Tải bản đầy đủ (.docx) (227 trang)

Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 227 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG DẠI HỌC LUẬT
TP. HỔ CHÍ MÌNH

NGƠ KHÁNH TÙNG

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
ĐƯA VÀO KINH DOANH KHI LY HÔN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan những nội dung trong luận văn này là kết quả nghiên cứu do
tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê Vĩnh Châu. Mọi thông tin tham
khảo được sử dụng trong luận văn đều đảm bảo tính trung thực và tuân thủ quy định về
trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Nếu có sự gian dối, tơi xin chịu hồn tồn trách
nhiệm.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Nội dung được viết tắt


Từ viết tắt

1

Bộ luật Dân sự

BLDS

2

Doanh nghiệp tư nhân

DNTN

3

Luật Doanh nghiệp

Luật DN

4

Luật Hơn nhân và gia đình

Luật HNGĐ

5

Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Nghị định 78/2015/NĐ-CP
Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp


6

Tồ án nhân dân

TAND

7

Trách nhiệm hữu hạn

TNHH

8

Thơng tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật Hơn nhân và gia đình

Thơng tư liên tịch
01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1

PHỤ LỤC 2


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ly hôn là một trong những loại tranh chấp hoặc yêu cầu về hơn nhân và gia
đình được Tồ án thụ lý và giải quyết tương đối phổ biến và có xu hướng ngày càng
gia tăng qua các năm1. Ly hôn không chỉ đơn thuần là việc chấm dứt quan hệ vợ
chồng mà nó cịn kéo theo hệ quả về nhân thân và tài sản, cụ thể là vấn đề giải quyết
quyền lợi con chung và chia tài sản chung của vợ chồng. Trong đó, vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng thường gây ra khơng ít những khó khăn, trở ngại cho cơ
quan tiến hành tố tụng. Điều này xuất phát từ nhiều ngun nhân khác nhau, đó có
thể do tính chất phức tạp cũng như đặc thù của từng loại tài sản; hay liên quan đến
việc xem xét công sức đóng góp của vợ, chồng trong q trình tạo lập, duy trì, phát
triển khối tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm tạo cơ sở để xác
định tỷ lệ phân chia thoả đáng.
Về nguyên tắc, trong q trình chung sống, vợ, chồng phải có nghĩa vụ chăm
lo đời sống vật chất của gia đình, ni nấng, dưỡng dục con cái. Để đảm bảo điều
này, đòi hỏi vợ, chồng phải tham gia lao động, sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của bản thân và gia đình. Bên cạnh việc lao động, sản xuất, vợ chồng có thể lựa
chọn phương án dùng tài sản chung để thành lập doanh nghiệp, hộ kinh doanh hay
góp vốn vào doanh nghiệp để hưởng lợi nhuận nhằm phát triển khối tài sản chung
của vợ chồng... Do vậy, khi đời sống hơn nhân khơng thể duy trì, vấn đề chia tài sản
chung là hết sức phức tạp, đặc biệt là tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh
doanh. Bởi vì đối với loại tài sản này, việc phân chia không chỉ chịu sự điều chỉnh
bởi pháp luật hôn nhân và gia đình mà cịn liên quan đến pháp luật về kinh doanh.
Với một số loại tài sản đặc thù như quyền sử dụng đất, nhà ở hay tài sản trong
trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình thì việc giải quyết các loại tài sản này

khi ly hôn đã được Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh và tiếp tục được
ghi nhận trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nhưng đối với trường hợp chia
tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn thì đây là vấn đề mới
được điều chỉnh bởi Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014. Sự bổ sung này là cần
thiết, phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên,
cũng chính vì đây là cơ chế pháp lý mới mẻ và có mối liên hệ mật thiết với một số
1 Toà án nhân dân tối cao, “Đánh giá quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 qua thực tiễn giải
quyết các vụ việc về hơn nhân và gia đình của Tồ án nhân dân”, Tham luận tại Hội nghị sơ kết thi hành Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 30/7/2019 tại Hà Nội, tr. 1-2.


6

quy định khác trong văn bản pháp luật chuyên ngành nên cơ chế điều chỉnh vấn đề
này vẫn còn tồn tại những điểm bất cập, thiếu sót, như:
- Về phương thức chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly
hôn trong trường hợp vợ chồng cùng tham gia hoạt động kinh doanh;
- Cơ sở xác định cơng sức đóng góp của vợ, chồng trong hoạt động kinh
doanh nhằm phân định tỷ lệ được minh bạch, thỏa đáng.
Vì những lẽ đó, có một hành lang pháp lý vững chắc và toàn diện về chia tài
sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn là điều cần thiết trong bối
cảnh hiện nay. Do đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Chia tài sản chung của vợ
chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam” để thực hiện
Luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh
khi ly hơn, có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu sau đây:
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Hơn
nhân và gia đình (tái bản có sửa đổi, bổ sung), NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt
Nam. Trong giáo trình này, nhóm tác giả có đề cập đến vấn đề chia tài sản chung của

vợ chồng khi ly hôn tại mục 2.2 thuộc chương VIII về hậu quả pháp lý của ly hôn.
Đây là nguồn tài liệu giúp tác giả khi giải quyết các vấn đề lý luận trong luận văn.
Tuy nhiên, phần nội dung này chỉ nhắc đến việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
theo nguyên tắc chung. Liên quan đến các trường hợp cụ thể, giáo trình cũng chỉ
trình bày về việc chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất khi ly hơn
chứ khơng phân tích các trường hợp khác như chia tài sản chung của vợ chồng là nhà
ở hay chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn. Hơn nữa, cơng
trình khoa học này được biên soạn nhằm mục đích giảng dạy trong các cơ sở đào tạo
Luật, vì vậy việc đánh giá thực tiễn, chỉ ra hạn chế, vướng mắc khơng được đề cập.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả cần làm rõ các khía cạnh này.
- Tưởng Duy Lượng (2013), Pháp luật hơn nhân - gia đình, thừa kế và thực
tiễn xét xử, NXB. Chính trị quốc gia. Nội dung quyển sách nghiên cứu về nhiều vấn
đề nổi bật trong pháp luật về hơn nhân và gia đình cũng như pháp luật về thừa kế.
Trong đó, tác giả có đề cập đến việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo
cơ chế pháp lý được ghi nhận tại Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000. Điểm đáng
lưu ý của cơng trình này là tác giả đã dành một mục riêng để nêu lên kiến nghị cần


7

bổ sung quy định điều chỉnh vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động
kinh doanh khi ly hơn bởi nó chưa được Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 ghi
nhận. Kiến nghị này mang tính chất định hướng, gợi mở cho quá trình nghiên cứu
sâu hơn về nội dung này.
- Nguyễn Ngọc Điện, Đoàn Thị Phương Diệp (2018), Pháp luật về quan hệ
tài sản giữa vợ chồng, NXB. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Những vấn
đề pháp lý liên quan đến việc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo nguyên
tắc chung được tác giả phân tích cụ thể, chi tiết trong cơng trình này. Vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn được nhắc đến khi tác giả
trình bày về cấu tạo các phần tài sản chia. Đây có thể coi là tiền đề để các cơng trình

nghiên cứu tiếp theo đi sâu vào phân tích, luận giải nhằm làm nổi bật lên những đặc
trưng trong việc phân chia loại tài sản này khi giải quyết ly hôn.
- Nguyễn Phương Lan (chủ nhiệm đề tài) (2008), Tài sản của vợ chồng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại
học Luật Hà Nội. Công trình này đã tập trung nghiên cứu các khía cạnh pháp lý về
tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000. Đề tài giới hạn nghiên cứu ba nhóm vấn đề cơ bản:
(i) Lý luận chung về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng; (ii) Quyền sở hữu tài sản
của vợ chồng trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong các giao dịch dân sự,
thương mại; và (iii) Vấn đề giải quyết tranh chấp về quyền tài sản của vợ chồng.
Nhìn chung, đề tài đã cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quan về việc sử dụng tài
sản của vợ chồng vào hoạt động sản xuất kinh doanh và cơ chế giải quyết tranh chấp
liên quan đến loại tài sản này. Về cơ chế pháp lý, cơng trình chú trọng luận giải dựa
trên quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, do vậy rất cần thiết để
nghiên cứu vấn đề tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng
như nguyên tắc phân chia loại tài sản này theo Luật Hơn nhân và gia đình đang có
hiệu lực pháp luật.
- Phạm Thị Anh (2015), Xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đề tài đã nêu lên được một số vấn đề lý luận về xác định tài sản của vợ chồng khi ly
hôn và phân tích quy định của pháp luật ở một số nước trên thế giới và Luật Hơn
nhân và gia đình Việt Nam hiện hành về vấn đề này. Không dừng lại ở đó, tác giả
cịn trình bày ngun tắc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đồng thời đưa ra
các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả cơ chế thực thi. Cũng vì đây


8

là đề tài nghiên cứu về vấn đề xác định tài sản của vợ chồng khi ly hơn nói chung
nên tác giả hướng đến làm rõ việc xác định tài sản và phân chia tài sản theo nguyên

tắc chung chứ không bàn về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi
ly hôn.
- Đinh Thanh Phương (2012), “Xem xét yếu tố đóng góp tiêu cực và bạo lực
gia đình trong phân chia tài sản khi ly hơn”, Nghiên cứu lập pháp, số 3, tr. 47-49. Bài
viết thể hiện quan điểm của tác giả về việc xem xét yếu tố đóng góp tiêu cực vào
khối tài sản chung của vợ chồng, và mối liên quan giữa bạo lực gia đình và phân chia
tài sản chung của vợ chồng. Bên cạnh đó, tác giả cũng trình bày khái qt về tài sản
hôn nhân và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy
định trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu,
làm sáng tỏ những vấn đề mà tác giả tiếp cận trong bài viết này theo quy định của
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 là điều cần thiết.
- Nguyễn Hoàng Long (2015), “Bàn về cơng sức trong vụ án hơn nhân và gia
đình”, Toà án nhân dân, số 9, tr. 15-22. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích các
khía cạnh về lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn xác định cơng sức đóng góp khi
giải quyết các vụ việc hơn nhân và gia đình, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp
luật. Tuy vậy, đây chỉ là một trong những nội dung được xem xét đến trong việc chia
tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn. Để có cái nhìn tồn diện,
chúng ta cần nghiên cứu thêm những khía cạnh khác của vấn đề.
Không thể phủ nhận, ở mức độ nhất định, các bài viết, cơng trình kể trên đã
cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quan về vấn đề chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu chuyên sâu về việc phân chia một
số loại tài sản mang tính chất đặc thù khi ly hôn. Đặc biệt, đối với việc chia tài sản
chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn hiện nay có rất ít cơng trình
nghiên cứu. Cơng trình sau đây là một trong những tài liệu tham khảo nổi bật về vấn
đề này:
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Sách tình huống
(bình luận bản án) Luật Hơn nhân và gia đình, Lê Vĩnh Châu (chủ biên), NXB.
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Trong sách tình huống này, nhóm tác giả đã
dành một chủ đề riêng bàn về vấn đề chia tài sản của vợ chồng trong doanh nghiệp
khi ly hôn. Bằng phương pháp bình luận bản án, tác giả lần lượt phân tích hai vấn đề

trọng tâm bao gồm: (i) Ghi nhận việc ly hôn không ảnh hưởng tới hoạt động của


9

doanh nghiệp; và (ii) Biện pháp bảo đảm việc ly hôn không ảnh hưởng đến doanh
nghiệp. Điểm nổi bật trong cơng trình này là tác giả đã có sự đối sánh với thực tiễn
giải quyết tranh chấp ở Cộng hoà Pháp để làm bật lên những hạn chế, thiếu sót trong
quy định pháp luật cũng như thực tiễn xét xử ở Việt Nam. Có thể thấy, đây là tài liệu
có tính chun sâu và có giá trị tham khảo khi nghiên cứu về vấn đề chia tài sản
chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn tính đến thời điểm hiện tại. Tuy
nhiên, xuất phát từ tính chất của cơng trình, chủ đề này chỉ dừng lại ở việc làm rõ
một trong các trường hợp điển hình, mang tính phổ biến là vợ (chồng) hoặc cả vợ và
chồng góp vốn vào doanh nghiệp có tư cách pháp nhân chứ không đề cập đến các
trường hợp khác như chia tài sản chung của vợ chồng trong doanh nghiệp tư nhân,
hộ kinh doanh khi ly hôn.
Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hơn nói chung và chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly
hơn nói riêng đã có từ khá lâu. Trong đó, có một số cơng trình có giá trị tham khảo
cho việc nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của luận văn này, cụ thể:
- Koons C. William, Robert E. Jr. Holmes (1987), “Division of Property at
Divorce”, Baylor Law Review, vol. 39, no. 4, tr. 977-1034. Bài viết tập trung nghiên
cứu về chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn ở bang Texas của Hợp chúng quốc Hoa
Kỳ. Trong bài viết này, tác giả đã trình bày về phương thức phân chia các loại tài sản
cụ thể, xác định các loại tài sản không thể phân chia khi giải quyết ly hơn, ... Đặc
biệt, tác giả bài viết có đề cập đến việc chia tài sản chung của vợ chồng là cổ phần
trong công ty khi ly hôn thông qua việc phân tích án lệ và đây cũng là nội dung mà
tác giả có thể tham khảo trong q trình thực hiện luận văn này.
- Brett R. Turner (2003), “Division of Third-Party Property in Divorce
Cases”, Journal of the American Academy of Matrimonial Lawyers, vol. 18, no. 2, tr.

375-428. Vấn đề mấu chốt trong bài viết này thể hiện ở việc tác giả đã nhận diện,
làm rõ mối quan hệ giữa tài sản chung của vợ chồng và tài sản của bên thứ ba trong
các vụ việc ly hôn ở Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Đối với tài sản chung của vợ chồng
đưa vào kinh doanh, tác giả đã chỉ ra các trường hợp được chia tài sản trong doanh
nghiệp và ngược lại. Đây được xem là tiền đề để cơ quan tài phán có thể đưa ra phán
quyết chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn được chuẩn
xác.


10

- Jonathan Herring (2013), Family law (6th edition), Pearson, New York: Các
vấn đề pháp lý về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ở Vương quốc Anh
được tác giả luận bàn ở Chương 5 của quyển sách này. Thông qua việc viện dẫn án
lệ, tác giả rút ra một số điểm nổi bật trong việc chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn ở Vương quốc Anh như: Cơng bằng là tiêu chí hướng dẫn để Tồ án ban hành
lệnh chia tài sản; Có 03 cơ sở chính trong việc ban hành lệnh chia tài sản gồm: nhu
cầu, sự đền bù và sự chia sẻ thành quả của hơn nhân; Khơng nên có sự phân biệt đối
xử giữa người kiếm tiền, người làm công việc nội trợ và chăm sóc con cái trong việc
xem xét cơng sức đóng góp khi giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hơn...
Qua q trình nghiên cứu các tài liệu, tác giả nhận thấy hầu hết các cơng trình
trước đây thường chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn theo nguyên tắc chung. Riêng đối với vấn đề chia tài sản chung của vợ
chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn, số lượng cơng trình nghiên cứu vẫn cịn ở mức
độ hạn chế. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài trên nhiều khía cạnh khác nhau từ góc độ
quy định của pháp luật Việt Nam đến việc đối chiếu với pháp luật một số quốc gia
trên thế giới, kèm theo đó là nêu lên thực tiễn giải quyết tranh chấp để có cơ sở đưa
ra kiến giải phù hợp là điều nên làm trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn được thực hiện nhằm làm rõ những khía cạnh pháp lý và thực tiễn
áp dụng pháp luật, từ đó kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hiện
hành về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, trong luận văn, tác giả tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, làm sáng tỏ các vấn đề về mặt lý luận của chia tài sản chung của vợ
chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn, bao gồm khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ
sở của việc ghi nhận cơ chế chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi
ly hơn.
Thứ hai, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về chia tài sản chung
của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn, trong đó có sự liên hệ với pháp luật của
một số quốc gia trên thế giới về vấn đề này.


11

Thứ ba, tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến việc chia tài
sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn, từ đó chỉ ra những vướng
mắc, bất cập từ thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
Thứ tư, kiến nghị các giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh
khi ly hơn dưới khía cạnh lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng. Nội dung
đề tài chú trọng làm sáng tỏ các quy định trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014
phương thức chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn và vấn
đề xem xét nghĩa vụ tài sản của vợ chồng liên quan đến tài sản chung đưa vào kinh
doanh đối với người thứ ba khi giải quyết ly hôn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng đưa
vào kinh doanh khi ly hôn trong quan hệ hơn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt
Nam với nhau. Về giới hạn cơ chế pháp lý nghiên cứu, tác giả chú trọng nghiên cứu
Luật Hôn nhân và gia đình và văn bản hướng dẫn thi hành luật. Hơn nữa, nhằm làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, tác giả cũng viện dẫn một số quy định có liên quan trong
Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã... Ngoài ra, trong phạm vi luận
văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào
kinh doanh khi ly hôn tiếp cận từ chế độ tài sản pháp định chứ không bàn về thoả
thuận chế độ tài sản của vợ chồng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả vận dụng một số phương pháp
nghiên cứu, cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích được vận dụng xuyên suốt luận văn nhằm khắc hoạ rõ
nét những vấn đề mà luận văn nghiên cứu từ lý luận đến quy định pháp luật và thực
tiễn áp dụng.
Phương pháp tổng hợp góp phần hệ thống các vấn đề, quan điểm thành một
chỉnh thể thống nhất, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về cơ chế điều chỉnh và
hiệu quả thực thi pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh


12

khi ly hôn. Phương pháp này được vận dụng tại mục 1.1.1, kết luận của các chương
và của luận văn.
Phương pháp lịch sử được áp dụng khi tác giả trình bày về quy định của pháp
luật Việt Nam liên quan đến vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh
doanh khi ly hôn ở một số giai đoạn lịch sử nhất định. Điều này được thể hiện rõ nét
tại mục 1.3.2 của luận văn.
Phương pháp so sánh luật học được sử dụng để làm rõ những điểm tương

đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số quốc gia trên thế
giới về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn, từ đó
tạo cơ sở đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Phương pháp này được thể
hiện rõ nét tại mục 1.4 của luận văn.
Phương pháp bình luận án được vận dụng tại chương 2 của luận văn khi tác
giả lồng ghép những bản án, quyết định của Toà án trên thực tế nhằm đánh giá, nêu
quan điểm về tính hợp lý trong phán quyết của Toà án.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài nghiên cứu sẽ mang đến cái nhìn bao quát về chia tài sản chung của vợ
chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn. Các điểm bất cập, vướng mắc cũng như các
giải pháp được nêu ra có giá trị tham khảo trong quá trình hồn thiện pháp luật về
chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn.
Luận văn có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan
đến chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn nói chung và chia tài sản chung của
vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn nói riêng trong các cơng trình nghiên cứu
tiếp theo. Ngồi ra, luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo khi nghiên cứu chuyên
sâu về môn học Luật Hơn nhân và gia đình.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi danh mục các từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
luận văn được chia thành 03 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Trong đó, phần nội dung được chia thành 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào
kinh doanh khi ly hơn.
Chương
chồng
đưa
2.
vào
Thực
kinh

trạng
doanh
phápkhi
luật
lyvề
hơn,
chia
thực
tàitiễn
sản áp
chung
dụng
của
vàvợ
một
số
kiến
nghị
hồn
thiện.


CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG ĐƯA VÀO KINH DOANH KHI LY HÔN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào
kinh doanh khi ly hôn
1.1.1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi
ly hôn
Khái niệm tài sản

Tài sản là thuật ngữ hết sức gần gũi và thân thuộc đối với mỗi người. Bởi lẽ,
tài sản là đối tượng của các giao dịch dân sự diễn ra hằng ngày trong đời sống xã hội,
từ những giao dịch phổ biến nhằm đáp ứng những nhu cầu không thể thiếu trong
cuộc sống như ăn, mặc, đi lại đến những giao dịch có giá trị lớn liên quan đến nhà ở,
đất đai... Nhìn chung, đây là khái niệm rộng, có thể được hiểu dưới nhiều góc độ
khác nhau tuỳ thuộc vào cách tiếp cận của mỗi người. Theo Từ điển Tiếng Việt phổ
thông, “tài sản là của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu” 2.
Hoặc, theo hướng tiếp cận từ cơng dụng của tài sản, nó có thể được hiểu là “của cải
vật chất dành cho sản xuất hoặc tiêu dùng”3.
Dưới khía cạnh khoa học pháp lý, Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa “tài sản
là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất
khác”4. Trong khi khái niệm tài sản trong Từ điển Luật học góp phần làm rõ những
đặc trưng pháp lý để nhận diện tài sản thì Bộ luật Dân sự (viết tắt là BLDS) hiện
hành sử dụng phương pháp liệt kê khi tiếp cận khái niệm này. Theo đó, Điều 105
BLDS năm 2015 quy định “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Như vậy, thơng qua quy định vừa
nêu, chúng ta có thể phân định tài sản thành 04 nhóm chính như sau:
(i) Vật: có thể được hiểu là một bộ phận của thế giới vật chất, có trong tự
nhiên hoặc là kết quả của quá trình lao động sản xuất của con người như máy móc,
thiết bị, phương tiện vận chuyển. “Một vật được xem là tài sản nếu đáp ứng được các
đặc trưng cơ bản của tài sản gồm: có giá trị kinh tế, giá trị sử dụng, có thể được
2Viện ngơn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 811.
3Nguyễn Văn Xơ (chủ biên) (2008), Từ điển Tiếng Việt (tái bản lần thứ V), NXB. Thanh niên, tr. 631.
4Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB. Từ điển bách khoa, tr. 685.


chiếm giữ, quản lý, kiểm soát của con người”5. Theo quy định của BLDS hiện hành,
vật được phân chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ thuộc vào khía cạnh xem xét, bao
gồm: vật chính và vật phụ; vật tiêu hao và vật không tiêu hao; vật cùng loại và vật

đặc định; vật đồng bộ.
(ii) Tiền: Ở các quốc gia, khu vực trên thế giới, đơn vị tiền tệ có những tên
gọi và giá trị khác nhau. Tại Việt Nam, khái niệm về tiền trong BLDS năm 2015
trước hết cần hiểu tiền là Việt Nam đồng (VND), do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
độc quyền phát hành, giá trị đồng tiền được ghi trên bề mặt đồng tiền6. Tiền mang
nhiều chức năng, nó là phương tiện thanh tốn quen thuộc, được sử dụng rộng rãi
trong các giao dịch mua bán, trao đổi hàng hoá trong đời sống hằng ngày.
(iii) Giấy tờ có giá: Theo quy định tại khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam năm 2010, giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ
giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời
hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác. Giấy tờ có giá tồn tại dưới
nhiều dạng khác nhau, gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu,
chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp
luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch7.
(iv) Quyền tài sản: Điều 115 BLDS năm 2015 định nghĩa quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng của quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác, ví dụ như quyền địi nợ,
quyền u cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm...
Quyền tài sản cịn có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quyền và lợi ích
của chủ thể trong việc chi phối, kiểm soát tài sản gồm chủ sở hữu và người có quyền
khác đối với tài sản8.
Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Trên nền tảng khái niệm về tài sản, tài sản chung của vợ chồng cũng bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Về nguyên tắc, hôn nhân là sự gắn kết
5 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa
kế (tái bản có sửa đổi, bổ sung), Lê Minh Hùng (chủ biên), NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 37.
6 Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hồ xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB. Cơng an nhân dân, tr. 204.
7 Khoản 9 Điều 3 Văn bản hợp nhất số 8019/VBHN-BTP ngày 10/12/2013 của Bộ Tư pháp hợp nhất Nghị
định về giao dịch bảo đảm.

8Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ, tlđd (6), tr. 228.


giữa vợ và chồng, đó khơng chỉ là sự gắn kết về mặt tình cảm mà nó cịn là sự tương
trợ lẫn nhau trong việc xây dựng gia đình và giáo dưỡng con cái. Do vậy, về cơ bản,
quan hệ nhân thân và tài sản của vợ, chồng tồn tại song song với sự tồn tại và phát
triển của quan hệ hơn nhân, “nếu khơng có hơn nhân thì khơng có tài sản chung; hơn
nhân càng dài, khối tài sản chung càng có điều kiện tốt về thời gian để phát triển lớn
mạnh”9. Trong lịch sử lập pháp, có những giai đoạn tài sản của vợ, chồng không
phân biệt là tài sản có trước hay trong thời kỳ hơn nhân đều được coi là tài sản chung
của vợ chồng, minh chứng là quy định trong Bộ luật Hồng Đức dưới thời nhà Lê 10,
Luật Gia đình số 1/5911, Luật Hơn nhân và gia đình (viết tắt là Luật HNGĐ) năm
195912. Ngày nay, pháp luật quy định tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản chung và
tài sản riêng. Nhìn chung, ở bất kỳ giai đoạn nào, cơ chế về tài sản chung của vợ
chồng vẫn luôn hiện hữu với sứ mệnh thể hiện sự gắn kết về mặt tài sản giữa vợ và
chồng, góp phần đảm bảo đời sống vật chất cho gia đình.
Hiện nay, Luật HNGĐ năm 2014 không đưa ra khái niệm tài sản chung của
vợ chồng mà theo hướng liệt kê các căn cứ để nhận diện loại tài sản này tại Điều 33.
Theo đó, tài sản chung của vợ chồng bao gồm:
Thứ nhất, tài sản do vợ, chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân.
Về mặt pháp lý, quan hệ vợ chồng được xác lập kể từ thời điểm nam, nữ thực
hiện thủ tục đăng ký kết hơn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quan hệ vợ chồng
xác lập đồng nghĩa với việc giữa vợ và chồng ràng buộc nhau các quyền và nghĩa vụ
nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật. Điều này được thể hiện ở việc pháp
luật hơn nhân và gia đình Việt Nam quy định theo hướng mở rộng, phát triển khối tài
sản chung của vợ chồng. Theo đó, hầu hết những tài sản được hình thành trong
khoảng thời gian tồn tại quan hệ hôn nhân được coi là tài sản chung của vợ chồng,
trừ một số trường hợp luật định. Theo khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014, tài
sản chung của vợ chồng gồm: (i) Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
9Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam (Tập II - Các quan hệ

tài sản giữa vợ chồng), NXB. Trẻ, tr. 41.
10
Trương Thị Hoà, Phan Đăng Thanh (2000), Pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay,
NXB. Trẻ, tr. 100.
11“Nếu vợ chồng khơng lập hơn ước thì tất cả tài sản đều đặt dưới chế độ cộng đồng tài sản (của chung) nghĩa
là tất cả tài sản và hoa lợi của vợ hay của chồng dù có từ bao đời (trước hay sau khi kết hôn) đều là tài sản
chung” - Xem thêm: Trương Thị Hoà, Phan Đăng Thanh, tlđd (10), tr. 133.
12
Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ghi nhận vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ
và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới.


hoạt động sản xuất, kinh doanh; (ii) Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ,
chồng; và (iii) Thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. Hơn nữa, kế thừa
quy định trong Luật HNGĐ năm 2000, khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014 cũng
ghi nhận quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn được xem là tài
sản chung của vợ chồng. Như vậy, thời kỳ hôn nhân - khoảng thời gian tồn tại quan
hệ vợ chồng (tính từ ngày đăng ký kết hôn cho đến khi quan hệ hôn nhân chấm dứt)13
chính là một trong những căn cứ quan trọng để xác định tài sản chung của vợ chồng.
Thứ hai, tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung.
Bên cạnh những tài sản, của cải do bản thân vợ hoặc chồng tạo lập trong thời
kỳ hôn nhân như trên, tài sản chung của vợ chồng còn có thể là những tài sản mà vợ
chồng được nhận từ chủ thể khác thông qua việc tặng cho chung hay để lại thừa kế
chung. Theo quy định của pháp luật về thừa kế, tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung chỉ có thể thơng qua hình thức thừa kế theo di chúc14, tức là sự thể hiện ý chí
của người chết để lại di sản cho vợ chồng và khơng có sự phân định tỷ lệ rõ ràng
phần của mỗi người được hưởng trong khối di sản được thừa kế chung. Tương tự,
đối với trường hợp tặng cho chung, chủ sở hữu cũng thể hiện ý chí tặng tài sản cho
cả hai vợ chồng và không xác định rõ phần quyền sở hữu của từng người trong phần
tài sản được tặng cho chung.

Thứ ba, tài sản chung được xác lập dựa trên ý chí của vợ chồng.
Về bản chất, quan hệ hơn nhân và gia đình là quan hệ dân sự theo nghĩa rộng.
Do vậy, trong mối quan hệ này, sự tự nguyện, bình đẳng, thống nhất ý chí giữa vợ và
chồng cũng như giữa các thành viên khác trong gia đình ln được pháp luật quan
tâm, đề cao. Theo đó, vợ chồng có quyền thoả thuận xem một tài sản có nguồn gốc
từ tài sản riêng của một bên là tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật thừa nhận cho
vợ, chồng có quyền nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng vào tài sản chung trong thời
kỳ hơn nhân. Trên cơ sở khuyến khích việc xây dựng và phát triển khối tài sản chung
của vợ chồng, đồng thời đảm bảo quyền tự định đoạt tài sản của chủ sở hữu, Điều 46
Luật HNGĐ năm 2014 nêu rõ: “Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản
chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng. Tài sản được nhập vào tài sản

13
Khoản 13 Điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
14
Theo khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015, những người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là
cá nhân và trong đó con dâu, con rể, cháu dâu, cháu rể không thuộc diện thừa kế.


chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tn
theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó”.
Thứ tư, xác định tài sản chung dựa vào nguyên tắc suy đốn pháp lý.
Trong thời kỳ hơn nhân, đơi khi việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của
vợ, chồng gặp nhiều khó khăn bởi thiếu sự tách bạch rạch ròi phần tài sản thuộc sở
hữu của mỗi bên trong quan hệ hôn nhân. Khi ly hôn, nếu một bên vợ, chồng cho
rằng tài sản tranh chấp là tài sản riêng thì họ phải có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ
nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình theo như tinh thần của pháp luật tố tụng dân
sự. Trong trường hợp bên u cầu khơng có chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
công nhận tài sản riêng, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ vận dụng nguyên tắc suy đoán
pháp lý để ra phán quyết. Cụ thể, khoản 3 Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014 định rõ

trong trường hợp khơng có căn cứ chứng minh một tài sản đang có tranh chấp là tài
sản riêng của vợ, chồng thì nó được xem là tài sản chung của vợ chồng.
Điểm đặc trưng là tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất,
tức là phần quyền sở hữu của vợ, chồng không được xác định đối với tài sản chung,
và vợ, chồng có quyền sở hữu ngang nhau đối với khối tài sản này15. Và tài sản
chung hợp nhất này thuộc loại tài sản chung hợp nhất có thể phân chia nếu vợ chồng
có thoả thuận, ví dụ như chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để
đáp ứng nhu cầu độc lập về mặt tài chính của mỗi bên vợ, chồng; hoặc tài sản chung
của vợ chồng cũng có thể được phân chia theo phán quyết của cơ quan tài phán khi
phát sinh một trong số các sự kiện pháp lý như ly hôn, một bên vợ, chồng chết hoặc
bị Tồ án tun bố là đã chết. Cũng chính vì tài sản chung của vợ chồng là tài sản
chung hợp nhất nên trong hầu hết các trường hợp việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
khối tài sản này đòi hỏi phải có sự ưng thuận của hai vợ chồng. Trong q trình
chung sống, vợ chồng có thể thoả thuận sử dụng khối tài sản chung này cho nhiều
mục đích khác nhau, trong đó có trường hợp vợ chồng thoả thuận đưa tài sản chung
vào kinh doanh.
Khái niệm tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh
Kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế - xã hội. Tương tự
khái niệm tài sản, khái niệm kinh doanh cũng được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Theo cách hiểu thông thường, “kinh doanh là tổ chức việc sản xuất, buôn
15

Điều 210, 213 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 33 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.


bán, dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi”16. Từ điển Luật học định nghĩa “kinh doanh là
các hoạt động đầu tư, sản xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ do các chủ thể kinh
doanh tiến hành một cách độc lập, thường xuyên trên thị trường nhằm mục đích lợi
nhuận”17. Tiếp cận dưới góc độ pháp luật doanh nghiệp, khoản 16 Điều 4 Luật Doanh
nghiệp (viết tắt là Luật DN) năm 2014 lý giải “kinh doanh là việc thực hiện liên tục

một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”18.
Có thể thấy, mục đích của hoạt động kinh doanh là sinh lợi, những khoản lợi
nhuận thu được trong q trình kinh doanh có thể là một khoản thu nhập có giá trị
lớn đóng góp vào khối tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, một bên vợ (chồng)
không thể tuỳ tiện đưa tài sản chung của vợ chồng vào kinh doanh. Bởi lẽ, tài sản
được sử dụng cho mục đích kinh doanh khơng phải là tài sản riêng của một cá nhân
mà là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng; vì thế, việc sử dụng tài sản
này để đầu tư kinh doanh phải đảm bảo tuân thủ các điều kiện được ghi nhận trong
BLDS và Luật HNGĐ hiện hành. Dựa vào thoả thuận của vợ chồng, một bên vợ
(chồng) tham gia kinh doanh từ tài sản chung và có quyền tự mình thực hiện các giao
dịch liên quan đến tài sản chung đó theo quy định tại Điều 36 Luật HNGĐ năm
2014. Thông thường, tài sản được đưa vào kinh doanh thường có giá trị lớn như tiền,
nhà ở, cơng trình xây dựng có sẵn của cá nhân 19, quyền sử dụng đất20,... Vì vậy, pháp
luật đặt ra yêu cầu thoả thuận của vợ chồng phải lập thành văn bản. Đây cũng là
minh chứng quan trọng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn liên
quan đến việc xác định nghĩa vụ chung, riêng của vợ chồng liên quan đến hoạt động
kinh doanh.
Trên thực tế, việc vợ chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh hoặc trực tiếp
tham gia kinh doanh diễn ra khá phổ biến. Ví dụ, hộ gia đình (trong đó có vợ, chồng)
thực hiện hoạt động kinh doanh với quy mô nhỏ như cửa hàng, sạp chợ, quán ăn 20 21,
hoặc vợ chồng dùng tài sản chung góp vốn vào doanh nghiệp, mua cổ phần trong
16
Hồng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, tr. 529.
17
Viện khoa học pháp lý, tlđd (4), tr. 450-451.
18
Luật Doanh nghiệp năm 2020 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021) giải thích “kinh doanh là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả cơng đoạn của q trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”. Nhìn chung, khái niệm “kinh doanh”

trong 02 văn bản khơng có nhiều sự khác biệt.
19
Khoản 1 Điều 5 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.
20
Người sử dụng đất được góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi thoả mãn các điều kiện được quy định
tại Điều 188 Luật Đất đai năm 2013.


cơng ty... Nhưng chung quy lại, dù lựa chọn hình thức kinh doanh nào thì việc vợ
chồng tham gia kinh doanh với mục đích chủ yếu vẫn là phát triển khối tài sản chung
của vợ chồng nhằm mang lại cuộc sống sung túc hơn cho gia đình. Trong quá trình
kinh doanh, khối tài sản chung của vợ chồng có thể được “sản sinh” thêm, đó có thể
là hiện vật hoặc giá trị. Tài sản của doanh nghiệp hết sức đa dạng, nó có thể bao
gồm: tiền mặt, chứng khốn, trụ sở, nhà xưởng, cơng trình xây dựng, máy móc thiết
bị, cửa hàng, hàng hoá, nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư, tên thương mại, nhãn hiệu
hàng hoá, mạng lưới khách hàng 22. Ngược lại, nếu như quá trình kinh doanh chịu
thua lỗ thì vấn đề xác định nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng đối với tài sản chung
của vợ chồng đưa vào kinh doanh cũng sẽ được đặt ra và cách thức xác định nghĩa
vụ của vợ, chồng có thể khác nhau tuỳ từng trường hợp, phụ thuộc vào hình thức
kinh doanh mà vợ chồng lựa chọn. Nội dung này sẽ được tác giả lý giải cụ thể tại
mục 2.4 của luận văn.
Khái niệm ly hôn
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình23, trong đó có việc xác lập, thực hiện các giao
dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
gia đình. Tuy nhiên, khi cuộc sống vợ chồng khơng cịn sự sẻ chia, hơn nhân khơng
đạt được mục đích, vợ chồng có quyền tìm ra cách thức giải quyết tình trạng hơn
nhân trầm trọng của mình và ly hơn được coi là một trong những cách giải quyết
đó24. Xét trong quan hệ hơn nhân, ly hơn là sự giải thốt khỏi những mâu thuẫn nội
tại giữa vợ và chồng, giúp họ có cuộc sống tự do và khơng cịn sự ràng buộc lẫn

nhau. Theo Từ điển Luật học, ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng do Toà án nhân
dân (viết tắt là TAND) công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng
hoặc của hai vợ chồng. Pháp luật bảo đảm quyền yêu cầu giải quyết ly hôn trong
khuôn khổ pháp luật nhằm tránh việc lạm dụng quyền này gây ảnh hưởng theo
hướng tiêu cực đến gia đình và xã hội. Tịa án chấp nhận u cầu ly hơn của vợ,
chồng hoặc cơng nhận thuận tình ly hơn của vợ chồng phải dựa vào thực chất quan
21
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh
(tái bản lần 1, có sửa đổi và bổ sung), Bùi Xuân Hải (chủ biên), NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.
99.
22
Viện khoa học pháp lý, tlđd (4) , tr. 686.
23
Điều 17 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
24
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình (tái bản
có sửa đổi, bổ sung), Lê Vĩnh Châu (chủ biên), NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 419-420.


hệ vợ chồng và phải phù hợp với các căn cứ ly hôn mà pháp luật quy định. Khi vợ
chồng ly hôn, hệ quả pháp lý về nhân thân và tài sản giữa họ và người thứ ba, giữa
vợ và chồng đối với con cái sẽ được Toà án giải quyết trên cơ sở pháp luật thực định.
Kể từ ngày bản án ly hôn hoặc quyết định công nhận thuận tình ly hơn của Tịa án có
hiệu lực pháp luật thì quan hệ hơn nhân chấm dứt trước pháp luật 25. Dưới khía cạnh
quy định pháp luật, khoản 14 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014 đưa ra khái niệm “ly
hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tịa án”.
Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn
Trong thời kỳ hôn nhân, không có sự phân biệt ai là người có đóng góp nhiều
hơn vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung của vợ chồng vì đây là

tài sản chung hợp nhất. Tuy nhiên, khi quan hệ hôn nhân khơng thể duy trì thì tài sản
chung cần được phân định rạch ròi phần của từng người để giúp vợ chồng có thể ổn
định cuộc sống hậu ly hơn. Tài sản chung có thể được chia bằng hiện vật (đất đai,
nhà ở, phương tiện đi lại,...) hoặc bằng giá trị nếu không chia được bằng hiện vật.
Đối với hoạt động kinh doanh, khi ly hôn, tài sản mà các bên được nhận có thể là
máy móc, trang thiết bị, phương tiện vận chuyển hay số cổ phần cụ thể trong cơng ty
mà hai bên có quyền nắm giữ sau khi ly hơn.
Từ những nội dung vừa phân tích, có thể đúc kết khái niệm chia tài sản chung
của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn như sau: “Chia tài sản chung của vợ
chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn là phân định tài sản thuộc sở hữu chung của
vợ chồng được đưa vào thực hiện thường xun, liên tục các cơng đoạn của q
trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận thành từng phần thuộc sở hữu riêng của
vợ, chồng khi quan hệ hôn nhân chấm dứt theo bản án, quyết định của Tồ án có
hiệu lực pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm của chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh
khi ly hôn
Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh là một trong những hậu
quả pháp lý phát sinh từ sự kiện ly hôn của vợ chồng và việc phân chia loại tài sản
này có những đặc điểm cơ bản sau đây:
25

Viện khoa học pháp lý, tlđd (4), tr. 460-461.


Thứ nhất, chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh là một trường
hợp cụ thể trong chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh là một dạng chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hơn nên về cơ bản nó cũng mang những đặc điểm chung
của việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn như đề cao quyền tự định đoạt

của vợ chồng trong việc phân chia tài sản; Toà án chỉ tiến hành chia tài sản khi có
yêu cầu từ phía vợ (chồng) hoặc của hai vợ chồng. Tuy nhiên, kinh doanh là hoạt
động tương đối phức tạp với đa dạng các loại hình, ngành nghề kinh doanh và ứng
với mỗi loại hình, ngành nghề kinh doanh, pháp luật lại đặt ra những yêu cầu, điều
kiện nhất định về năng lực chủ thể, khả năng huy động vốn, trình độ chun mơn, số
lượng thành viên tham gia kinh doanh,... Vì vậy, trong việc phân chia loại tài sản đặc
thù này đòi hỏi cơ quan tài phán cần phải lưu tâm đến các khía cạnh pháp lý liên
quan đến hoạt động kinh doanh từ tài sản chung của vợ chồng, chứ không đơn thuần
là viện dẫn các nguyên tắc chung như khi phân chia các loại tài sản chung thông
thường khác. Tuỳ thuộc vào hình thức pháp lý mà vợ chồng lựa chọn để đưa tài sản
chung vào kinh doanh mà Tồ án sẽ có những cách thức chia tài sản chung của vợ
chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn khác nhau. Bởi lẽ, việc đưa tài sản chung vào
kinh doanh có liên quan mật thiết đến quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng, vì
đối với một số loại hình kinh doanh, khi vợ chồng đưa tài sản chung vào để đầu tư
kinh doanh sẽ dẫn đến sự dịch chuyển quyền sở hữu tài sản từ phía vợ chồng sang
cho công ty.
Thứ hai, việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn
chịu sự điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và gia đình và pháp luật về kinh doanh.
Luật HNGĐ với vai trò là đạo luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quan
hệ hơn nhân và gia đình như kết hôn, ly hôn, quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ con,
quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên khác trong gia đình. Do đó, đối với vấn đề
chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh - một trong những nội dung cần
được chú trọng khi giải quyết ly hôn cũng chịu sự điều chỉnh của Luật này. Khi giải
quyết ly hơn có liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng thì đối với bất kỳ
loại tài sản nào, Toà án cũng cần đảm bảo tuân thủ nguyên tắc giải quyết tài sản của
vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014 nói riêng và
những nguyên tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và gia đình được ghi nhận tại Điều 2
Luật HNGĐ năm 2014 nói chung.



Điểm son của chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn
thể hiện ở việc tài sản chung được phân chia gắn liền với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã. Bởi lẽ, khi vợ chồng đưa tài sản chung vào
các giao dịch dân sự, thương mại thì những tài sản đó chịu sự điều chỉnh của các luật
chuyên ngành trong từng lĩnh vực hoạt động tương ứng 26. Do vậy, việc chia tài sản
chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn không chỉ phải tuân thủ các quy
định chung trong pháp luật về hôn nhân và gia đình mà cịn phải đảm bảo thoả mãn
các quy định có liên quan trong pháp luật về kinh doanh.
Pháp luật Việt Nam ghi nhận nhiều loại hình kinh doanh khác nhau. Cụ thể,
quy định của Luật DN năm 2014 điều chỉnh đối với các loại hình doanh nghiệp bao
gồm: doanh nghiệp tư nhân (viết tắt là DNTN), công ty hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn (viết tắt là TNHH) (bao gồm công ty TNHH một thành viên và hai
thành viên), công ty cổ phần và doanh nghiệp nhà nước 27. Bên cạnh đó, Luật Hợp tác
xã năm 2012 cũng điều chỉnh đối với mơ hình kinh doanh hợp tác xã; hay Nghị định
số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp (viết tắt
là Nghị định 78/2015/NĐ-CP) cũng ghi nhận cơ chế pháp lý điều chỉnh đối với loại
hình hộ kinh doanh. Chính từ sự đa dạng của các loại hình kinh doanh địi hỏi cơ
quan tài phán khi chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh phải có sự đối
chiếu với pháp luật về kinh doanh để xem xét hình thức kinh doanh mà vợ chồng lựa
chọn có ảnh hưởng đến việc thay đổi chủ sở hữu của tài sản chung khi đưa vào kinh
doanh hay khơng. Ví dụ, vợ chồng lựa chọn phương án góp vốn vào cơng ty có tư
cách pháp nhân thì quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản góp vốn sẽ được
chuyển sang cho doanh nghiệp28 và “phần góp vốn vào doanh nghiệp trên được bù
đắp bằng quyền tham gia vào doanh nghiệp và thông thường là các cổ phần” 29. Dù có
thể chỉ một bên vợ (chồng) tham gia kinh doanh từ tài sản góp vốn đó nhưng đây là
tài sản chung của vợ chồng nên khi ly hơn họ có quyền u cầu Toà án phân chia
khối tài sản này; và trong trường hợp này, Toà án phải vận dụng một cách linh hoạt
cơ chế pháp lý trong Luật HNGĐ và Luật DN để giải quyết.

26Nguyễn Phương Lan (chủ nhiệm đề tài) (2008), Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh,

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 1.
27
Về vấn đề này, Luật Doanh nghiệp năm 2020 khơng có sự thay đổi.
28
Khoản 1 Điều 36 Luật Doanh nghiệp năm 2014 (khoản 1 Điều 35 Luật Doanh nghiệp năm 2020).
29
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Sách tình huống (bình luận bản án) Luật Hơn
nhân và gia đình, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 451.


1.2.
Ý nghĩa của quy định chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh
doanh khi ly hôn
Khi ly hôn, việc giải quyết tài sản của vợ chồng nói chung, tài sản chung của
vợ chồng đưa vào kinh doanh nói riêng một cách cơng bằng, thoả đáng giữ vai trị
quan trọng. Vấn đề này khơng chỉ có ý nghĩa đối với mỗi bên vợ, chồng khi ly hôn
mà trong một số trường hợp nhất định, nó cịn liên quan trực tiếp đến quyền lợi của
chủ thể thứ ba trong kinh doanh. Đồng thời, đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để
Toà án đưa ra phán quyết phù hợp với tinh thần của pháp luật thực định.
1.2.1. Đối với vợ, chồng
Dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, mỗi cá nhân đều cần phải có tài sản, thu nhập để
ni sống bản thân cũng như chăm lo đời sống vật chất cho gia đình. Trong quá trình
chung sống, thu nhập của vợ chồng có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau, mà một
trong những nguồn thu nhập đó có thể đến từ hoạt động kinh doanh. Trong giai đoạn
này, vợ, chồng có thể đại diện cho nhau trong quan hệ kinh doanh theo quy định tại
khoản 1 Điều 25 Luật HNGĐ năm 2014. Khi ly hôn, quan hệ vợ chồng chấm dứt, do
đó, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động kinh doanh cần được phân tách
rạch ròi.
Đối với trường hợp vợ (chồng) đưa tài sản chung vào kinh doanh thông qua
sự thoả thuận bằng văn bản với chồng (vợ) của mình thì người vợ (chồng) trực tiếp

kinh doanh có tồn quyền thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung đó.
Trong trường hợp này, tài sản được đưa vào kinh doanh là tài sản chung của vợ
chồng, việc chia khối tài sản này cũng cần đảm bảo sự cơng bằng và kèm theo đó là
tính linh hoạt. Tức là, việc ly hôn của vợ chồng không thể gây ảnh hưởng đến quyền
tự do kinh doanh của vợ hoặc chồng đang tham gia kinh doanh bằng tài sản chung
của vợ chồng. Việc giải quyết tài sản như vậy cũng đảm bảo quyền công dân mà
Hiến pháp năm 2013 quy định, cụ thể là quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh
doanh.
Chia tài sản chung của vợ chồng đồng nghĩa với việc sau khi bản án, quyết
định ly hơn của Tồ án có hiệu lực pháp luật, mỗi bên có tồn quyền quyết định trong
q trình tham gia đầu tư kinh doanh trong phạm vi tài sản của họ như mở rộng quy
mô hay tăng, giảm phần hùn trong công ty với tư cách một chủ thể độc lập mà khơng
phải lệ thuộc vào ý chí của chủ thể nào khác. Song song đó, việc chia tài sản chung


của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn cũng góp phần “giải phóng” cho bên vợ
hoặc chồng khơng tham gia quan hệ kinh doanh khỏi những rủi ro có thể phát sinh từ
việc một bên kinh doanh bằng tài sản chung của vợ chồng. Nói chung, việc chia tài
sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn một cách minh bạch, cụ thể
là điều cần thiết để mỗi bên vợ, chồng sau khi ly hôn có thể tiếp tục hoạt động kinh
doanh tạo thu nhập, đóng góp cho nền kinh tế đất nước.
1.2.2. Đối với chủ thể thứ ba
Trong quá trình kinh doanh, một bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng
thường tham gia xác lập giao dịch dân sự với bên thứ ba. Khi đó, giữa các bên sẽ
phát sinh các quyền và nghĩa vụ; quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và
ngược lại. Trong một số trường hợp, khi chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào
kinh doanh khi ly hơn, Tồ án cịn giải quyết các nghĩa vụ tài sản của vợ chồng liên
quan đến hoạt động kinh doanh từ tài sản chung đối với bên thứ ba. Vì vậy, có một
hành lang pháp lý an tồn và minh bạch về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào
kinh doanh khi ly hơn cũng góp phần đảm bảo quyền lợi cho bên thứ ba.

Một ví dụ điển hình là đối với loại hình DNTN, “chủ doanh nghiệp có quyền
chủ động rất lớn trong định đoạt và kiểm soát việc dịch chuyển qua lại giữa hai bộ
phận trong khối tài sản của mình, người này có thể lấy tài sản của mình đầu tư thêm
phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc rút lại một phần vốn đã đầu tư
vào doanh nghiệp”30. Thực tế, nếu tài sản mà chủ doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp là tài sản chung của vợ chồng (một bên vợ, chồng là
đại diện của doanh nghiệp) thì căn cứ vào quy định của pháp luật doanh nghiệp, có
thể suy luận rằng nếu phát sinh những nghĩa vụ trong quá trình kinh doanh thì chủ
doanh nghiệp phải có nghĩa vụ trả nợ nếu tài sản của doanh nghiệp ít hơn khoản nợ
phải chịu. Bởi lẽ, DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và họ phải tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp31. Khi
ly hôn, việc phân định cụ thể tài sản chung của vợ chồng trong DNTN do một bên vợ
(chồng) làm chủ có thể dẫn đến khả năng nguồn vốn hoặc tài sản khác được sử dụng
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị giảm sút. Việc chia loại tài sản này
khi ly hơn cụ thể, rõ ràng phần nào đó giúp cho các đối tác kinh doanh nhận diện
được năng lực tài chính của doanh nghiệp mà mình hợp tác. Trong khi đó, đối với
30
31

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (21), tr. 79.
Khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Khoản 1 Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020).


doanh nghiệp có tư cách pháp nhân như cơng ty TNHH, công ty cổ phần, tài sản của
doanh nghiệp độc lập với tài sản của chủ sở hữu, thành viên doanh nghiệp song việc
xây dựng cơ chế pháp lý về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi
ly hơn một cách hợp lý cũng góp phần đảm bảo hoạt động ổn định, bền vững của
doanh nghiệp mà vợ chồng đã đưa tài sản chung vào kinh doanh.
1.2.3. Đối với cơ quan tài phán
Quy định chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn là

căn cứ pháp lý không thể thiếu khi giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn trong
bối cảnh hiện nay. Nó vừa là cơ sở pháp lý để Toà án viện dẫn, áp dụng trong các
trường hợp tài sản tranh chấp khi ly hôn là tài sản chung của vợ chồng được đưa vào
kinh doanh. Mặt khác, quy phạm này cũng chỉ ra những nguyên tắc, đường lối xử lý
đòi hỏi cơ quan tài phán phải tuân thủ để có thể đưa ra các phán quyết hợp tình, hợp
lý. Hơn nữa, cơ chế pháp lý này cũng đặt ra yêu cầu Toà án phải xem xét vấn đề một
cách toàn diện; tức là, việc giải quyết tài sản khi ly hôn không chỉ dừng lại ở nội
dung xác định phần tài sản mà mỗi người được nhận trong khối tài sản chung sau ly
hơn, mà cịn phải đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của vợ, chồng được diễn ra
bình thường sau ly hơn. Cụ thể, người đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên
quan đến tài sản chung của vợ chồng có quyền nhận tài sản đó và phải thanh tốn
cho bên kia phần giá trị tương ứng. Nội dung này sẽ được tác giả phân tích cụ thể
hơn tại mục 2.3 của luận văn.
1.3. Cơ sở của quy định chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh
doanh khi ly hôn
1.3.1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do sở hữu, hoạt
động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, tự phát triển, tự điều chỉnh.
Yêu cầu tham gia thị trường của mỗi chủ thể đều cần có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, tạo việc làm cho người lao động, lắp đặt thiết bị sản xuất,... 32. Có thể thấy,
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, nhu cầu kinh doanh của mỗi
cá nhân là rất lớn. Hoạt động kinh doanh không chỉ giúp chủ thể trực tiếp tham gia
kinh doanh nâng cao đời sống vật chất mà nó cịn góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất
nước phát triển sánh vai với nền kinh tế quốc tế. Trong đời sống hôn nhân, các bên
32

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (21), tr. 13.



×