, bụi và khí thải…). Đối với giai đoạn doanh nghiệp đã đi vào
hoạt động, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cũng quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm
như: thải chất thải chưa được xử lý; đưa vào nguồn nước hóa chất độc hại, chất thải, vi sinh
vật chưa được kiểm định và tác nhân độc hại khác đối với con người và sinh vật… Các hoạt
động nhà đầu tư cần phải tuân thủ quy định về mơi trường có ở nhiều luật khác nhau ở các
lĩnh vực hay ngành nghề khác nhau.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường nước ở Việt Nam cũng đã bộc lộ
một số bất cập, hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với xu thế phát triển của đất
nước và các cam kết môi trường của FTA.

Thứ nhất, pháp luật thiếu thống nhất trong hoạt động quản lý xả thải vào môi
trường nước
Tại Việt Nam, các quy định pháp luật về xử lý chất ô nhiễm trước khi xả thải vào
nguồn nước được điều chỉnh bởi hai luật chính là Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) 2014 và
1011


Luật Tài nguyên nước 2012, cùng các văn bản pháp luật liên quan như: Luật Thủy sản, Luật
Đa dạng sinh học, Luật Thủy lợi... Từ góc độ quản lý, một nguồn xả thải có tiềm năng gây ơ
nhiễm cho nguồn nước chịu sự điều chỉnh và quản trị của các cơ quan quản lý khác nhau, theo
các luật khác nhau sẽ khó kiểm sốt được tồn diện và triệt để. Ví dụ như việc cấp phép xả
thải được phân ra theo nguồn nước trực tiếp nhận thải (nguồn tự nhiên) và nguồn phục vụ tưới
tiêu. Giấy phép xả thải vào hệ thống nước tự nhiên do ngành tài nguyên và môi trường cấp24,
trong khi giấy phép xả nước thải vào cơng trình thủy lợi, trừ xả nước thải với quy mơ nhỏ và
khơng chứa chất độc hại, chất phóng xạ lại do Bộ Nông nghiệp và phát và triển nông thôn; Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện25. Hay như tại nghị định 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử
lý nước thải cũng quy định quy chuẩn kĩ thuật về nước thải do các cơ quan nhà nước khác
nhau ban hành. Cụ thể, nước thải từ các hộ thoát nước, khu cơng nghiệp (trong đó bao gồm
các doanh nghiệp FDI) xả vào hệ thống thốt nước đơ thị phải bảo đảm các quy chuẩn kỹ
thuật về nước thải do Bộ Xây dựng ban hành; nước thải xử lý phi tập trung, căn cứ vào khả
năng tiếp nhận và mục đích sử dụng của nguồn tiếp nhận do Bộ Tài nguyên và Mơi trường
quy định. Cịn nước thải từ hệ thống thốt nước đô thị, khu công nghiệp, khu dân cư nông
thôn tập trung xả vào hệ thống cơng trình thủy lợi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ban hành26. Điều này gây xung đột với nguyên tắc nền tảng là hệ thống nước có sự kết nối tự
nhiên theo dịng chảy và lưu vực. Ơ nhiễm từ hệ thống thủy lợi kênh mương nội đồng hoàn
toàn dễ dàng lưu chuyển vào hệ thống sơng ngịi tự nhiên, việc cấp phép xả thải và quy chuẩn
kĩ thuật nước thải như hiện nay khơng gắn kết với kiểm sốt ơ nhiễm nước nói chung. Bên
cạnh đó, cơ quan cấp phép xả thải khác nhau, nhưng về kiểm sốt, giám sát ơ nhiễm nước chủ
yếu lại là trách nhiệm của ngành tài nguyên và môi trường. Thế nhưng, Luật BVMT 2014
cũng chỉ quy định chung chung rằng: ―Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy mơ xả thải

lớn và có nguy cơ tác hại đến môi trường phải tổ chức quan trắc môi trường nước thải tự động
và chuyển số liệu cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Bộ Tài
nguyên và Môi trường‖27.
Bên cạnh đó, theo quy định hiện hành, các khu doanh nghiệp FDI phải có hệ thống thu
gom riêng nước mưa và hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật
môi trường. Hệ thống xử lý nước thải phải bảo đảm đủ công suất xử lý toàn bộ lượng nước
thải phát sinh của các cơ sở trong khu công nghiệp và phải được xây dựng, vận hành trước khi
các cơ sở trong khu công nghiệp đi vào hoạt động. Các khu công nghiệp gần nhau có thể kết
hợp sử dụng chung hệ thống xử lý nước thải tập trung28. Thế nhưng, trạm xử lý nước thải tập
trung chỉ là đơn vị cung cấp dịch vụ theo hợp đồng, mối quan hệ giữa các trạm xử nước thải
tập trung với doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp chỉ đơn thuần là cung cấp dịch
Điều 73, Luật Tài nguyên nước 2012
Điều 44, Luật Thủy lợi 2017.
26
Điều 4, Nghị định 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải.
27
Điều 101, Luật BVMT 2014.
28
Điều 37, Nghị định 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu.
24
25

1012


vụ, doanh nghiệp khơng bắt buộc dùng. Cịn làm thế nào để bắt buộc doanh nghiệp đấu nối về
công tác xử lý nước thải thì khơng phải thuộc thẩm quyền của trạm mà thuộc các cơ quan
chức năng và quy định về chế tài xử lý các doanh nghiệp trong khu công nghiệp không sử
dụng hệ thống xử lý nước thải tập trung này hồn tồn khơng có. Chẳng hạn, vụ việc Công ty
Formosa Hà Tĩnh gây ra ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng làm cá chết hàng loạt xảy ra

vào tháng 4/2016 tại 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế là một ví
dụ điển hình. Tại thời điểm thẩm định dự án Formosa năm 2008, các dự án FDI được thực
hiện thẩm định theo Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 hướng dẫn chi tiết thực hiện
Luật Đầu tư năm 2005. Theo đó, dự án FDI này được phân cấp cho UBND tỉnh phê duyệt,
các bộ, ngành chỉ đóng vai trị thẩm định. Việc xả ra môi trường một lượng lớn nước thải
chưa qua xử lý, tuy thể hiện tính thiếu trách nhiệm của nhà đầu tư Formosa, nhưng cũng cho
thấy lỗ hổng trong quản lý nhà nước ở khâu kiểm tra, giám sát chất lượng nước thải ra mơi
trường. Có thể thấy rất nhiều doanh nghiệp FDI chưa tuân thủ nghiêm các quy định về bảo vệ
môi trường khi đầu tư sản xuất, kinh doanh vào Việt Nam. Như Nghiên cứu của Viện Nghiên
cứu và Quản lý kinh tế Trung ương chỉ ra: có khoảng 67% doanh nghiệp FDI thuộc ngành sản
xuất có giá trị gia tăng thấp, ngày càng có nhiều doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm mở rộng đầu
tư vào Việt Nam. Báo cáo của Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội tại hội thảo: “Giảm
thiểu các tác động mơi trường của đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Việt Nam” tháng 3/2016:
kết quả điều tra 150 doanh nghiệp FDI năm 2011, có 45% doanh nghiệp chưa áp dụng quy
trình sản xuất ít phát thải, 69% doanh nghiệp cho rằng họ sẽ khơng thực hiện quy trình giảm
phát thải nếu như đó khơng phải là u cầu bắt buộc, tương tự như thế 57,7% lấy lý do chi phí
cao… Trên thực tế, nhiều khu cơng nghiệp đi vào hoạt động nhưng chưa triển khai xây dựng
hệ thống xử lý nước thải cục bộ hoặc có nhưng khơng vận hành, hay vận hành không hiệu quả
hoặc xuống cấp; hiện chỉ có khoảng 66% trong số 289 khu cơng nghiệp trên cả nước có trạm
xử lý nước thải tập trung.
Thêm vào đó, các quy chuẩn về nước thải áp dụng với ngành nông nghiệp, đặc biệt là
trong hoạt động chăn ni, ni trồng thủy sản cịn chưa hợp lý giữa khu vực doanh nghiệp
FDI và chủ thể kinh doanh trong nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quy chuẩn
kỹ thuật nước thải chăn nuôi số QCVN 62-MT:2016/BTNMT. Quy chuẩn này quy định giá trị
tối đa cho phép của các thông số ô nhiễm nước thải chăn nuôi khi xả ra nguồn tiếp nhận nước
thải, chỉ áp dụng riêng cho nước thải chăn ni. Ví dụ, các hộ chăn nuôi cá thể, giá trị tối đa
cho phép đối với tổng lượng nước thải lớn hơn hoặc bằng 5m3/ngày29. Việc xử lý nước thải
chăn nuôi nhằm đạt Quy chuẩn QCVN 62-MT:2016/BTNMT địi hỏi chi phí xử lý mơi
trường rất lớn cho các chủ trang trại, doanh nghiệp nhất là các hộ chăn ni nhỏ lẻ và khó
khăn trong việc tận dụng nước thải chăn nuôi đã qua xử lý làm phân bón hữu cơ trong nước.

Nước thải ni trồng thủy sản lại được các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng theo Quy chuẩn
nước thải công nghiệp QCVN 40:2011/BTNMT (cho các cơ sở sản xuất cơng nghiệp...) gây
khó khăn trong quản lý và khó khăn cho doanh nghiệp. QCVN 40:2011/BTNMT được xây
29

Phần 2.1 QCVN 62-MT:2016/BTNMT

1013


dựng và ban hành để áp dụng cho nước thải của các nhà máy sản xuất cơng nghiệp nên có 33
thơng số ơ nhiễm cần kiểm sốt, q phức tạp khi lựa chọn áp dụng đối với nước thải nuôi
trồng thủy sản không nằm trong khu công nghiệp được đầu tư như khu kinh tế FDI. Các quy
chuẩn được đặt ra cần phải đáp ứng yêu cầu hội nhập, song cũng phải phù hợp với yêu cầu
thực tiễn, hài hòa giữa lợi ích của nhà sản xuất và lợi ích quốc gia, BVMT và sức khỏe của
cộng đồng. Để khắc phục nguy cơ gây ơ nhiễm mơi trường nước nói chung và ở khu vực FDI,
chính sách đầu tư và chính sách về mơi trường ở Việt Nam hiện nay cần không phân biệt đối
xử giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, nhưng cũng cần bảo vệ được chủ thể
kinh doanh trong nước, tránh tình trạng như vừa đề cập.
Thứ hai, việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật BVMT nước còn hạn chế
Hiện nay, đối với các vi phạm quy định về BVMT nói chung, hệ thống pháp luật nước
ta quy định 2 mức xử lý, bao gồm xử phạt hành chính và xử lý hình sự. Tuy nhiên, quy định về
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật mơi trường nước cịn hạn chế, nằm rải rác trong các văn
bản luật khác nhau. Bản thân Luật BVMT 2014 có thiết kế một chương riêng về bồi thường
thiệt hại nhưng chưa có quy định cụ thể xác định thiệt hại về môi trường nước, phục hồi hiện
trạng môi trường nước. Kể cả nghị định số 03/2015/NĐ-CP của Chính phủ về xác định thiệt hại
mơi trường cũng chưa có quy định về xác định thiệt hại mơi trường nước nên khó áp dụng trên
thực tiễn. Điều 160 Luật BVMT 2014 quy định về xử lý vi phạm có dẫn chiếu tới pháp luật liên
quan, nhưng các chế tài xử lý khác được quy định trong các văn bản Luật cũng cịn nhiều bất
cập. Có thể kể đến như về trách nhiệm hình sự, tội gây ô nhiễm môi trường được quy định trong

Bộ luật Hình sự từ năm 1999 đến nay. Theo quy định của Bộ luật này và Bộ luật Hình sựa
1999, sửa đổi bổ sung 2009 thì tội này cấu thành vật chất tức là phải có hậu quả nghiêm trọng
xảy ra mới bị truy cứu nên cũng gây khó khăn cho quá trình đấu tranh phịng chống tội phạm,
bởi việc xác định thiệt hại do ô nhiễm môi trường nước là không dễ dàng, đặc biệt là khó xác
định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm môi trường nước và thiệt hại xảy ra. Do
vậy, đến nay chưa có một cá nhân nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Hiện nay, Bộ
luật Hình sự 2015 sửa đổi, tội gây ơ nhiễm mơi trường có điểm mới là chuyển sang cấu thành
hình thức, tức là chỉ cần có hành vi xả nước thải vượt quá quy chuẩn kĩ thuật là đã bị truy cứu
trách nhiệm hình sự30. Mặc dù vậy, theo quy định thì hành vi xả thải phải đạt một tải lượng nhất
định thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, quy định này khó ở chỗ việc xác định tải lượng
này với môi trường nước là không hề dễ dàng. Về trách nhiệm kỷ luật với cán bộ, công chức
quản lý nhà nước về môi trường cũng chưa được quy định rõ ràng và thực tiễn áp dụng chưa
thật khách quan, công khai, minh bạch. Về xử phạt hành chính với hành vi làm ơ nhiễm mơi
trường nước ngày càng hồn thiện hơn nhưng mức xử phạt với một hành vi vi phạm của các tổ
chức, cá nhân làm ô nhiễm môi trường nói chung, trong đó có mơi trường nước vẫn còn thấp,
mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT là
1.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức31. Thực tiễn cho
Điều 235, Luật Hình sự 2015
Điều 4, Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường.
30
31

1014


thấy cũng chưa chủ nguồn thải nào phải chịu mức phạt cao nhất này nên chưa đảm bảo tính răn
đe, thậm chí có trường hợp cá nhân, pháp nhân chấp nhận nộp phạt để vi phạm. Ví như vụ việc
Cơng ty Cổ phần Vedan Việt Nam, có trụ sở tại Đồng Nai, xả thải trực tiếp xuống sông Thị Vải
(tháng 10-2008) bị xử phạt hành chính 267 triệu đồng, trong khi phí BVMT truy thu với lượng

nước thải đã xả trái phép là 127 tỷ đồng; buộc công ty phải đầu tư hàng chục triệu USD để nâng
cấp công nghệ, bảo đảm nước thải đạt quy chuẩn môi trường [3]. Như vậy, số tiền truy thu và
yêu cầu khắc phục hậu quả cao hơn nhiều so với mức xử phạt vi phạm hành chính. Trong 10
năm tới, nếu GDP của Việt Nam tăng gấp đôi mà không quan tâm đúng mức đến cơng tác
BVMT thì ơ nhiễm mơi trường sẽ tăng lên 3 lần, đến năm 2025 có thể gấp 4-5 lần. Trung bình
GDP cứ tăng 1% thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường sẽ làm mất đi 3% GDP [4]. Việt Nam sẽ
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức về quản lý và xử lý nước thải nếu khơng có các
chế tài xử lý vi phạm mạnh tay hơn. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta đang ở mức báo
động, vi phạm pháp luật về BVMT diễn biến phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng. Nguyên nhân
của tình trạng này do chế tài xử phạt còn chung chung, mức xử phạt vi phạm hành chính cịn
thấp, chưa đủ sức răn đe. Do vậy, cần bổ sung chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về BVMT cụ
thể, cứng rắn hơn.
Thứ ba, pháp luật bảo vệ mơi trường của Việt Nam cịn bất cập trong quy định về
thơng tin tình hình mơi trường nước
Với các thơng tin cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cơng bố, Nhà nước
cung cấp thơng tin gì thì người dân biết thơng tin đó, và thực tế cho thấy, thông tin từ kênh
này chưa nhiều và chưa kịp thời, chưa đáp ứng được mong mỏi của người dân. Điều này cũng
dẫn đến các doanh nghiệp FDI thiếu kênh chính thống tiếp cận quy định về mơi trường. Chính
quyền địa phương bị động trong cung cấp thơng tin chính sách, trong khi văn bản pháp luật
quy định về môi trường phức tạp, chồng chéo, thay đổi quá nhanh làm đội chi phí tuân thủ
của doanh nghiệp. Ví dụ: Theo Điều 131 Luật BVMT 2014, có 5 nhóm thông tin môi trường
phải được công khai bao gồm: (a) Báo cáo đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT;
(b) Thông tin về nguồn thải, chất thải, xử lý chất thải; (c) Khu vực môi trường bị ô nhiễm,
suy thoái ở mức nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, khu vực có nguy cơ xảy ra sự cố môi
trường; (d) Các báo cáo về môi trường; và (đ) Kết quả thanh tra, kiểm tra về BVMT. Tuy
nhiên, nếu ―các thông tin quy định tại khoản này mà thuộc danh mục bí mật nhà nước thì
khơng được cơng khai‖. Tác giả cho rằng, thông tin hạn chế tiếp cận cần được quy định cụ
thể, phù hợp với Hiến pháp 2013 như đảm bảo quyền tiếp cận thông tin nhưng đồng thời đảm
bảo sự an tồn thơng tin về bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư, bí mật cá
nhân… nhằm bảo vệ an tồn tính mạng, sức khoẻ của con người, bảo vệ lợi ích cộng đồng,

tránh việc lạm dụng dẫn tới vi phạm các quyền bí mật được pháp luật bảo vệ. Luật cũng quy
định tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ thể sản xuất
kinh doanh phải cung cấp thơng tin về tình hình mơi trường, nhưng theo Luật thì cá nhân lại
khơng có quyền trực tiếp thực hiện quyền này mà phải thông qua tổ chức hoặc đại diện cộng
đồng dân cư[4,5].

1015


Tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức quốc tế phi chính phủ, cộng
đồng dân cư có vai trị đặc biệt quan trọng trong kiểm sốt ô nhiễm môi trường nói chung và ô
nhiễm môi trường nước nói riêng, nhưng khơng thể phủ nhận quyền chủ động tiếp cận thông
tin của từng cá nhân riêng lẻ, bởi BVMT trước hết phải từ mỗi cá nhân. Thêm vào đó, mặc dù
Luật BVMT đã phần nào ghi nhận trách nhiệm của các tổ chức nêu trên, nhưng chưa có
những quy định cụ thể nhằm phát huy mạnh mẽ vai trị các chủ thể này vào giám sát, kiểm
sốt ô nhiễm môi trường nước. Pháp luật môi trường hiện hành chưa thể hiện được vai trò của
tổ chức xã hội cộng đồng dân cư trong tham vấn về đánh giá tác động môi trường, trong giám
sát việc thực hiện pháp luật môi trường. Đặc biệt Luật chưa dành quyền giám sát các cơ quan
nhà nước, các chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà nước về môi trường cho các đối tượng này.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi về xử lý
nƣớc thải
Một là, để khắc phục nguy cơ gây ô nhiễm môi trường ở khu vực FDI, cần tiếp tục
hồn thiện các chính sách, qui định về bảo vệ môi trường theo hướng rõ ràng thống nhất hơn
và ổn định hơn, khắc phục tính văn bản pháp quy thiếu hướng dẫn, ban hành không đúng lúc,
hay thay đổi. Khi có sự sửa đổi, bổ sung trong các văn bản pháp quy, các cơ quan quản lý nhà
nước cần thông báo cho các doanh nghiệp đầy đủ và kịp thời. Bên cạnh đó, trách nhiệm người
quản lý mơi trường cần được quy định rõ ràng, cụ thể hơn trong từng hoạt động. Đồng thời
cần có hệ thống cấp phép xả thải tập trung quốc gia với sự quản lý thống nhất, dựa vào nền
tảng công nghệ, năng lực và cơ chế kiểm tra chặt chẽ, khoa học; tránh tình trạng quản lý theo
kiểu hành chính và sự tham gia cịn nặng về hình thức của các bộ, ngành. Bên cạnh đó cần sửa

đổi, bổ sung các văn bản hiện hành quy định về vấn đề xử lý nước thải tại các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất kinh doanh. Cần có sự phối hợp ăn khớp giữa các cơ quan quản lý môi trường
như: Cảnh sát môi trường, sở tài nguyên và môi trường, ban quản lý các khu công nghiệp... để
tránh chồng chéo trong theo dõi, giám sát việc tuân thủ các chính sách, quy định của doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng, tăng tính hiệu quả của kiểm tra, giám sát
Hai là, tiếp tục sửa đổi cơ bản Luật BVMT 2014 và các quy định liên quan đến xử lý
vi phạm trong quá trình xả thải nước thải. Đồng thời phát huy đồng bộ sức mạnh của các biện
pháp hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về xả
thải vướt mức tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt là các biện pháp kinh tế để bảo đảm sự hài hoà
giữa phát triển kinh tế và yêu cầu bảo vệ nguồn nước và BVMT nói chung. Bên cạnh đó, ban
hành các văn bản pháp luật cần có sự đồng bộ, ổn định, có tính điều chỉnh và răn đe cao hơn
nữa, đặc biệt là các quy định về thuế, phí mơi trường và các văn bản quy định về vấn đề xử lý
nước thải của các cơ sở sản xuất kinh doanh. Cụ thể, các văn bản quy định về phát triển kinh
tế, văn hóa – xã hội,… phải thể hiện được sự nhất quán với các quy định pháp luật về BVMT,
pháp luật về xử lý nước thải và ngược lại bằng cách thêm các điều luật đánh phí – thuế mơi
trường đối với các doanh nghiệp sử dụng tiêu chuẩn hóa học, sinh học để xử lý nước thải tại
cơ sở sản xuất kinh doanh của mình.
Ba là, cần xây dựng một hệ thống thơng tin chính thức để giúp doanh nghiệp FDI cập
nhật thơng tin về chính sách và các yêu cầu từ các cơ quan chức năng; đặc biệt là cần tăng
1016


cường hiệu lực và hiệu quả thực thi các chính sách về môi trường. Công tác kiểm tra, giám sát
cần được thực hiện đồng thời cả cơ chế tiền kiểm và hậu kiểm về vấn đề môi trường đối với
các dự án FDI nói riêng cũng như dự án đầu tư nói chung. Bên cạnh đó, cần quy định chi tiết
về hình thức, thời gian cung cấp thơng tin mơi trường của cơ sở gây ô nhiễm và của cơ quan
nhà nước đến mọi tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư. Biện pháp này sẽ giúp tránh được tình
trạng khi có u cầu cung cấp thơng tin mơi trường của doanh nghiệp gây ô nhiễm nghiêm
trọng không bị chuyển hóa thành biểu tình, gây mất trật tự an ninh... do hành vi khoái thác
trách nhiệm của cơ sở gây ô nhiễm môi trường nước.

Tác giả cho rằng để nâng cao hiệu quả kiểm sốt xả thải mơi trường nước ở Việt Nam
trong tổng thể các giải pháp, trước mắt cần nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa, những thiếu sót
của quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát xả thải mơi trường nước như trình bày ở trên.
Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật, trước thực trạng trên, đòi hỏi nhà nước ta
cần tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng thoát nước, thu gom và xử lý nước thải sinh
hoạt, nước thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp; tăng cường xã hội hóa, huy động sự tham
gia của các tổ chức, đồn thể, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và nhân dân trong cơng tác vệ
sinh mơi trường nước. Bên cạnh đó, Việt Nam cần sàng lọc lại các dự án FDI và siết chặt tất
cả khâu cấp phép dự án, giám sát. Mất đi một số dự án FDI xấu và đi kèm là những lợi ích
kinh tế là khó tránh khỏi. Nếu thực sự quyết tâm thốt khỏi mơ hình tăng trưởng dựa vào FDI,
phát triển thiếu bền vững thì phải chấp nhận hy sinh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đó là một con
đường khơng hề dễ dàng nhưng phải đi tới cùng. Chúng ta phải thay đổi tư duy về vấn đề môi
trường. Phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ mơi trường, kiên quyết khơng vì kinh tế mà
đánh đổi môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật BVMT năm 2014.
2. Nghị định số 19/2015 về hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật BVMT năm 2014.
3. Luật Tài nguyên nước 2012
4. Luật Thủy lợi 2017.
5. Nghị định 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải
6. Nghị định 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu.
7. Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê
8. />9. />10. />11. />
1017



×