Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.23 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM THANH HỊA

BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG CHUẨN BỊ
XÉT XỬ SƠ THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG CHUẨN BỊ
XÉT XỬ SƠ THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. VÕ THỊ KIM OANH
Học viên: PHẠM THANH HỊA
Lớp: Cao học Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự, Khố 28

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tơi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Võ Thị Kim Oanh. Các nội dung và
kết quả nghiên cứu được là trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú
thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

PHẠM THANH HÒA


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM...........................................................................8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm...................................................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.................8
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm..........12
1.2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm..................................................................................................................... 15
1.2.1. Mục đích của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm..........15
1.2.2. Ý nghĩa của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.............17
1.3. Cơ sở quy định biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.......19
1.3.1. Xuất phát từ quy định của Hiến pháp năm 2013..................................... 19
1.3.2. Thực hiện nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự............................ 20
1.3.3. Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự................21
1.3.4. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn................................................................ 26
Kết luận chƣơng 1................................................................................................ 27

CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ
THẨM.................................................................................................................... 28
2.1. Đối tƣợng và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm................................................................................................................ 28
2.2. Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
36
2.3. Thời hạn và thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm................................................................................................................ 40


2.3.1. Thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm. . .40
2.3.2. Thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm......44
2.4. Thay đổi, huỷ bỏ biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm....46
Kết luận chƣơng 2................................................................................................ 49
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM .....
50
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm.......................................................................................................... 50
3.1.1. Về việc xác định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam............................52
3.1.2. Về việc xác định thẩm quyền và thời hạn khi áp dụng biện pháp tạm giam
55
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn
bị xét xử sơ thẩm................................................................................................ 64
3.2.1. Giải pháp về pháp luật........................................................................... 64
3.2.2. Giải pháp khác....................................................................................... 68
Kết luận chƣơng 3................................................................................................ 72
KẾT LUẬN............................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật Tố tụng hình sự là một phương tiện sắc bén và hữu hiệu của Nhà nước
trong cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm nhằm phát hiện và xử lý nhanh
chóng, chính xác, kịp thời mọi hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm; bảo vệ
quyền con người, quyền công dân của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là
người bị buộc tội; bảo vệ Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân khỏi sự xâm phạm của tội phạm; đồng thời, giáo dục mọi người ý
thức tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự nói riêng và pháp luật nói chung. Và trong
cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm thì các biện pháp ngăn chặn trong luật
tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng, việc áp dụng các biện pháp này có ảnh hưởng
đến việc giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ của tố tụng hình sự.
Những biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) thì tạm giam được xem là biện pháp có tính nghiêm khắc nhất. Người bị
áp dụng biện pháp tạm giam bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định,
trực tiếp tác động đến các quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp ghi
nhận như quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tự do cư trú và tự do đi lại,
nhưng biện pháp này cũng có tầm quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong cơng tác điều tra, truy tố, xét xử, xử lý
kịp thời, đảm bảo trật tự pháp luật và không bỏ lọt người phạm tội. Chính vì lẽ đó,
Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Khơng ai bị bắt nếu khơng có quyết định của
Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ
1

trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định” .
Xuất phát từ bản chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế một số

quyền của công dân nên BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp
nhằm đảm bảo khi áp dụng biện pháp tạm giam phải chặt chẽ hơn về căn cứ áp dụng,
đối tượng bị áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thời hạn áp dụng và thủ tục áp dụng, với
mục đích là vừa ngăn chặn được tội phạm nhưng cũng phải đảm bảo tốt nhất quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Mặc dù các quy định về biện pháp tạm giam đã
được quy định một cách khá đầy đủ, chi tiết nhưng trên thực tiễn
1Khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013.


2
xét xử tại các Toà án cho thấy, một mặt đã đạt được mục đích của biện pháp ngăn chặn
nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng, mặt khác việc áp dụng các quy định về tạm
giam của BLTTHS năm 2015 trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vẫn cịn tồn tại nhiều hạn
chế, thiếu sót, gây khó khăn trong việc kịp thời ngăn chặn tội phạm và đảm bảo hoàn
thành việc xét xử như: về căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thời hạn áp dụng,...
Điều này xuất phát từ những bất cập trong các quy định của pháp luật chưa hoàn chỉnh,
nên gây ra sự hạn chế của quá trình áp dụng pháp luật liên quan đến chế định tạm giam
trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Từ đó, làm giảm hiệu quả áp dụng, ảnh hưởng đến hiệu
quả của hoạt động tố tụng, đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Trước tình
hình đó, cho thấy, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật cũng
như thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm nhằm chỉ ra
những vướng mắc và đưa ra các giải pháp hoàn thiện biện pháp này khi áp dụng vào
thực tiễn là việc làm thực sự cần thiết.

Chính vì lý do đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Biện pháp tạm giam
trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, vấn đề biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa được nghiên cứu nhiều, mà chủ yếu chỉ là

những cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu về biện pháp tạm giam nói
chung, trong đó tác giả nhận thấy có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến quy
định về tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm ở những mức độ, khía cạnh khác
nhau, có thể kể đến:
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự”,
năm 2000 của tác giả Vũ Văn Nhiêm; “Biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, năm 2013 của tác giả Đào Thu Hà nghiên cứu những vấn đề cơ bản của
biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự. Những cơng trình này có đề cập đến quy
định về căn cứ áp dụng, thẩm quyền, thời hạn áp dụng tạm giam trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm nhưng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu khái quát về mặt lý luận, chưa
tổng quát cũng như chưa đề cập đến việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn.
- Khoá luận tốt nghiệp cử nhân luật “Tạm giam trong các giai đoạn tố tụng
hình sự”, năm 2006 của tác giả Hồ Thị Mỹ Duyên; “Tạm giam trong tố tụng hình


3
sự lý luận và thực tiễn”, năm 2011 của tác giả Tạ Thanh Trang; “Tạm giam trong tố
tụng hình sự: lý luận và thực tiễn”, năm 2011 của tác giả Trần Thị Lâm…Nhìn
chung, đây là những cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về chế định biện pháp tạm
giam trong tố tụng hình sự. Trong đó, có đề cập đến biện pháp tạm giam trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm nói chung và trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm nói riêng. Tuy
nhiên, nội dung của các cơng trình chỉ mới nêu lên một phần mang tính khái qt
chung đó là vấn đề về thẩm quyền và thời hạn tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm. Nhiều nội dung khác liên quan đến đề tài nghiên cứu chưa được quan tâm
nghiên cứu như chưa phân tích, đánh giá, bình luận một cách đầy đủ, toàn diện các
quy định của pháp luật có liên quan đến biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp này trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
- Khố luận tốt nghiệp cử nhân luật “Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong pháp luật tố tụng hình sự” năm 2009 của Trần Thanh Bình nghiên cứu về mặt

lý luận, chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn của các quy định pháp luật
tố tụng hình sự về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn cụ thể, trong đó có vấn đề
về mặt lý luận căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Tháp”, năm
2016 của Trương Huỳnh Anh nghiên cứu về mặt lý luận cũng như đánh giá thực
tiễn áp dụng quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm. Trong đó, cơng trình cũng đề cập đến thẩm quyền và thời hạn tạm giam
trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm nhưng chỉ dừng lại ở việc khái quát; mặt khác, những
nội dung về căn cứ, đối tượng, thủ tục áp dụng cụ thể… cũng như thực tiễn áp dụng
những quy định về biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm chưa được
nghiên cứu.
- Bài viết “Một số vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp tạm giam trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”
của tác giả Hà Thái Thơ trên Tạp chí Tồ án nhân dân (số 17, kỳ I tháng 9) năm 2018.
Bài viết “Bất cập trong quy định về thời hạn và thẩm quyền tạm giam ở giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Võ Văn
Tuấn Khanh trên Tạp chí Tồ án nhân dân (số 02, kỳ II tháng 1/2019) năm 2019. Đây là
những bài viết liên quan trực tiếp đến biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ


4
thẩm. Tuy nhiên, các bài viết trên chỉ mới dừng lại ở góc độ bình luận, phân tích
những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ thể về thời hạn và thẩm quyền tạm
giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm, đối với những vấn đề khác của biện pháp tạm
giam như căn cứ áp dụng, đối tượng, trình tự, thủ tục chưa được đề cập đến. Đồng
thời chỉ mới đưa ra một số vướng mắc trên thực tiễn khi áp dụng biện pháp tạm
giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm mang tính khái quát chung chưa đánh giá một
cách toàn diện, đầy đủ những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý
nghĩa, cơ sở của việc quy định; phân tích các quy định liên quan đến biện pháp tạm

giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm cũng như minh chứng cho những vướng mắc
khi áp dụng vào thực tiễn để làm cơ sở đưa ra các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn này trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Chính vì vậy, trên tinh thần tiếp thu kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học, bài viết nêu trên, tác giả sẽ kế thừa và tiếp tục phát triển, mở rộng với
mong muốn nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện hơn về biện pháp tạm
giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự hiện hành dưới các góc
nhìn về mặt lý luận lẫn thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những
thiếu sót trong cơng tác xây dựng và thi hành pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả
trong cơng tác áp dụng biện pháp ngăn chặn này trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận, vấn
đề pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành về biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Trên cơ sở đó, đưa
ra những giải pháp hồn thiện pháp luật thực định liên quan đến vấn đề tạm giam
trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm, đồng thời đưa ra các giải pháp khác góp phần nâng
cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
trên thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu đã đề ra như trên, tác giả sẽ thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:


5
- Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề mang tính lý luận về biện pháp tạm giam
trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm như khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa và cơ sở
của việc quy định biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm;

- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp
tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm như đối tượng, căn cứ áp dụng, thời hạn,
thẩm quyền và thủ tục áp dụng tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp tạm
giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm, chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong việc
thực thi trên thực tế và xác định nguyên nhân;
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về biện
pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm, cũng như đưa ra những giải pháp
khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm trên thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, cụ thể các vấn đề sau: nghiên cứu một
số vấn đề lý luận cơ bản về biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm;
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn việc áp dụng
pháp luật về biện pháp này trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm tại các Tồ án có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này gồm nhiều nội dung nhưng tác giả tập trung vào ba vấn đề: căn cứ
áp dụng, thẩm quyền áp dụng và thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn
bị xét xử sơ thẩm. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định liên quan đến
biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam mà khơng nghiên cứu quy định về biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự nước ngoài, chỉ nghiên cứu tạm giam
trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo thủ tục thông thường, không nghiên cứu theo thủ
tục rút gọn và chỉ nghiên cứu biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm tại
Toà án nhân dân mà không nghiên cứu biện pháp này trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
tại Toà án quân sự.



6
Tác giả khảo sát thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên phạm vi cả nước, nhưng
tập trung ở một số địa phương như Đồng Nai, Bình Dương…
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu có tính chất
điển hình trong lĩnh vực luật học như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, kết hợp lý luận với
thực tiễn để đưa ra đánh giá một cách có hệ thống về biện pháp tạm giam trong
chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Mỗi chương có thể sử dụng những phương pháp khác nhau
nhằm làm rõ những vấn đề của từng chương.
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp: được sử dụng để phân tích
những vấn đề lý luận cũng như quy định của pháp luật liên quan đến biện pháp tạm
giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng phương pháp
tổng hợp để tóm tắt nội dung của từng chương và kết luận chung của luận văn.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để đánh giá quy định của pháp luật về
biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong BLTTHS năm 2015, trên
cơ sở phân tích so sánh với quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam trong
chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong BLTTHS năm 2003.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: được sử dụng để thu thập ý kiến đánh
giá của các chủ thể có thẩm quyền làm cơng tác thực tiễn khi áp dụng biện pháp tạm
giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Đồng thời, còn sử dụng phương pháp phân
tích, hệ thống, kết hợp lý luận và thực tiễn để đưa ra những đề xuất về mặt pháp luật
nhằm hoàn thiện quy định liên quan đến biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có ý nghĩa đối với những ai quan tâm, tìm
hiểu về biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
- Ý nghĩa khoa học: luận văn được nghiên cứu tương đối toàn diện về biện

pháp ngăn chặn tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam nhằm góp phần làm rõ hơn về mặt lý luận đối với những quy định về biện
pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.


7
- Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đã đưa ra những hạn chế khi áp dụng quy định
về biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vào thực tiễn để từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện chế định tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm.
Do đó, nội dung của đề tài cịn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong
quá trình học tập, nghiên cứu cho những ai có quan tâm đến vấn đề này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của
luận văn được trình bày trong ba chương:
Chƣơng 1. Nhận thức chung về biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm.
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp
tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Chƣơng 3. Thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.


8
CHƢƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM
TRONG CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm

1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một chế định được quy định trong Bộ
luật Tố tụng hình sự. Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khâu đầu tiên,
là một phần bắt buộc trong thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, được bắt đầu kể từ khi
Toà án thụ lý vụ án từ Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc là khi Toà án mở phiên
toà để xét xử. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm gồm nhiều cơng việc khác nhau, đó là những
công việc vừa chuẩn bị về nội dung (như nghiên cứu hồ sơ; quyết định áp dụng, thay
đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định trả hồ
sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ
án;…) và vừa chuẩn bị về hình thức (như thơng báo thời gian, địa điểm mở phiên toà;
2

tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập;…) .

Vì vậy có thể hiểu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khâu tiến hành
các hoạt động tố tụng trước khi mở phiên toà, chuẩn bị những điều kiện cần thiết
được pháp luật quy định nhằm đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án,
quyết định sơ thẩm. Tất cả những hoạt động trên cùng hướng đến mục đích cuối
cùng là bảo đảm cho hoạt động xét xử sơ thẩm tại phiên toà được thuận lợi, đúng
thời hạn do pháp luật quy định, bảo đảm cho bản án, quyết định sơ thẩm được khách
quan, công bằng và chính xác. Việc thực hiện tốt hoạt động chuẩn bị xét xử khơng
chỉ giúp cho Tồ án ban hành các quyết định được chính xác, đúng pháp luật, giúp
cho phiên toà xét xử bị cáo diễn ra thuận lợi, đạt hiệu quả nhằm bảo đảm cho việc
giải quyết, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; mà cịn góp phần quan trọng vào việc xét
xử đúng người, đúng tội, hình phạt được áp dụng tương xứng với hành vi phạm tội
của bị cáo, không oan sai, không bỏ lọt tội phạm.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc
nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp
tạm giam bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền


2Vũ Thị Thanh Hương (2014), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 10 – 11.


9
của công dân (như quyền tự do đi lại và cư trú; quyền bất khả xâm phạm về thân thể
được Nhà nước cơng nhận). Vì vậy, việc áp dụng tạm giam phải được thực hiện một
cách nghiêm chỉnh, công bằng, đúng quy định pháp luật. Thẩm quyền áp dụng biện
pháp này được pháp luật tố tụng hình sự trao cho cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ
3

quan điều tra; Viện kiểm sát; Tồ án) áp dụng. Trong đó, Tồ án là cơ quan duy
nhất được phân công thực hiện chức năng xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và xét xử các vụ án hình sự là một trong những nhiệm vụ của Toà
4

án để thực hiện chức năng đó . Q trình giải quyết một vụ án hình sự tại Tồ án gọi
chung là giai đoạn xét xử. Trong tố tụng hình sự nói chung, trong hoạt động xét xử
nói riêng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được coi là giai đoạn đặc biệt quan trọng,
giai đoạn trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự, vì khi tiến hành xét xử,
Toà án sẽ tập trung xác định sự thật khách quan của vụ án, đánh giá một cách tổng
thể các chứng cứ do các bên cung cấp, xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm
sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để việc xét xử vụ án hình sự
đảm bảo tính chính xác, công bằng, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm gồm hai phần: “chuẩn bị xét xử” và “phiên
toà sơ thẩm”. Kết quả phiên toà phụ thuộc nhiều vào khâu chuẩn bị xét xử. Khi thực
hiện các hoạt động chuẩn bị xét xử, Toà án mà cụ thể là Thẩm phán được phân cơng
giải quyết, xét xử vụ án hình sự phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa vụ
án ra xét xử theo đúng thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (nếu khơng
thuộc các trường hợp phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án

hoặc đình chỉ vụ án). Do vậy, để thực hiện hoàn thành nhiệm vụ của mình thì pháp
luật đã trao quyền cho Tồ án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm có quyền áp dụng, thay
đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn (trong đó có biện pháp tạm giam) đối với các
đối tượng cần áp dụng nhằm đảm bảo cho hoạt động xét xử được tiến hành thuận lợi
và đạt hiệu quả trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong Bộ luật Tố
tụng hình sự khái niệm biện pháp tạm giam nói chung, biện pháp tạm giam trong
chuẩn bị xét xử sơ thẩm nói riêng vẫn chưa được pháp luật ghi nhận một cách cụ thể
và vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu, tác giả, luật gia về
khái niệm biện pháp tạm giam này.
3 Khoản 1 Điều 34 BLTTHS năm 2015.
4 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; 2. Toà án nhân dân gồm Toà án nhân dân tối cao và các Toà án khác do
luật định; 3. Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.


10
Theo từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “tạm” là (làm việc gì) chỉ trong một
5

thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ thay đổi ; “giam” là giữ (người bị coi là có
6

tội) ở một nơi nhất định, không cho tự do đi lại, tự do hoạt động . Khi kết hợp hai
thuật ngữ này thì “tạm giam” có nghĩa là giữ một người bị nghi là có tội (như bị
can, bị cáo) ở một nơi nhất định, không cho tự do đi lại và hoạt động trong một
khoảng thời gian nhất định, khi có điều kiện sẽ thay đổi.
Theo từ điển Luật học thì “Tạm giam là biện pháp cách li bị can, bị cáo với
xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản

trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo,
7

đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi” . Như vậy,
tác giả nhận thấy quan điểm này có hạt nhân hợp lý nhưng chưa đầy đủ, bởi vì, chưa
nêu được biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và chưa
nêu được thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam thuộc về ai?.
Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Mai Bộ cho rằng: “Tạm giam là biện
pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự do
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm
ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm
8

thi hành án” . Ý kiến này, về cơ bản đã thể hiện đầy đủ những nội dung như cơ
quan có thẩm quyền, đối tượng bị áp dụng, mục đích, nhưng chưa nêu ra căn cứ áp
dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp luật định.
Hay có quan điểm cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm
khắc nhất trong tố tụng hình sự do cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng trong
những trường hợp do pháp luật quy định nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc bảo đảm
9

cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án” . Đối với quan điểm này, tuy đã
nêu rõ được mục đích áp dụng, căn cứ áp dụng, nhưng chưa rõ cơ quan áp dụng,
chưa nêu ra đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam là đối tượng nào.
5 Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr. 887.
6 Hoàng Phê (chủ biên) (2006), tlđd (5), tr. 388.
7 Bộ Tư Pháp, Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nhà xuất bản Tư pháp, tr. 689.
8 Nguyễn Mai Bộ (2004), Biện pháp ngăn chặn, khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự,


Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, tr. 108.
9 Mai Bộ - Nguyễn Sỹ Đại (2002), Tìm hiểu pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam: Những biện pháp ngăn
chặn và khám xét, tạm giữ, thu giữ, kê biên tài sản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 62.


11
Ngồi ra, theo Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của Trường Đại học Luật Hà
Nội: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng hoặc
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm
10

trọng theo quy định của pháp luật” . Quan điểm của giáo trình nêu rõ về căn cứ áp
dụng theo luật định, chủ thể áp dụng và đối tượng bị áp dụng, nhưng chưa nêu ra
mục đích của việc áp dụng tạm giam. Bên cạnh đó, theo Giáo trình Luật Tố tụng
hình sự của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh: “Tạm giam là một biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với
bị can, bị cáo trong những trường hợp luật định nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc tạo
11

điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” .
Hoặc dựa theo quy định tại Điều 113 và Điều 119 BLTTHS năm 2015, tác giả Võ
Văn Tuấn Khanh đã đưa ra khái niệm về tạm giam như sau: “Tạm giam là biện
pháp ngăn chặn do các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3,
khoản 4 Điều 119 của BLTTHS năm 2015, nhằm để kịp thời ngăn chặn tội phạm
hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
12

truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án” .

Trên những cơ sở trên, có thể thấy, vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm biện pháp tạm giam. Tuỳ vào giai đoạn tố tụng là điều tra, truy
tố, xét xử mà cơ quan tiến hành tố tụng tương ứng áp dụng là Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án cũng chưa có quan điểm nào về khái niệm biện pháp tạm giam
trong các giai đoạn tố tụng cụ thể này, kể cả chuẩn bị xét xử sơ thẩm một phần nằm
13

trong giai đoạn xét xử sơ thẩm . Như vậy, tổng hợp kết quả nghiên cứu của
10

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản

Công an
11Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất
bản Hồng Đức, tr. 314.
12
Võ Văn Tuấn Khanh (2019), “Bất cập trong quy định về thời hạn và thẩm quyền tạm giam ở giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 02 (kỳ
II
tháng 1/2019), tr. 23.
13
“Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là bắt buộc đối với bất kỳ vụ án hình sự nào. Để bảo đảm cho việc
mở phiên tồ cơng khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, sau khi nhận hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng của Viện
kiểm sát chuyển sang, Toà án phải tiến hành ngay công việc xét xử, xác định các căn cứ để có thể ra các
quyết định có liên quan đến việc mở phiên toà. Việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để mở phiên toà được
tiến hành trong một thời gian nhất định. Trong trường hợp thấy đủ các điều kiện, phiên tồ xét xử sơ thẩm
hình sự được mở công khai nhằm xét xử vụ án hình sự theo đúng quy định của pháp luật”. Xem Võ Thị Kim
Oanh (2011), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 40.



12
các tác giả trước đây và qua nghiên cứu. Để hình thành khái niệm biện pháp tạm
giam thì cần phải xác định được nội hàm của khái niệm này; cụ thể, phải thể hiện
đầy đủ nội dung người có thẩm quyền áp dụng, đối tượng có thể bị áp dụng, căn cứ
áp dụng và mục đích áp dụng biện pháp tạm giam. Với ý nghĩa đó có thể nêu khái
niệm khoa học về biện pháp tạm giam như sau:
Biện pháp tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng, hạn chế tự do trong một thời hạn nhất định đối với
bị can, bị cáo khi có căn cứ do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn
tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc bảo đảm cho các hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành thuận lợi.
Và theo tác giả, Biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm là một
biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Tồ án áp dụng, hạn chế tự do trong
một thời hạn nhất định đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ do Bộ luật Tố tụng hình
sự quy định nhằm ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội hoặc bảo đảm cho hoạt động xét
xử được tiến hành thuận lợi. Trong trường hợp khơng cịn cần thiết, có thể thay đổi
hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam đã áp dụng trước đó.
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Để giải quyết một vụ án hình sự thì cần phải trải qua nhiều giai đoạn tố tụng,
trong mỗi giai đoạn tố tụng thì pháp luật quy định những thẩm quyền khác nhau,
cùng hướng tới một mục đích chung là đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự
một cách nhanh chóng, đúng pháp luật và có hiệu quả. Và trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm pháp luật cũng quy định một số thẩm quyền, trong đó có quyền áp dụng, thay
14

đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam . Khi áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện
pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm mang những đặc điểm sau:
Một là, tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có tính
nghiêm khắc nhất mà Tồ án có quyền áp dụng trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Biện

pháp này tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Khi áp
dụng tạm giam thì người bị áp dụng sẽ bị cách ly với xã hội trong khoảng thời gian
nhất định, chịu sự quản lý của cán bộ trại tạm giam hoặc nhà tạm giữ. Việc Toà án
14
Sở dĩ chuẩn bị xét xử là một khâu của giai đoạn xét xử sơ thẩm nên nó cũng bao gồm các hoạt động tố
tụng khác nhau, có mối liên hệ và cùng hướng tới việc làm “tiền đề” cho hoạt động xét xử sơ thẩm, đó là: hoạt

động thụ lý vụ án; nghiên cứu hồ sơ xác định thẩm quyền giải quyết, áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp
ngăn chặn, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Xem Võ Thị Kim Oanh (2011), tlđd (số 13), tr. 86.


13
có quyền áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm sẽ tạo điều
kiện cho Toà án hồn thiện nhiệm vụ của mình, đồng thời, bảo đảm cho hoạt động
xét xử sơ thẩm được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao cũng như đảm bảo sự
chính xác, khách quan của cả q trình tố tụng. Khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
này trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì bị can, bị cáo sẽ bị hạn chế các quyền tự do đi
lại, tự do cư trú. Theo đó, người đang bị tạm giam sẽ khơng được ở bên ngồi,
khơng được sinh hoạt với gia đình và xã hội. Trong khi đó, nếu bị can, bị cáo bị áp
15

dụng biện pháp ngăn chặn khác như biện pháp bảo lĩnh thì bị can, bị cáo sẽ không
bị cách ly với xã hội, không bị hạn chế quyền tự do cư trú và đi lại mà họ chỉ cần
chủ thể bảo lĩnh bảo đảm rằng họ sẽ khơng gây khó khăn cho hoạt động tố tụng và
có mặt khi có triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Hay là, khi bị can, bị cáo bị áp
dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

16

thì quyền tự do đi lại, tự do cư trú của họ sẽ


bị hạn chế ít hơn do bị can, bị cáo vẫn được sống với gia đình, xã hội trong phạm vi
địa phương nơi mình cư trú. Hoặc khi bị tạm giữ, người bị tạm giữ sẽ bị cách ly ra
khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định. Cịn đối với biện pháp tạm giam
thì người bị áp dụng cũng bị cách ly ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định,
tuy nhiên khoảng thời gian này có thể dài hơn biện pháp tạm giữ nhiều lần. Chính vì
thế, tạm giam được xem là một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất.
Vì là một biện pháp nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn, có tầm
quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự nhưng biện pháp này ảnh hưởng lớn
đến quyền tự do của người bị áp dụng nên pháp luật đã quy định biện pháp tạm
giam một cách chặt chẽ, chi tiết về căn cứ, đối tượng bị áp dụng, thẩm quyền, thủ
tục và thời hạn áp dụng. Cho nên, cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng khác, khi
áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì
Tồ án phải tn thủ một cách triệt để, đầy đủ và nắm rõ các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự cũng như có cái nhìn và cách hiểu tồn diện về bản chất của biện
pháp ngăn chặn này. Bởi việc hiểu rõ bản chất của biện pháp tạm giam tức là hiểu
rõ sự cần thiết của tạm giam, hiểu rõ việc quy định của pháp luật về biện giam, để
sao cho việc áp dụng biện pháp này đạt hiệu quả cao và hợp lý nhất. Điều này vừa
15
“Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tồ án có thể quyết định
cho họ
được bảo lĩnh”. Điều 121 BLTTHS năm 2015.
16
“Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú,
lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà
án”. Điều 123 BLTTHS năm 2015.


14

đảm bảo được hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ tố tụng của Toà án, vừa tránh
được sự tuỳ tiện, gây thiệt hại không cần thiết cho người bị áp dụng.
Hai là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm thuộc về Toà án, cụ thể là Chánh án hoặc Phó Chánh án. Đây là “cơ quan xét
xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm
vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
17

nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” .
Yêu cầu của việc xét xử là phải xác định và làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án;
trên cơ sở đó, Tồ án được nhân danh Nhà nước đưa ra các phán quyết bằng bản án
hoặc các quyết định. Để xét xử được hiệu quả thì cần phải có chuẩn bị xét xử. Trong
đó, hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm là một phần vô cùng quan trọng được thực hiện
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tiến hành các hoạt động tố tụng trước khi
mở phiên toà, chuẩn bị những điều kiện cần thiết được pháp luật quy định để bảo đảm
cho việc xét xử sơ thẩm tại phiên tồ được thuận lợi. Trong những hoạt động đó, thì
Tồ án có quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm. Việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp này khơng phụ thuộc vào ý
chí của các cơ quan tiến hành tố tụng khác.

Xuất phát từ tính chất nghiêm khắc và vai trò quan trọng của biện pháp tạm
giam, pháp luật tố tụng hình sự đã quy định cụ thể chủ thể có thẩm quyền áp dụng
tại khoản 5 Điều 119, khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015. Theo đó, trong giai
đoạn điều tra do Cơ quan điều tra, trong giai đoạn truy tố do Viện kiểm sát và đến
giai đoạn xét xử nói chung, chuẩn bị xét xử nói riêng thì Tồ án là chủ thể có thẩm
quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam. Do vậy, sau khi tiếp nhận
hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng từ Viện kiểm sát chuyển đến và ghi vào sổ thụ lý vụ
án, Toà án sẽ xem xét, nghiên cứu để đưa ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam đối với những đối tượng bị áp dụng tạm giam chưa bị Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát áp dụng biện pháp ngăn chặn này; tiếp tục duy trì biện pháp tạm

giam đang được áp dụng đối với đối tượng bị áp dụng tạm giam nếu thấy cần thiết;
thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam đã được áp dụng nếu thấy biện pháp tạm
giam đang được áp dụng không cần thiết nữa.
Ba là, đối tượng bị áp dụng của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm là bị can, bị cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 60, khoản 1 Điều 61
17

Khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014.


15
BLTTHS năm 2015 thì bị can là người đã bị khởi tố về hình sự, khi họ bị tình nghi
thực hiện hành vi phạm tội, trên cơ sở những chứng cứ đã thu thập được, họ bị cơ
quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can, từ lúc này họ có tư cách tố tụng là
bị can. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
ngồi bị can thì cịn có thêm đối tượng bị áp dụng là bị cáo. Bị cáo là người đã bị
Toà án quyết định đưa ra xét xử. Có thể hiểu bị cáo là bị can khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử của Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên tồ trong thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Tuy nhiên, tạm giam không phải là biện pháp duy nhất để ngăn chặn, vì vậy
khơng phải tất cả các bị can, bị cáo đều bị áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn
bị xét xử sơ thẩm. Khi tạm giam phải căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm
tội, nhân thân của người phạm tội và thái độ của họ sau khi thực hiện hành vi phạm
tội. Chỉ được áp dụng tạm giam khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện
hành vi phạm tội trong những trường hợp luật định thì Tồ án có thể áp dụng biện
pháp tạm giam nhằm mục đích ngăn chặn sự cản trở của bị can, bị cáo đối với hoạt
động chuẩn bị xét xử, đảm bảo cho hoạt động xét xử sơ thẩm được tiến hành thuận
lợi, có hiệu quả.
1.2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm

1.2.1. Mục đích của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm nói riêng và tạm giam nói
chung là một biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự, nên biện pháp
18

này cũng mang những mục đích chung của các biện pháp ngăn chặn . Mục đích
của việc quy định biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là để đảm bảo cho các
cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong cơng
tác đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm đạt hiệu quả. Đồng thời, đảm bảo cho
sự hoạt động xét xử của Tồ án nói riêng và hoạt động điều tra, truy tố của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát nói chung được thuận lợi. Trong đó, tạm giam là một trong
những biện pháp ngăn chặn mang lại hiệu quả nhất trong quá trình giải quyết vụ án
18
Tại Khoản 1 Điều 109 BLTTHS năm 2015 quy định như sau: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi
thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam,
bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”.


16
hình sự. Việc áp dụng đúng đắn biện pháp ngăn chặn này sẽ kịp thời ngăn chặn
hành vi phạm tội xảy ra, đang được thực hiện hoặc hành vi tiếp tục phạm tội. Điều
này nhằm đảm bảo cuộc sống an toàn của người dân, bảo vệ trật tự xã hội. Chính vì
thế, khi áp dụng tạm giam, nếu khơng xuất phát từ mục đích chung thì việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn này khơng phù hợp. Như vậy, mục đích áp dụng biện pháp tạm
giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm là kết quả mà Toà án cần đạt được khi áp dụng
tạm giam và việc áp dụng này mang những mục đích cơ bản như sau:
Thứ nhất, ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Đây là trường hợp bị
can, bị cáo đã thực hiện tội phạm nhưng có căn cứ xác định các bị can, bị cáo đó có

thể tiếp tục phạm tội. Tương tự như khi áp dụng biện pháp tạm giam trong các giai
đoạn tố tụng khác, việc áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
19

cũng có mục đích là ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội . Khi bị can, bị cáo
có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng biện pháp cách ly họ với xã hội hoặc
hạn chế các điều kiện để họ không thể tiếp tục phạm tội là cần thiết. Vì nếu để họ ở
ngồi xã hội, khơng có sự quản lý thì có thể những bị can, bị cáo đó sẽ thực hiện
hành vi phạm tội đến cùng hoặc sẽ thực hiện thêm tội phạm mới; như các bị can, bị
cáo là những đối tượng có nhân thân xấu thuộc diện lưu manh, côn đồ, hung hãn…
Bị can, bị cáo là những người đã có nhiều tiền án, tiền sự hoặc những đối tượng
phạm tội có tính chất chuyên nghiệp như chuyên sống bằng các nghề cướp giật,
trộm cắp, lừa đảo,…Vì vậy, việc áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm với mục đích là ngăn chặn bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Bởi khi có
một hành vi phạm tội xảy ra đều để lại những hậu quả nguy hiểm cho xã hội và một
trong những nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng hình sự là đấu tranh phịng ngừa tội
phạm. Đây là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, trong đó có cả Tồ án.
Từ thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy để nhận định bị can, bị cáo có
thể sẽ tiếp tục phạm tội, Tồ án phải dựa vào những yếu tố như sau: tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà bị can, bị cáo thực hiện; nhân thân của
người phạm tội xấu hay tốt; có tiền án hay tiền sự khơng; tình trạng cư trú; sự ràng
buộc của gia đình, cơ quan, tổ chức nghề nghiệp; những biểu hiện trong hành vi của
những đối tượng này như có hành vi đe doạ, mua chuộc người làm chứng, bị hại,…
19
“Tiếp tục phạm tội ở đây có thể là thực hiện đến cùng tội phạm đã bị ngăn chặn hoặc thực hiện tội
phạm mới. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp này nhằm mục đích ngăn ngừa những thiệt
hại gây ra cho xã hội nếu tội phạm được thực hiện”. Xem Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
(2018), tlđd
(số 11), tr. 283 – 284.



17
Thứ hai, bảo đảm cho hoạt động xét xử. Việc bị can, bị cáo có mặt theo giấy
triệu tập của cơ quan Tồ án nói riêng, cơ quan tiến hành tố tụng nói chung cũng
như việc quản lý giám sát được bị can, bị cáo về con người và hành vi của họ sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Nếu bị can, bị cáo trốn
tránh hoặc có những hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì việc xác
định sự thật khách quan của vụ án sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để ngăn chặn
những hành vi này, pháp luật tố tụng hình sự cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng
được áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo khi thoả mãn những trường
hợp luật định nhằm đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo trong các hoạt động tố
tụng cần thiết. Bởi trên thực tế, không phải mọi bị can, bị cáo đều nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật, khi một đối tượng đã bị khởi tố về một hành vi nào đó thì
thường họ sẽ có những hành vi cố tình gây khó khăn cho hoạt động tố tụng như:
thơng cung, bỏ trốn,…Do đó, khi áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm nói riêng, giai đoạn xét xử nói chung thì mục đích của Tồ án cũng là nhằm
bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo trong quá trình xét xử và tạo điều kiện thuận
lợi khi giao các quyết định tố tụng như: quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định
hỗn phiên tồ,…Điều này góp phần tránh khơng cho họ thông cung với nhau, đe
doạ hoặc mua chuộc người làm chứng, bị hại,…gây khó khăn cho hoạt động xét xử
của Toà án, bảo đảm cho hoạt động xét xử được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng và
đúng quy định của pháp luật, giúp cho Toà án hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Việc xác định bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho cơng tác xét xử dựa trên
những cơ sở khách quan và xuất phát từ yêu cầu của hoạt động tố tụng hình sự,
tránh tình trạng suy đoán chủ quan, tuỳ tiện của người áp dụng pháp luật. Các yếu
tố này cũng tương tự như những yếu tố đã đề cập trong mục đích thứ nhất của việc
áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
1.2.2. Ý nghĩa của biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Với vai trò là một biện pháp ngăn chặn, tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm có ý nghĩa đối với hoạt động xét xử của Toà án trong việc đấu tranh phịng,

chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như bảo
đảm trật tự an tồn xã hội. Khi tạm giam đúng mục đích và đúng quy định của pháp
luật thì sẽ đạt hiệu quả cao trong quá trình giải quyết vụ án được thể hiện cụ thể như
sau:


18
Góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, thể
hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với người có hành vi gây thiệt hại đến lợi
ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Nhằm loại bỏ những trở
ngại ngăn cản hoạt động xét xử nói chung và hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự nói riêng, bảo đảm cho việc xét xử tại phiên toà được tiến hành thuận lợi, tạo
điều kiện cho việc giải quyết vụ án được khách quan toàn diện; mặt khác, với việc áp
dụng tạm giam sẽ đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững,
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng.

Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm khi biện
pháp đó thật sự mang ý nghĩa là cần thiết và đúng quy định của pháp luật. Điều này
góp phần tích cực nhằm bảo đảm hiệu quả áp dụng biện pháp này trong việc phịng,
chống tội phạm. Ngồi ra, để làm tốt điều đó cơ quan Tồ án phải có trách nhiệm
thường xuyên kiểm tra, theo dõi sự cần thiết của biện pháp tạm giam đã áp dụng
trong khâu chuẩn bị xét xử sơ thẩm, khi hết thời hạn áp dụng hoặc khi thấy tạm
giam được áp dụng không đúng theo luật định thì phải kịp thời huỷ bỏ hoặc thay
20

đổi . Nhằm góp phần bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, tránh sự áp dụng một
cách tuỳ tiện, trái pháp luật.
Việc áp dụng tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm được xem là biện pháp
hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động xét xử đạt hiệu quả. Vì đây là biện pháp bảo đảm sự
có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Tồ án. Ngồi ra, tạm giam cũng góp

phần kịp thời ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc tìm cách xố dấu vết tội
phạm, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án của bị can, bị cáo trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, đảm bảo sự khách quan, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi khi giao
các quyết định tố tụng trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Đồng thời, còn đảm
bảo cho hoạt động xét xử tại phiên toà được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng. Như vậy,
thơng qua biện pháp tạm giam, cơ quan Tồ án có thể ngăn chặn sự trở ngại do bị can,
bị cáo gây ra, giúp cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được thực hiện thuận lợi và
dễ dàng, không bỏ lọt tội phạm cũng như khơng làm oan nguời vơ tội. Qua đó, tạo sự
hiệu quả trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm.

Bên cạnh đó, xét ở góc độ khác, tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm cịn
có ý nghĩa đối với việc bảo đảm cho mọi công dân được sống trong xã hội mà
20Điều 8 BLTTHS năm 2015 quy định: “[…]; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của
những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp
luật hoặc khơng còn cần thiết”.


19
quyền và lợi ích hợp pháp của họ được tơn trọng và bảo vệ, việc áp dụng tạm giam
trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm nhằm tránh được sự tấn cơng, xâm hại từ phía các đối
tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân yên tâm sinh sống, học tập, làm việc
tham gia vào cơng tác đấu tranh phịng ngừa tội phạm đạt hiệu quả cao.
1.3. Cơ sở quy định biện pháp tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
1.3.1. Xuất phát từ quy định của Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong việc ghi nhận và bảo
đảm quyền con người bằng việc quy định Chương 2: Quyền con người, quyền nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Trong số các quyền con người được Hiến pháp này ghi nhận thì
quyền bất khả xâm phạm về thân thể được chú trọng đặc biệt. Khoản 2 Điều 20 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Khơng ai bị bắt nếu khơng có quyết định của Toà án nhân
dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội

quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. Quy định này đã thể hiện tương đối
toàn diện những chuẩn mực quốc tế về quyền con người được quy định trong các Công
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết như: Điều 9 Tun
ngơn quốc tế về quyền con người (UDHR), trong đó nêu rằng “không ai bị bắt, giam
giữ hay lưu đày một cách tuỳ tiện”; Điều 9 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính
trị (1966) (ICCPR) quy định “mọi người có quyền hưởng tự do và an tồn cá nhân,
không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ”;…

Hiến pháp năm 2013 đã quy định nguyên tắc chung nhất về quyền bất khả
xâm phạm thân thể và để bảo đảm quyền này thì “việc bắt, giam, giữ người do luật
quy định”. Trong hệ thống pháp luật nước ta, Bộ luật tố tụng hình sự có trách nhiệm
này nhằm cụ thể hoá Hiến pháp, bảo đảm sự phù hợp của các quy định tố tụng hình
sự với các nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm thân thể được ghi nhận
trong Hiến pháp.
Tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự được Toà án, cụ thể là Chánh án hoặc Phó Chánh án quyết định áp dụng
trong q trình giải quyết vụ án hình sự. Biện pháp này được áp dụng với mục đích
ngăn chặn khơng cho người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc gây khó khăn
cho hoạt động xét xử. Đồng thời, còn tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan Toà án giải
quyết vụ án như khơng để người phạm tội có thể xố bỏ dấu vết tội phạm, tiêu huỷ
chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người làm


20
chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có u cầu của Tồ án,…để bảo
đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn
này Toà án chỉ được tiến hành trong phạm vi, giới hạn cũng như thủ tục mà luật quy
định. Do đó, việc áp dụng đúng đắn biện pháp tạm giam có tác dụng rất lớn trong
cơng tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngược lại nếu áp dụng không đúng đối
tượng, thẩm quyền, căn cứ cũng như thủ tục đều bị coi là vi phạm pháp luật, người

có hành vi vi phạm tuỳ theo tính chất và mức độ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy
21

cứu trách nhiệm hình sự ảnh hưởng đến quyền tự do cá nhân của con người, làm
giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật.
Chính vì vậy, việc quy định tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm xuất
phát từ Hiến pháp năm 2013 tạo ra hành lang pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự
tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, bởi biện pháp ngăn chặn này chỉ được áp
dụng đối với các đối tượng nhất định trong những trường hợp nhất định khi có căn
cứ pháp luật quy định, đảm bảo không một công dân nào bị hạn chế các quyền công
dân, bị áp dụng tạm giam một cách tuỳ tiện, trái pháp luật.
1.3.2. Thực hiện nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm là xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, góp phần phịng ngừa và chống tội phạm. Hướng tới mục đích làm rõ
sự thật khách quan, toàn diện của vụ án, nhằm xét xử đúng người, đúng tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tại Điều 2 BLTTHS năm 2015 quy
định về nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự như sau: “Bộ luật tố tụng hình sự có
nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, khơng để lọt tội phạm, khơng làm oan
người vơ tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm”. Theo đó, điều luật xác định rõ nhiệm vụ là nhằm
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, bảo vệ tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

21
Ví dụ như: “Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật” Điều 157 BLHS năm 2015 hoặc “Tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật” Điều 377 BLHS năm 2015.



×