Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Kháng nghị phúc thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.56 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHAN THỊ THANH TRANG

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM

THEO LUẬT

TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SI
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM

THEO LUẬT

TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Võ Thị Kim Oanh


Học viên: Phan Thị Thanh Trang
Lớp: Cao học luật, khóa 26

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi, chưa
được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Người cam đoan

Phan Thị Thanh Trang

năm 2020


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.......................................................... 6
1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự...........................6
1.1.1. Khái niệm.................................................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự......................8
1.1.3. Ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự.......................12
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định kháng nghị phúc thẩm trong

tố tụng hình sự.................................................................................................... 13
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển quy định về kháng nghị phúc thẩm....17
Kết luận chương 1................................................................................................. 25
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM...................................................................... 26
2.1. Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm........................................................ 26
2.2. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm................................................................... 31
2.3. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm.......................................................... 39
2.4. Thủ tục kháng nghị phúc thẩm.................................................................. 40
2.5. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm................................................................ 42
2.6. Bổ sung, thay đổi và rút kháng nghị phúc thẩm....................................... 46
2.7. Hậu quả của kháng nghị phúc thẩm.......................................................... 53
Kết luận chương 2................................................................................................. 55
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KHÁNG NGHỊ
PHÚC THẨM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG NGHỊ
PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................................... 56
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm
56


3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị
phúc thẩm........................................................................................................... 67
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS về kháng nghị phúc
thẩm hình sự..................................................................................................... 67
3.2.2. Một số kiến nghị khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc kháng nghị phúc
thẩm hình sự..................................................................................................... 71
Kết luận chương 3................................................................................................. 74
KẾT LUẬN............................................................................................................ 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của đất nước, trước xu thế hội nhập quốc tế thì yêu cầu
cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước đặt ra là tất yếu. Nghị quyết 49/NQ-TW
ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
nêu ra mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được
tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm trong cải cách tư pháp đã chỉ rõ:
“Viện kiểm sát các cấp phải thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp”.
Để thực hiện tốt chức năng đó, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền
năng pháp lý quan trọng mà Đảng và nhà nước đã giao cho Viện kiểm sát nhân dân,
nhằm đảm bảo mọi hành vi tội phạm và người phạm tội đều phải bị xử lý nghiêm
minh, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân, góp phần đấu tranh
phịng chống tội phạm.
Cũng theo tinh thần của Nghị quyết 49/NQ-TW về hồn thiện chính sách
pháp luật nói chung và chính sách pháp luật tố tụng hình sự nói riêng thì u cầu đặt
ra của công tác kháng nghị là phải quy định chặt chẽ căn cứ kháng nghị, khắc phục
tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTC-VPT1
ngày 19/6/2008 về Tăng cường nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm và Chỉ
thị số 08/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 về Tiếp tục tăng cường cơng tác kháng nghị
hình sự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đặt ra yêu cầu phải
nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Ngành Kiểm sát nhân dân.
Tuy nhiên, thực trạng cho thấy, công tác kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân cịn có những bất cập, hạn chế. Tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát

được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận chưa cao, số án sơ thẩm phải hủy sửa thông
qua kháng cáo chiếm tỷ lệ khơng nhỏ, chất lượng của kháng nghị phúc thẩm cịn
hạn chế, nhiều bản án, quyết định có vi phạm nghiêm trọng nhưng chưa được phát
hiện, kháng nghị kịp thời,… Nguyên nhân một phần do nhận thức và trình độ, năng


2
lực pháp luật của cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế, một phần là do các quy định
pháp luật cịn một số bất cập, chưa hồn thiện.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề liên
quan đến kháng nghị phúc thẩm hình sự là việc rất cần thiết, trên cơ sở đó, đưa ra
giải pháp để tiếp tục hoàn thiện những quy định của pháp luật về kháng nghị phúc
thẩm hình sự và giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
Vì vậy, tôi chọn vấn đề “Kháng nghị phúc thẩm theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ luật học của mình. Thơng qua
việc tìm hiểu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm,
so sánh với thực tiễn áp dụng, đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật
và các giải pháp khác để nâng cao chất lượng của kháng nghị phúc thẩm.
2. Kết quả khảo sát lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, chế định về công tác kháng nghị phúc thẩm được nhiều
nhà nghiên cứu khoa học và các cán bộ chuyên môn làm công tác thực tiễn nghiên
cứu, bình luận khoa học ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau. Các cơng trình
nghiên cứu liên quan đến chế định kháng nghị phúc thẩm tiêu biểu như: Luận văn
thạc sỹ luật học của tác giả Ngô Thanh Xuyên với đề tài “Kháng cáo, kháng nghị
trong phúc thẩm hình sự”, năm 2011; Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Tú với đề tài “Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”, năm 2007; khóa luận tốt nghiệp của
Nguyễn Thị Kim Nhung, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh về “Chế định
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự”, năm 2002;
Khóa luận tốt nghiệp của Trần Tuấn Anh, trường Đại học Luật Hà Nội về “Kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, năm 2010. Trong các
cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đã làm rõ một hoặc một số vấn đề cơ bản của
kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự, nội dung nghiên cứu về những quy
định kháng nghị phúc thẩm của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (đã hết hiệu lực).
Bên cạnh đó có một số các bài nghiên cứu khoa học về kháng nghị phúc thẩm
hình sự như “Kháng nghị phúc thẩm – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác
giả Đinh Văn Quế (2018); “Một số điểm mới về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015” của đồng tác giả Võ Thi Kim Oanh và Lê Thị
Thùy Dương (2016), “Cần pháp điển hóa các căn cứ kháng nghị phúc thẩm vào Bộ


3
luật tố tụng hình sự (sửa đổi)” của đồng tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Thị Thu Hà
(2015), “Giải pháp nâng cao chất lượng cơng tác kháng nghị án hình sự của Viện
kiểm sát” của đồng tác giả Nguyễn Đăng Thắng, Phạm Đức (2019), “Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự” của tác giả Lê Thành Dương
(2014), “Về quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án” của tác giả Nguyễn
Huy Tiến (2014),… Các bài nghiên cứu khoa học chỉ nghiên cứu một số vấn đề, ở
một số khía cạnh liên quan đến kháng nghị phúc thẩm như căn cứ kháng nghị, đối
tượng kháng nghị, thời hạn kháng nghị nhưng chưa nghiên cứu một cách toàn diện
các vấn đề của kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu khoa học nói trên chỉ tập trung nghiên cứu
về một khía cạnh cụ thể liên quan đến kháng nghị phúc thẩm hình sự hoặc chỉ giải
quyết một số vấn đề mang tính tản mạn, chưa nghiên cứu một cách chun sâu, tồn
diện và có hệ thống về mặt lý luận cũng như thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm
hình sự, đặc biệt là trong tình hình mới khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có
hiệu lực. Tuy nhiên, những cơng trình khoa học trên là tài liệu vơ cùng q báu giúp
việc nghiên cứu có thêm nguồn kiến thức tham khảo, đồng thời sẽ là cơ sở để tiếp
tục nghiên cứu hoàn thiện chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự trong Bộ Luật Tố
tụng hình sự năm 2015. Từ đó, luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu những vấn đề về lý

luận, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và thực trạng về cơng tác kháng
nghị, đề xuất giải pháp hồn thiện pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp
luật của cơ quan tiến hành tố tụng trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ việc nghiên cứu về những vấn đề lý
luận và thực tiễn áp dụng pháp luật kháng nghị phúc thẩm hình sự, phát hiện những
hạn chế trong cơng tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, từ đó, đề xuất những kiến
nghị, giải pháp nhằm khắc phục những quy định pháp luật còn bất cập, tăng cường
chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân. Để đạt được
mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải tập trung vào việc giải quyết các nhiệm
vụ chính như sau:
Thứ nhất, luận văn phải làm rõ một số vấn đề lý luận về kháng nghị phúc
thẩm như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở lý luận và thực tiễn, ý nghĩa, lịch sử hình
thành và phát triển quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự.
-


4
- Thứ hai, phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 và các văn bản pháp luật có liên quan đến quy định kháng nghị phúc thẩm.
- Thứ ba, phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về kháng
nghị phúc thẩm, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề về lý luận và
thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 về kháng nghị phúc thẩm, so sánh và đánh giá có chọn lọc pháp
luật nước ngoài về kháng nghị phúc thẩm hình sự, đánh giá thực tiễn kháng nghị
phúc thẩm qua số liệu thống kê của ngành Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi cả
nước trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là dựa trên những cơ sở lý luận của học thuyết Mác
– Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng để tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng
nhằm đánh giá một các khoa học, có logic vấn đề cần nghiên cứu. Luận văn sẽ đi từ
nghiên cứu đánh giá tổng hợp những vấn đề lý luận, so sánh, đánh giá sự phát triển,
hoàn thiện kháng nghị phúc thẩm hình sự của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
qua các giai đoạn lịch sử; phân tích quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, so
sánh và đánh giá có chọn lọc pháp luật nước ngồi về kháng nghị phúc thẩm hình
sự, từ đó, tổng hợp những bất cập và đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự nhằm nâng cao hiệu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự. Luận văn
sử dụng các phương pháp đánh giá của các chuyên gia, phương pháp thống kê, so
sánh, phân tích, tổng hợp và khảo sát trong thực tiễn áp dụng...
6. Dự kiến các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận
Luận văn sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề xoay quanh
kháng nghị phúc thẩm, dự kiến đạt được một số kết quả như sau:
Một là, luận văn sẽ làm sáng những vấn đề về lý luận của kháng nghị phúc
thẩm, làm cơ sở cho việc nhận thức thống nhất bản chất và ý nghĩa của kháng nghị
phúc thẩm hình sự.


5
Hai là, luận văn sẽ phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 về kháng nghị phúc thẩm.
Thứ ba, luận văn xác định những bất cập trong quy định của pháp luật, đồng
thời đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 và đề xuất những giải pháp khác nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả trong
công tác kháng nghị phúc thẩm.
Với những kết quả dự kiến đạt được như trên, luận văn sẽ là nguồn tư liệu
tham khảo để sửa đổi, bổ sung quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về kháng
nghị phúc thẩm hình sự.



6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một hoạt động thể hiện rõ quyền năng của
Viện kiểm sát (VKS), là một trong các cơ sở làm phát sinh thủ tục kháng nghị phúc
thẩm hình sự. Vì vậy, hiểu một cách thống nhất và chính xác nhất về khái niệm của
kháng nghị phúc thẩm là hết sức cần thiết trong khoa học nghiên cứu về kháng nghị
phúc thẩm hình sự theo tố tụng hình sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Kháng nghị là việc bày bỏ sự phản đối bằng
1

2

văn bản” hay “kháng nghị là bảy tỏ ý kiến để phản đối một việc gì” . Theo Từ
điển Từ và Ngữ Việt Nam thì “Kháng nghị được hiểu là chống lại điều đã quyết
3

định trong hội nghị” . Như vậy, theo các Từ điển này thì có thể hiểu một cách
chung nhất kháng nghị là sự phản đối, chống lại hay không đồng ý với một quyết
định nào đó.
Theo từ điển Luật học thì “kháng nghị là việc người có thẩm quyền bằng văn
bản của mình gửi đến Tịa án có thẩm quyền làm ngưng hiệu lực phán quyết của
Tòa án trong bản án, quyết định để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm
4


hoặc tái thẩm làm cho vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật” . Cách
giải thích này đã thể hiện một số đặc điểm của kháng nghị đó là chủ thể là “người
có thẩm quyền”, đối tượng của kháng nghị là các bản án, quyết định của Tịa án,
hình thức của kháng nghị là bằng văn bản, mục đích của kháng nghị là làm cho vụ
án được chính xác, khánh quan và đúng pháp luật.
Như vậy, các khái niệm trong các Từ điển chỉ một phần thể hiện được đặc điểm
của kháng nghị nói chung, mà chưa thể hiện rõ bản chất của kháng nghị phúc thẩm
hình sự nói riêng, bởi lẽ khơng thể hiện được đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình
sự là bản án, quyết định chưa có hiệu lực hay đã có hiệu lực pháp luật; khơng thể hiện
được căn cứ của kháng nghị phúc thẩm hình sự; khơng phân biệt được kháng nghị phúc
1
2

Viện Ngôn ngữ học (2016), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 621.

Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, tái bản lần thứ V, Nxb Thanh niên, tr. 345.
Nguyễn Lân (1988), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 927.
4
Viện ngơn ngữ học (2010), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.527.
3


7
thẩm với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự và
kháng nghị phúc thẩm theo thủ tục tố tụng khác; chủ thể của kháng nghị là “người
có thẩm quyền” mà khơng thể hiện rõ chủ thể duy nhất là Viện kiểm sát.
Trong khoa học pháp lý khi nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm trong tố
tụng hình sự cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Tác giả Đinh Văn Quế cho rằng
“kháng nghị phúc thẩm là một văn bản do VKS ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã

5

xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật” . Quan điểm tiếp cận kháng nghị phúc
thẩm từ góc độ hình thức của kháng nghị là “một văn bản”, thể hiện được chủ thể
của kháng nghị phúc thẩm hình sự là VKS, cơ quan có thẩm quyền xét xử lại vụ án
khi có kháng nghị phúc thẩm là Tòa án cấp phúc thẩm. Tuy nhiên khái niệm này do
tiếp cận từ góc độ hình thức của kháng nghị nên chưa thể hiện được đối tượng của
kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật.
Mặt khác, khái niệm chưa thực sự đầy đủ khi chỉ nêu căn cứ của kháng nghị phúc
thẩm là “xét thấy (vụ án) không đúng pháp luật”, nghĩa là VKS chỉ có quyền kháng
nghị nếu xét thấy vụ án có vi phạm về hình thức “khơng đúng pháp luật”, trong khi
ngồi những trường hợp bản án, quyết định khơng đúng pháp luật (về hình thức) thì
VKS cịn có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với trường hợp bản án, quyết định có
vi phạm về nội dung, thiếu căn cứ, không đúng sự thật khách quan của vụ án.
Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Thị Thanh Tú thì tiếp cận kháng nghị
phúc thẩm hình sự từ góc độ là một quyền năng pháp lý riêng của VKS “Kháng
nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý đặc thù của Viện kiểm sá nhân
dân (VKSND), do người có thẩm quyền thực hiện thơng qua một văn bản pháp lý
nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án;
hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tịa án sơ
thẩm, nhưng xét thấy khơng đúng pháp luật nhằm khắc phục các vi phạm hoặc sai
6

lầm trong các bản án và quyết định đó” . Hay tác giả Ngơ Thanh Xun lại cho
rằng“Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền và nghĩa vụ của VKSND thể hiện
bằng văn bản pháp lý được tiến hành trong thời hạn và theo thủ tục luật định, yêu
cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án,
5

Đinh Văn Quế (2004), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,

giám đốc thẩm và tái thẩm (bình luận chuyên sâu), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.227.
6
Nguyễn Thị Thanh Tú (2007), Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, Luật văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.13.


8
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật đó khơng đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp
7

pháp” . Quan điểm của hai tác giả trên tương đồng với nhau về một số vấn đề nổi
bật của kháng nghị phúc thẩm như chủ thể kháng nghị phúc thẩm là VKS, đối tượng
kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, căn
cứ kháng nghị là bản án, quyết định sai lầm về căn cứ (về nội dung) hoặc khơng
đúng pháp luật (tính hợp pháp), hình thức của kháng nghị là một văn bản pháp lý,
Tịa án có thẩm quyền xét xử lại vụ án khi có kháng nghị là Tịa án cấp phúc thẩm.
Đây cũng chính là những quan điểm được đơng đảo tác giả ủng hộ và thừa nhận, do
tiếp cận kháng nghị từ góc độ là một nhiệm vụ và quyền hạn của VKS.
Từ những quan điểm khoa học khi tiếp cận kháng nghị phúc thẩm hình sự ở
các góc độ và phạm vi khác nhau thì đưa ra khái niệm kháng nghị phúc thẩm khác
nhau. Nhưng nhìn chung, các quan điểm đều thể hiện một số đặc trưng của kháng
nghị phúc thẩm hình sự gồm chủ thể, đối tượng, thẩm quyền, hình thức, căn cứ, mục
đích của kháng nghị phúc thẩm hình sự. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra khái niệm
kháng nghị phúc thẩm hình sự như sau:
“Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát
nhân dân thể hiện bằng một văn bản pháp lý được tiến hành trong thời hạn luật
định, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm, do bản án, quyết định đó có vi
phạm nghiêm trọng về pháp luật tố tụng hình sự hoặc có sai lầm trong việc áp dụng
pháp luật”.

1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự
Khi nghiên cứu kháng nghị phúc thẩm hình sự có thể thấy những đặc trưng
cơ bản của kháng nghị phúc thẩm gồm chủ thể kháng nghị, đối tượng kháng nghị,
thẩm quyền, hình thức, căn cứ, mục đích của kháng nghị phúc thẩm hình sự. Những
đặc trưng này thể hiện bản chất, đặc trưng riêng nhằm phân biệt kháng nghị phúc
thẩm với kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự, cũng như các
chế định khác trong tố tụng hình sự.
- Chủ thể kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự là VKS, chỉ có VKS là
cơ quan duy nhất có quyền kháng nghị, ngồi ra khơng cịn cơ quan nào khác được
thực hiện quyền này.
7

Ngô Thanh Xuyên (2011), Kháng cáo, kháng nghị trong phúc thẩm hình sự, Luật văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.14.


9
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý duy nhất thuộc về cơ
quan VKS. Trong hệ thống các cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án là cơ quan
có chức năng xét xử, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân. Tuy nhiên, khi thực hiện chức năng của mình, việc xét xử của Tịa án là hoạt
động nhận thức khách quan, khơng phải trong mọi trường hợp Tòa án đều đưa ra
phán quyết đúng đắn, đúng người, đúng pháp luật, mà có thể có những sai lầm
nghiêm trọng nếu khơng được phát hiện để khắc phục thì có thể ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền, lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng, đồng thời làm
ảnh hưởng đến hoạt động xét xử mà Tòa án với vai trò là cơ quan nhân danh nhà
nước thực hiện quyền lực này. Do vậy, để có thể chế ước quyền lực của Tịa án,
cũng như đảm bảo q trình xét xử đúng người, đúng pháp luật, Nhà nước giao cho
cơ quan VKS là cơ quan duy nhất có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm khi phát

hiện bản án, quyết định sơ thẩm của Tịa án có vi phạm nghiêm trọng, u cầu Tòa
án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, xét lại quyết định sơ thẩm theo trình tự phúc
thẩm, sữa chữa và khắc phục những sai lầm mà cấp sơ thẩm đã vi phạm. Mặc khác,
cơ quan VKS là cơ quan có chức năng truy tố bị cáo ra trước Tòa án để buộc tội
(dựa trên pháp luật), đồng thời cũng là cơ quan kiểm sát quá trình xét xử của Tịa án
trong suốt q trình diễn ra phiên tịa, vì vậy, bằng việc thực hiện quyền kháng nghị
phúc thẩm của mình, VKS đảm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của mình là “bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
8

nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” .
Một điểm để phân biệt chế định kháng cáo và kháng nghị phúc thẩm là chủ thể
thực hiện quyền. Chủ thể có quyền kháng cáo là những người tham gia tố tụng được
pháp luật quy định trực tiếp liên quan đến vụ án hình sự như bị cáo, người bị hại, người
có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Còn kháng nghị phúc thẩm là chỉ có VKS là
cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước thực hành quyền công tố, kiểm sát xét
xử, phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm thì kháng nghị phúc thẩm. Chủ thể
kháng nghị phúc thẩm cũng khác với kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm. Chủ thể
của kháng nghị phúc thẩm thuộc về VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp với Tòa
án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị (có thể là Viện
8Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


10
trưởng hoặc Phó Viện trưởng), cịn chủ thể có quyền kháng nghị giám đốc thẩm
thuộc về người đứng đầu Tòa án và VKS cấp tỉnh trở lên (Chánh án hoặc Viện
trưởng VKS cấp tỉnh trở lên), chủ thể có quyền kháng nghị tái thẩm thuộc về người
đứng đầu VKS cấp tỉnh trở lên. Như vậy, chỉ có VKSND mới có quyền kháng nghị
phúc thẩm, còn Tòa án nhân dân (TAND) thì khơng có quyền này.

- Đối tượng kháng nghị phúc thẩm hình sự là các bản án, quyết định của Tịa
án chưa có hiệu lực pháp luật mà VKS phát hiện có vi phạm nghiêm trọng.
Phán quyết của Tịa án được thể hiện dưới hình thức là bản án hoặc quyết
định, nhưng các bản án và quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà cịn có
một thời gian hợp lý để các chủ thể tham gia tố tụng có quyền kháng cáo hoặc VKS
có quyền kháng nghị. Điều này xuất phát từ nguyên tắc hai cấp xét xử, theo đó Tịa
án thực hiện hoạt động xét xử hai cấp, đó là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc
thẩm. Bản án, quyết định mà Tòa án cấp xét xử thứ nhất (cấp sơ thẩm) đã tuyên thì
được gọi là bản án, quyết định sơ thẩm. Cấp phúc thẩm phát sinh khi có kháng cáo
hoặc kháng nghị. Nếu khơng đồng ý với những phán quyết đó thì chủ thể tham gia
tố tụng có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị u cầu Tịa án xét xử theo
thủ tục phúc thẩm. Cấp phúc thẩm là cấp xét xử cuối cùng, bản án, quyết định phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật. Do vậy, có thể nói đối tượng của kháng nghị phúc thẩm
luôn luôn là những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Nếu bản
án, quyết định đã có hiệu lực thì không thể làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, mà lúc
đó nếu có kháng nghị thì chỉ có thể là kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Một
trong những điểm khác biệt của kháng nghị phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm
là đối tượng mà chúng tác động đến. Trong khi đối tượng của kháng nghị phúc thẩm
là những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật thì đối tượng kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm là bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật,
đó có thể là bản án, quyết định sơ thẩm mà khơng có kháng cáo, kháng nghị hoặc
bản án, quyết định đã được xét xử ở cấp phúc thẩm.
Tuy nhiên, không phải bản án, quyết định sơ thẩm nào cũng là đối tượng của
kháng nghị phúc thẩm, mà những bản án, quyết định sơ thẩm phải vi phạm pháp
luật, có thể vi phạm về pháp luật tố tụng hình sự hoặc vi phạm về luật nội dung mới
là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm. Đối tượng của kháng cáo và kháng nghị
phúc thẩm đều là những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, tuy
nhiên, chúng khác nhau ở chỗ, đối tượng của kháng cáo là bản án, quyết định sơ



11
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật (nếu là kháng cáo hợp pháp), còn đối tượng của
kháng nghị phúc thẩm là những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật phải có những căn cứ vi phạm pháp luật nhất định.
- Căn cứ kháng nghị phúc thẩm là có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng hoặc có vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật để giải
quyết vụ án.
Không phải bản án, quyết định nào của Tịa án có vi phạm thì đều bị kháng
nghị phúc thẩm, mà chỉ những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc vi
phạm trong việc đánh giá chứng cứ, sai lầm trong áp dụng pháp luật mới làm phát
sinh thủ tục kháng nghị. Các vi phạm chưa đến mức “nghiêm trọng” có thể được
VKS kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm. Kiến nghị trong hoạt động xét
xử là nhiệm vụ và quyền hạn của VKS khi phát hiện hành vi, quyết định của Tịa án
trong hoạt động xét xử có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng khơng thuộc trường
hợp kháng nghị thì VKS kiến nghị Tịa án khắc phục vi phạm pháp luật và Tịa án
có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKS theo quy định. Khi
ban hành kiến nghị, VKS thường tập hợp các dạng vi phạm trong một vụ án hoặc
nhiều vụ án khác nhau để ban hành kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm và
chấn chỉnh. Việc kiến nghị thường là những dạng vi phạm như vi phạm về thời hạn
chuẩn bị xét xử, vi phạm trong tính án phí dân sự trong vụ án hình sự, vi phạm thời
hạn gửi bản án, quyết định cho VKS, … Khác với kiến nghị, VKS kháng nghị khi
có bản án, quyết định của Tòa án vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền
con người, quyền cơng dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân và phải có những căn cứ nhất định. Tuy nhiên, một số địa phương khi
áp dụng vẫn có sự tùy nghi, có nơi thì ban hành kháng nghị phúc thẩm, có nơi ban
hành kiến nghị đối với cùng một dạng vi phạm pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm.
Căn cứ của kháng nghị phúc thẩm cũng khác với kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm. Kháng nghị phúc thẩm với mục đích là bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp
pháp của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nên căn cứ kháng
nghị phúc thẩm phải bao gồm cả việc xem xét tính hợp pháp của bản án, quyết định,

cũng như cả vấn đề về tình tiết, sự việc, đánh giá chứng cứ. Giám đốc thẩm là thủ
tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên căn cứ kháng nghị giám
đốc thẩm phải là những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án chứ
không thể bao gồm cả những căn cứ liên quan đến xem xét tình tiết, sự kiện hay


12
9

đánh giá chứng cứ . Còn căn cứ kháng nghị tái thẩm là khi phát hiện những tình tiết
mới làm thay đổi căn bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
mà trước đó chưa phát hiện được.
1.1.3. Ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự
Kháng nghị phúc thẩm là một trong những cơ sở làm phát sinh thủ tục xét xử
phúc thẩm và xác định phạm vi xét xử của Tịa án cấp phúc thẩm. Thủ tục phúc
thẩm khơng phải là thủ tục đương nhiên bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, mà chỉ khi có kháng cáo hoặc kháng nghị thì thủ tục này mới bắt đầu. VKS
là cơ quan có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm khi xét thấy bản án, quyết định của
Tòa án sơ thẩm có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Với tính chất là cấp xét xử thứ
hai, xét xử phúc thẩm có nhiệm vụ xét xử lại vụ án về mặt nội dung và kiểm tra,
xem xét lại tính khách quan, tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án cấp
dưới, nhằm phát hiện và sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định sơ thẩm,
đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tịa phúc thẩm,
Tịa án phúc thẩm có quyền không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ
thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bỏ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra
hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án; đình chỉ việc xét xử phúc
thẩm. Đồng thời, trên cơ sở kháng nghị phúc thẩm của VKS, Tòa án phúc thẩm xác
định được phạm vi xét xử của mình. Phạm vi xét xử của Tịa án cấp phúc thẩm là
giới hạn mà Tòa án cấp phúc thẩm được quyền xét xử và ra quyết định theo quy
định của pháp luật. Khi VKS kháng nghị phúc thẩm đối với tồn bộ bản án, quyết

định sơ thẩm thì Tịa án cấp phúc thẩm phải xem xét tồn bộ bản án và quyết định
đó. Trong trường hợp VKS chỉ kháng nghị một phần của bản án, quyết định thì Tỏa
án cấp phúc thẩm chỉ cần xem xét những phần được nêu trong kháng nghị, nếu xét
thấy cần thiết, có thể xem xét đối với những phần khác không bị kháng cáo, kháng
nghị. Như vậy, kháng nghị phúc thẩm là cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm xác định
phạm vi xét xử của mình.
Kháng nghị phúc thẩm góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo công bằng xã hội. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc mà Nhà nước
pháp quyền quy định, theo đó tất cả các cá nhân, tổ chức, xã hội đều phải tuân theo
Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm minh, triệt để, chính xác. Pháp luật được ban
9 Đinh Văn Đoàn (2014), Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luật văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.16.


13
hành buộc mọi chủ thể phải tuân thủ triệt để, trong đó có pháp luật về hình sự, tố
tụng hình sự và các quy định khác có liên quan. Khi Tịa án cấp sơ thẩm có sai lầm
trong đánh giá chứng cứ, vi phạm trong áp dụng pháp luật thì đã vi phạm nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Lúc này, VKS đã kịp thời phát hiện vi phạm và
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm buộc Tòa án phúc thẩm phải xét xử lại vụ án,
hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, kịp thời sửa chữa, khắc phục sai lầm mà Tòa án cấp
sơ thẩm đã vi phạm, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án đúng pháp luật. Mặc khác,
công tác kháng nghị cũng là cơ sở cho Tòa án cấp sơ thẩm tổng kết, đánh giá, rút
kinh nghiệm trong quá trình xét xử, nhằm nâng cao kỹ năng và trình độ chun mơn
nghiệp vụ của những người tiến hành tố tụng hình sự.
Kháng nghị phúc thẩm góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
những người tham gia tố tụng, góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội, củng cố lịng
tin của nhân dân. Sự vi phạm, sai lầm của Tòa án sơ thẩm trong bản án, quyết định
có thể gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của những người tham gia tố
tụng mà nếu khơng có kháng nghị phúc thẩm thì chúng vẫn được đưa ra thi hành.

Do đó, VKS phát hiện các vi phạm của Tòa án sơ thẩm để ban hành kháng nghị
phúc thẩm yêu cầu Tòa án phúc thẩm xét xử lại, đã kịp thời ngăn chặn những phán
quyết làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại, người
có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Khi đó, Tịa án cấp phúc thẩm
sẽ là cơ quan nhân danh nhà nước giải quyết vụ án hình sự ở cấp thứ hai, nhân danh
công lý đưa ra phán quyết đúng đắn hơn, đồng thời thông qua việc xét xử Tòa án
cấp phúc thẩm hướng dẫn cho Tòa án cấp dưới và các cơ quan tiến hành tố tụng
khác trong việc giải quyết vụ án, đảm bảo công bằng xã hội, từ đó tăng cường hiệu
quả giáo dục pháp luật, củng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân vào
hoạt động xét xử của Tòa án, vào cơng cuộc đấu tranh và phịng chống tội phạm.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định kháng nghị phúc thẩm
trong tố tụng hình sự
Việc quy định chế định kháng nghị phúc thẩm xuất phát từ yêu cầu bảo vệ
quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quyền
con người là một quyền cơ bản được pháp luật của các quốc gia trên thế giới thừa
nhận và bảo vệ. Đặc biệt, trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự thì quyền của
con người, quyền cơng dân cần phải được đề cao hơn. Bởi lẽ, phán quyết của Tòa án
trong hoạt động xét xử hình sự quyết định số phận pháp lý, sinh mạng chính trị,


14
vận mệnh của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác, có thể ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của họ, mà nếu khơng phát hiện những vi
phạm, thiếu sót thì có thể sẽ khơng khắc phục được, gây nên tình trạng oan, sai, bỏ
lọt tội phạm. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải có cơ chế nhằm phát hiện những vi phạm
nghiêm trọng trong bản án, quyết định sơ thẩm để kịp thời khắc phục và sửa chữa
những vi phạm, yêu cầu Tòa án cấp trên giải quyết vụ án một cách tồn diện và
đúng đắn, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng. Do đó,
có thể nói chế định kháng nghị phúc thẩm xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, mà cụ thể là những người tham gia tố tụng.

Quy định kháng nghị phúc thẩm xuất phát từ nguyên tắc “Chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được đảm bảo” hay còn gọi là chế độ hai cấp xét xử. Hoạt động
xét xử có vai trị quan trọng trong việc tìm ra chân lý, sự thật của vụ án. Tịa án xét
xử vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan. Tính khách quan thể hiện
những tình tiết, chứng cứ thu thập là quá trình diễn biến của phạm tội, là sự thật của
vụ án, là quá trình đi tìm chân lý đúng đắn. Tính chủ quan thể hiện hoạt động xét xử
là quá trình đánh giá, nhận định của người tiến hành tố tụng đối với những chứng cứ
chứng minh tội phạm và quá trình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Do
đó, việc xét xử khơng tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm của những người tiến hành
tố tụng. Việc quy định cơ chế hai cấp xét xử nhằm khắc phục, loại bỏ những hạn
chế, thiếu sót mà Tịa án cấp sơ thẩm đã mắc phải, đồng thời nâng cao trách nhiệm
của những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Nội dung của
nguyên tắc hai cấp xét xử là việc xét xử có hai cấp là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét
xử phúc thẩm. Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất, theo đó, bản án, quyết định
của cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay, mà trong thời gian luật định có thể
bị kháng cáo, kháng nghị để u cầu Tịa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo cấp xét
xử thứ hai. Nếu bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kháng cáo,
kháng nghị không hợp lệ thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp thì làm
phát sinh nên cấp xét xử thứ hai là cấp xét xử phúc thẩm. Nhiệm vụ của Tòa án cấp
phúc thẩm là xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định.
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị, không xem
xét những nội dung khác, trừ những trường hợp cần thiết thì có thể xem xét những
phần khác khơng có kháng cáo, kháng nghị như những tình tiết, sự kiện có lợi cho
bị cáo. Khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng về


15
thủ tục tố tụng hoặc có vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật,
VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm, lúc này thủ tục xét xử phúc thẩm được phát

sinh. Từ những phân tích trên, có thể nói nguyên tắc hai cấp xét xử là cơ sở cho việc
quy định chế định kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự.
Chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự xuất phát từ yêu cầu giám sát hoạt
động của VKS đối với Tòa án và chức năng thực hành quyền công tố của VKS.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, mỗi cơ quan đều đảm nhận một chức
năng và quyền hạn nhất định nhằm thực hiện những nhiệm vụ mà Nhà nước đã giao
cho, đảm bảo cho hệ thống bộ máy nhà nước được vận hành một cách thống nhất và
có hiệu quả. Trong Tố tụng hình sự, Nhà nước thành lập hệ thống các cơ quan tư
pháp đảm nhận những chức năng tố tụng, kiểm soát, chế ước quyền lực lẫn nhau,
nhằm đảm bảo thực thi pháp luật một cách tối thượng, trong đó chức năng buộc tội
được Nhà nước giao cho cơ quan VKS, đại diện cho Nhà nước thực hiện quyền
cơng tố. Ngồi VKS thì khơng cịn cơ quan nào khác có quyền này. Đây là chức
năng quan trọng mà Nhà nước giao cho VKS đảm nhiệm, nhằm khẳng định vị trí
của VKS trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Khác với hoạt động giám sát nhà
nước nói chung thì việc kiểm tra giám sát của VKS là giám sát trực tiếp các hoạt
động cụ thể của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong hoạt động
tư pháp. Đó là một dạng giám sát mang tính quyền lực nhà nước, được nhà nước
giao quyền và nghĩa vụ để nhân danh nhà nước thực hiện chức năng đặc thù là thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong quá trình thực hiện chức
năng của mình, nếu VKS nhận thấy phán quyết của Tịa án có sai sót thì có quyền
u cầu Tịa án xét xử lại vụ án hoặc xem xét lại bản án, quyết định, đó chính là
quyền kháng nghị của VKS. Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống
nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Tuy nhiên, quyền kháng nghị phúc thẩm thuộc về chức năng thực hành quyền
công tố hay chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp
của VKS thì có nhiều quan điểm khác nhau. Theo quan điểm của tác giả Dương
Thanh Biểu cho rằng “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một trong những hoạt
động của VKSND nhằm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình
10


sự” . Tác giả Nguyễn Huy Tiến thì cho rằng kháng nghị phúc thẩm là “một bộ
10

Nguyễn Thị Thanh Tú (2007), tlđd (6), tr.9.


16
phận hữu cơ của quyền công tố, là sự mở rộng và tiếp tục của quyền cơng tố, hay
nói cách khác nó là thẩm quyền phái sinh từ quyền cơng tố, là biểu hiện về mặt hình
thức của quyền cơng tố, nó như một sự nối dài của quyền cơng tố và đó cũng là một
11

cơ chế hỗ trợ quyền công tố” . Những quan điểm cho rằng kháng nghị xuất phát từ
quyền cơng tố có hạt nhân hợp lý vì quyền cơng tố bản chất là quyền buộc tội của
Nhà nước đối với người có hành vi phạm tội ra trước Tòa án yêu cầu xét xử và áp
dụng hình phạt đối với người đó, nói cách khác quyền công tố bao hàm hai nội dung
là quyền yêu cầu định tội và và yêu cầu xem xét hình phạt đối với người phạm tội.
Hậu quả và mục đích của việc kháng nghị phúc thẩm khi yêu cầu Tòa án xét xử theo
thủ tục phúc thẩm là tiếp tục việc buộc tội của VKS mà trong quá trình điều tra và
truy tố đã thực hiện. Tuy nhiên, nếu cho rằng kháng nghị phúc thẩm xuất phát từ
quyền công tố là chưa đầy đủ, bởi lẽ quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước
thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội, vì vậy trong suốt quá trình buộc tội
thì mục đích cơng tố là chứng minh người đó có tội phạm hay khơng, việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người đó như thế nào và áp dụng hình phạt đối với
người đó ra sao. Nếu hiểu theo cách này, thì kháng nghị phúc thẩm hình sự chỉ xuất
hiện khi cho rằng việc xét xử có oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Trong khi
đó kháng nghị phúc thẩm cịn có căn cứ là khi bản án, quyết định của Tịa án có
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong
thực tế thì cơng tác kháng nghị hiếm khi được thực hiện tại phiên tòa sau khi Tòa

tuyên án, mà kháng nghị của VKS được thực hiện thông qua hoạt động kiểm sát bản
án, quyết định Tịa án gửi cho VKS.
Tác giả Ngơ Thanh Xun cho rằng kháng nghị phúc thẩm hình sự vừa thể
hiện quyền năng thuộc chức năng thực hành quyền công tố, vừa thể hiện quyền
12

năng thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp .
Theo quan điểm này thì những kháng nghị về nội dung bao gồm đánh giá chứng cứ,
kết luận tội phạm, định tội danh hoặc áp dụng không đúng các quy định của Bộ luật
hình sự (BLHS) về loại, mức hình phạt… là những kháng nghị thuộc chức năng
thực hành quyền công tố; cịn những kháng nghị có vi phạm nghiêm trọng trong quá
trình xét xử như thành phần Hội đồng xét xử (HĐXX) khơng đúng pháp luật, khơng
có người bào chữa trong các trường hợp bắt buộc hoặc những vi phạm thủ tục
khác… là những kháng nghị VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
11
Nguyễn Huy Tiến (2014), “Về quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án”, Tạp chí Kiểm
sát, số 12, tr. 42. 12Ngơ Thanh Xun (2011), tlđd (7), tr.12.


17
luật trong hoạt động tư pháp. Quan điểm này khá hợp lý vì đã bao hàm nội dung các
quan điểm khác, kháng nghị không xuất phát từ một chức năng, hoặc là chức năng
công tố, hoặc chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS, mà xuất phát từ cả
hai chức năng của VKS. Vấn đề đặt ra là khi những vi phạm trong tố tụng có khả
năng làm ảnh hưởng đến việc đánh giá chứng cứ, kết luận tội phạm hoặc các yếu tố
khác liên quan đến vấn đề về nội dung thì lúc này kháng nghị phúc thẩm sẽ xuất
phát từ chức năng thực hành quyền công tố hay kiểm sát hoạt động tư pháp. Chẳng
hạn có vi phạm tố tụng về thành phần HĐXX trong vụ án có bị cáo là người dưới 18
tuổi, HĐXX khơng có Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đồn thanh niên hoặc
người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi. Vi phạm này có thể ảnh

hưởng đến việc nhận định đường lối xử lý vụ án, việc áp dụng loại và mức hình
phạt cho phù hợp với lứa tuổi này và đây là những vấn đề mà theo quan điểm của
tác giả là thuộc về chức năng thực hành quyền cơng tố.
Từ việc phân tích những hạt nhân hợp lý và hạn chế của các quan điểm trên,
thì rõ ràng là thiếu sót khi đánh giá hoạt động kháng nghị phúc thẩm xuất phát chỉ
đơn thuần từ một chức năng của VKS, hoặc tách những nội dung, căn cứ kháng nghị
phúc thẩm để cho rằng kháng nghị nào thuộc chức năng thực hành quyền công tố,
kháng nghị nào thuộc chức năng kiểm sát xét xử. Do đó, có thể nhận định kháng
nghị phúc thẩm xuất phát từ cả hai chức năng của VKS là chức năng thực hành
quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Cả hai chức năng này có
quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, khơng thể tách rời, mà đan xen, hỗ trợ nhau, tạo
nên tính thống nhất trong chức năng của VKS, đảm bảo cho VKS thực hiện quyền
năng mà pháp luật quy định, và nếu phát hiện bản án, quyết định của Tịa án có vi
phạm nghiêm trọng thì kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Tóm lại, cở sở hình thành nên chế định kháng nghị phúc thẩm xuất phát từ
yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân trong q trình giải quyết vụ án
hình sự, xuất phát từ cơ chế hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự và xuất phát từ
chức năng tố tụng mà Nhà nước giao cho VKS là thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển quy định về kháng nghị phúc thẩm
Khi nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam thì
việc nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của quy định về kháng nghị phúc
thẩm qua các giai đoạn lịch sử pháp luật tố tụng hình sự là hết sức cần thiết và có ý


18
nghĩa quan trọng, là cơ sở để so sánh, đối chiếu những quy định của pháp luật về
kháng nghị phúc thẩm trong từng giai đoạn, từ đó kế thừa những hạt nhân hợp lý
nhằm đề xuất sửa đổi pháp luật cho phù hợp với tình hình kinh tế - chính trị, xã hội
hiện nay.

- Giai đoạn trước khi BLTTHS năm 1988 ra đời:
Trong thời kỳ phong kiến, hệ thống bộ máy nhà nước khơng có sự biệt lập tổ
chức quyền lực giữa lập pháp, hành pháp, quân sự và tư pháp, mà hệ thống này vận
hành đồng bộ và thống nhất. Pháp luật cịn mang nét sơ khai, khơng có sự tách bạch
luật nội dung và luật hình thức, ranh giới giữa tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng
hành chính chỉ mang tính tương đối, chủ yếu phân loại theo tính nặng, nhẹ, nghiêm
trọng hay khơng nghiêm trọng của vụ việc. Thủ tục xét xử phúc thẩm mặc dù có được
đề cập nhưng khơng rõ ràng. Tại Điều 672 Luật Hồng Đức có quy định tổng quát về
cấp xét xử: “Nhân dân trong lộ, trong huyện có việc tranh kiện nhau, việc rất nhỏ đến
kiện ở xã quan; việc nhỏ đến kiện ở lộ quan; việc trung bình đến kiện ở quan phủ; các
quan phải xét xử cho cơng bằng đúng pháp luật. Nếu xã xử đốn khơng hợp lẽ thì kêu
lên quan huyện, quan huyện xử khơng hợp lẽ thì kêu lên quan lộ; quan lộ xử khơng hợp
lẽ thì mới lên Kinh tâu bày”. Như vậy, trong thời kỳ này, pháp luật đã thừa nhận quyền
kháng cáo, còn quyền kháng nghị phúc thẩm chưa được quy định.

Sau khi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời, hàng loạt các sắc lệnh được ban hành nhằm kịp thời thành lập
bộ máy nhà nước. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch nước ký sắc lệnh số 33/SL thiết lập
Tòa án quân sự, theo đó Tịa án qn sự xét xử tất cả những người nào có hành vi
làm phương hại đến nền độc lập của đất nước. Những quyết định của Tòa án quân
sự sẽ được thi hành ngay sau khi tuyên án, trừ người bị kết án tử hình thì có quyền
làm đơn lên chủ tịch nước xin ân giảm. Như vậy, những tội phạm xâm phạm an ninh
quốc gia thì được Tịa án qn sự xét xử và có giá trị chung thẩm, còn các tội phạm
khác như các tội phạm về sở hữu, sức khỏe, … thì chưa có quy định. Quy định này
là phù hợp với tình hình đất nước cịn non trẻ, đang có thù trong, giặc ngồi, cần
phải nhanh chóng trừng trị những bọn phản cách mạng chống phá chính quyền nhà
nước. Do đó, các quyết định của Tịa án qn sự có hiệu lực ngay sau khi tuyên án
(trừ người bị kết án tử hình), khơng có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Ngày 24/01/1946, sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm
phán được ký ban hành. Điều 34 của Sắc lệnh này có quy định về Tịa đại hình



19
xử sơ thẩm “Ông Biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên Tịa thượng
thẩm”. Thời kỳ này, ơng Biện lý được hiểu là người có chức vụ công tố buộc tội và
truy tố các nghi can ra tòa để xét xử (tương tự như chức danh Kiểm sát viên hiện
nay). Như vậy, dưới thuật ngữ “chống án” thì chế định kháng cáo, kháng nghị được
quy định một cách chung nhất, thể hiện sự phản đối của ông Biện lý khi không đồng
ý với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp dưới, cũng như việc chống án của bị
can và nguyên đơn. Tuy Sắc lệnh này chưa có sự phân biệt chế định kháng cáo và
chế định kháng nghị như hiện nay, nhưng cũng có ý nghĩa đánh dấu việc quy định
chế định kháng nghị phúc thẩm trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam.
Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đánh dấu bước ngoặc
quan trọng khẳng định chủ quyền và độc lập dân tộc, quy định cơ cấu bộ máy nhà
nước, đồng thời có quy định việc tổ chức Tòa án theo hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm,
đảm bảo quyền chống án của đương sự, tuy nhiên trong cơ cấu bộ máy nhà nước chưa
hình thành nên cơ quan VKS. Ngày 25/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số
85/SL về cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng, theo đó Điều 15 của Sắc lệnh này
có quy định “Cơng tố viên có quyền kháng cáo cả việc hình và việc hộ”. Các quan điểm
trước đó cho rằng việc hộ thường chỉ ảnh hưởng đến cá nhân, mà không ảnh hưởng đến
xã hội, do đó, cơng tố viên sẽ khơng can thiệp đến, thì nay Sắc lệnh này quy định Cơng
tố viên có quyền kháng cáo cả việc hình và việc hộ. Nhìn chung, trong giai đoạn này
chưa hình thành rõ nét chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự, chưa có sự phân định rõ
ràng giữa kháng cáo và kháng nghị phúc thẩm. Thời kỳ này do ảnh hưởng nền pháp
luật của nước Pháp nên các quy định lúc bấy giờ nếu không làm phương hại đến nền
độc lập, lợi ích của đất nước thì vẫn được thừa nhận và áp dụng.

Đến khi Hiến pháp năm 1959 ra đời thì cơ quan VKS được chính thức thành
lập, có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng
13


Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên Nhà nước và cơng dân .
Sau đó, Luật tổ chức VKSND 1960 cũng ra đời quy định rõ hơn về tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ của VKS. Ở thời điểm này, VKS có chức năng quá lớn, kiểm sát
hầu hết các cơ quan nhà nước, hay còn gọi là kiểm sát chung, do đó, chế định kháng
nghị lúc bấy giờ khơng chỉ có ở lĩnh vực tố tụng hình sự mà cịn có ở các lĩnh vực
hành chính như có quyền kháng nghị đối với những nghị quyết, thơng tư, chỉ thị
hoặc biện pháp không hợp pháp của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và các
13

Điều 105 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959.


20
14

cơ quan Nhà nước địa phương . Quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS được quy
định một cách rõ ràng, cụ thể tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960 quy định
“VKSND tối cao và VKSND địa phương có quyền… (c) kháng nghị những bản án
hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cùng cấp và cấp dưới một cấp”, Điều 9 Luật Tổ
chức TAND năm 1960 cũng quy định “TAND thực hành chế độ hai cấp xét xử…
VKSND cùng cấp và cấp trên một cấp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định
sơ thẩm của TAND. Nếu đương sự không chống án hoặc VKSND không kháng nghị
trong thời hạn do pháp luật quy định thì bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND
địa phương sẽ có hiệu lực pháp luật”.
Thông tư số 03-NCPL ngày 19/5/1967 của TAND tối cao hướng dẫn trình tự
phúc thẩm về hình sự, tuy nhiên thông tư này bộc lộ hạn chế là việc quy định cho
Tịa án cấp phúc thẩm có nhiệm vụ xét xử lại toàn bộ nội dung vụ án mà khơng lệ
thuộc vào việc có kháng cáo, kháng nghị tồn bộ nội dung vụ án đó hay khơng, đã
làm cho việc xét xử trở nên nặng nề, không cần thiết và làm mất đi ý nghĩa của chế

15

định kháng cáo, kháng nghị, dẫn đến tồn đọng án tại Tòa án cấp phúc thẩm .
Thông tư số 03-NCPL ngày 19/5/1967 sau này được thay thế bằng Bản đề án
hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự, ban hành kèm theo Thông tư số
19/TATC ngày 02/10/1974 của Tòa án tối cao, quy định chức năng của Tòa án cấp
phúc thẩm là xét lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự sơ thẩm, khi bản án
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị nhằm thẩm tra lại tính hợp
pháp và có căn cứ của bản án sơ thẩm, đồng thời xét xử lại vụ án về nội dung.
Quyền kháng nghị được quy định cho cả VKS cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ
thẩm và VKS cấp trên trực tiếp. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cáp là 15 ngày
kể từ ngày tun án, khơng phụ thuộc vào VKS có mặt hay vắng mặt tại phiên tòa
sơ thẩm, thời hạn kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày
tuyên án. Trường hợp cả hai cấp kiểm sát cùng kháng nghị, nếu có mâu thuẫn với
nhau mà VKS cấp trên không yêu cầu VKS cấp dưới rút kháng nghị, Tòa án cấp
phúc thẩm chỉ chấp nhận và xét xử theo kháng nghị của VKS cấp trên.
Các kháng nghị ngoài thời hạn luật định là kháng nghị không hợp lệ và về
nguyên tắc không được chấp nhận, trừ trường hợp có lý do chính đáng. Kể từ khi có
14

Điều 9 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.

15

Viện khoa học kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), “Mơ hình Tố tụng hình sự Việt Nam”,

Thông tin khoa học kiểm sát, số 5+6, tr.165.



×