Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.39 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN LINH PHƯƠNG

NGHĨA VỤ THUẾ CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ KẾT
NỐI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, 09 - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGHĨA VỤ THUẾ CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ KẾT
NỐI TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Thủy
Học viên: Trần Linh Phương
Lớp: Cao học Luật Kinh tế
Khóa: 25

TP. HỒ CHÍ MINH, 09-2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các thông
tin, số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn và có tính
kế thừa từ các cơng trình khoa học và các tài liệu liên quan khác
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Linh Phương

năm 2020


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ

VIẾT TẮT

Kinh tế chia sẻ

KTCS

Doanh nghiệp nước ngồi

DNNN

Gía trị gia tăng


GTGT

Thu nhập doanh nghiệp

TNDN

Ngân hàng nhà nước

NHNN

Ngân sách nhà nước

NSNN

Nhà thầu nước ngoài

NTNN

Cho vay ngang hàng

CVNH

Hiệp định tránh đánh thuế hai lần

Hiệp định


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ THUẾ CỦA DOANH

NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ KẾT NỐI TẠI VIỆT NAM..................................7
1.1. Khái niệm nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại
Việt Nam.................................................................................................................... 7
1.1.1.

Khái niệm doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam.............7

1.1.2.

Khái niệm nghĩa vụ thuế......................................................................... 13

1.2. Các yếu tố nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại
Việt Nam.................................................................................................................. 18
1.2.1.

Đăng ký thuế............................................................................................ 18

1.2.2.

Khai thuế và nộp hồ sơ thuế.................................................................... 20

1.2.3.

Nộp tiền thuế............................................................................................ 22

1.2.4.

Quyết toán thuế........................................................................................ 23

1.3. Đặc trưng về nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối

tại Việt Nam............................................................................................................. 24
1.3.1.

Đặc trưng về chủ thể nộp thuế................................................................ 24

1.3.2.

Đặc trưng về phương thức nộp thuế....................................................... 32

1.4. Cơ sở hình thành nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết
nối tại Việt Nam....................................................................................................... 33
1.4.1. Thẩm quyền thu thuế của Nhà nước đối với doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ kết nối....................................................................................................... 33
1.4.2.

Sự xuất hiện của các khoản thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp......36

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................... 38


Chương 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ VIỆC THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ THUẾ CỦA DOANH NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ KẾT NỐI
TẠI VIỆT NAM.......................................................................................................... 39
2.1. Thuế giá trị gia tăng...................................................................................... 39
2.1.1.

Quy định pháp luật.................................................................................. 39

2.1.2.


Thực trạng áp dụng pháp luật................................................................. 46

2.1.3.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật............................................................... 51

2.2. Thuế thu nhập doanh nghiệp........................................................................ 54
2.2.1.

Quy định pháp luật.................................................................................. 54

2.2.2.

Thực trạng áp dụng pháp luật:............................................................... 66

2.2.3.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật............................................................... 72

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................... 77
KẾT LUẬN CHUNG................................................................................................. 78


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cho đến hiện nay có thể nói việc hịa vào dịng chảy hội nhập kinh tế quốc tế đã
khơng cịn q xa lạ với Việt Nam. Dù được đánh giá là một quốc gia đang phát triển
dừng ở mức trung bình khá nhưng những năm qua nền kinh tế Việt Nam với những

tăng trưởng và tiến bộ đáng kể của mình đã trở thành một điểm đến đầu tư thu hút
trong khu vực và trên thế giới đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Sự xuất hiện phổ
biến của những doanh nghiệp ngoại mang đến xu hướng kinh doanh mới. Đó chính là
kinh doanh dịch vụ kết nối, hay còn gọi là kinh tế chia sẻ.
Tại Diễn đàn Cách mạng công nghiệp 4.0 do Bộ Công Thương tổ chức ngày
11/4/2017, “Kinh tế chia sẻ” nhìn chung được định nghĩa là “hoạt động tái thiết kinh tế,
trong đó các cá nhân ẩn danh có thể sử dụng các tài sản nhàn rỗi (bao gồm cả các tài
sản vơ hình như kỹ năng cá nhân và thời gian rảnh rỗi) được sở hữu bởi các cá nhân
khác thông qua nền tảng kết hợp trên internet”. Hai cái tên điển hình khi nhắc đến kinh
tế chia sẻ đó là Airbnb và Uber. Mơ hình kinh tế chia sẻ hình thành tại Việt Nam bên
cạnh các tên tuổi nước ngồi cũng xuất hiện khơng ít các doanh nghiệp khởi nghiệp
trong nước thử sức sáng tạo. Từ đây, các bên liên quan đã thẳng thắn nhìn nhận tiềm
năng tích cực mà mơ hình này mang lại cho kinh tế Việt Nam trong xu hướng phát
triển mới của thế giới. Dẫu vậy, ở khía cạnh khác, Việt Nam khơng tránh khỏi nhiều
thách thức phát sinh, đặc biệt vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế.
Thu thuế đối với doanh nghiệp hoạt động ở vị thế trung gian, kết nối doanh
nghiệp sản xuất và người tiêu dùng, thêm vào đó là loại hình kinh doanh trực tuyến trở
thành bài tốn quản lý gây bối rối cho chính quyền ở nhiều quốc gia và Việt Nam cũng
không là ngoại lệ. Tuy nhiên, vấn đề thực hiện quy trình quản lý chỉ khả thi một khi
xác định được chính xác nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp bao gồm những gì theo quy
định pháp luật thuế Việt Nam. Chú trọng xác định phạm vi nghĩa vụ của chủ thể nộp
thuế, làm rõ mối quan hệ giữa nhà nước với các doanh nghiệp theo tiêu chí tạo điều
kiện cho các chủ thể kinh doanh phát huy được quyền tự do kinh doanh, làm động lực
thúc đẩy kinh tế trong nước tiến bộ. Như vậy, trên cơ sở các lý do kể trên tác giả cho
rằng việc chọn nghiên cứu đề tài “Nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp cung cấp
dịch


2


vụ kết nối tại Việt Nam” là cần thiết và có ý nghĩa nhất định trong tiến trình hồn thiện
khung pháp lý về công cụ thuế và đảm bảo tránh thất thu thuế trong thời đại khoa học –
công nghệ thống lĩnh như hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ pháp lý, các nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài bao gồm:


Nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp của tổ chức nước ngoài kinh doanh
tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Nguyễn Thị Hoài Thu, ĐH Luật TP. HCM,
năm 2015.

Nội dung đề tài hướng đến xây dựng khung lý luận hình thành nên quy định
pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp của tổ chức nước ngoài kinh
doanh tại Việt Nam, tìm ra các lỗ hổng pháp lý trong pháp luật thực định nhằm kiến
nghị sửa đổi hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp của
tổ chức nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam. Cụ thể, đề tài xác định phạm vi nghiên
cứu là tổ chức nước ngồi là tổ chức có quốc tịch nước ngồi và không thuộc các
trường hợp được quy định tại Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Dầu khí.
Luận văn giải quyết vấn đề trên nền tảng lý luận tổ chức nước ngoài kinh doanh tại
Việt Nam là một chủ thể đặc biệt. Có nghĩa vụ nộp thuế tương tự các tổ chức mang
quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, do đặc thù về chủ thể nên pháp luật điều chỉnh nghĩa
vụ thuế của chủ thể này cần xây dựng trên ngun tắc dung hịa lợi ích giữa Nhà nước
và người nộp thuế, nhận diện chính xác tổ chức nước ngồi có nghĩa vụ nộp thuế, xây
dựng quy định pháp luật đặc thù và xử lý trùng thuế trong quá trình điều tiết nghĩa vụ
thuế. Luận văn cũng đưa ra kiến nghị đề xuất hoàn thiện pháp luật bao gồm: xây dựng
pháp luật minh bạch, nhất quán về khoản lợi ích là đối tượng chịu thuế; đảm bảo tính
cơng bằng trong xác định việc tính thuế bằng cách ấn định tỷ lệ phần trăm trên doanh
thu; quy định rõ ràng trách nhiệm khấu trừ thuế của bên Việt Nam; chỉnh sửa quy định
về người nộp thuế tại Luật Quản lý thuế và một số biện pháp bổ trợ khác.



Phân tích tác động của nền kinh tế chia sẻ xe đến nền kinh tế Việt Nam và

các đối tượng liên quan, Khóa luận tốt nghiệp, Đỗ Hồng Vi Sinh, ĐH Luật TP.
HCM, năm 2018.


3

Khóa luận tốt nghiệp được phân thành 3 chương. Trong đó, chương 1 trình bày
cơ sở lý luận về nền kinh tế chia sẻ; Chương 2 nêu thực trạng và xu hướng của nền
kinh tế chia sẻ xe tại Việt Nam và Chương 3 đưa ra các kiến nghị giải pháp hỗ trợ công
tác quản lý nền kinh tế chia sẻ xe tại Việt Nam. Khóa luận thể hiện kiến thức lý luận
chung nhất về nền kinh tế chia sẻ trên thế giới dẫn dắt đến tình hình tại Việt Nam.
Trong đó chú trọng hai nền tảng kinh doanh nổi bật là Grab và Uber tại thời điểm trước
năm 2018. Sau đó, từ thực trạng đi đến kiến nghị trên nhiều phương diện như xác định
danh nghĩa chủ thể kinh doanh, khía cạnh cạnh tranh, thị trường lao động…Với kết quả
đạt được, khóa luận được xem là cơng trình nghiên cứu bước đầu khái quát về nền tảng
kinh tế chia sẻ xe ở góc độ học thuật pháp lý.
Dưới góc độ kinh tế, các nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài bao gồm:
• Trốn thuế thương mại điện tử: Nhận diện các hành vi và giải pháp xử lý,
Lý Phương Duyên, 2015.
Bài viết trình bày khái quát về nội dung thương mại điện tử, nguyên tắc đánh
thuế quốc tế: nguồn phát sinh thu nhập hoặc cư trú và nguyên tắc điểm đến hoặc xuất
xứ. Tác giả bài viết cho rằng quyền đánh thuế trong thương mại điện tử rất khó xác
định khi việc giao dịch hàng hóa dịch vụ trực tuyến rất khó phát hiện và dễ gây ra xung
đột lợi ích giữa các nước chịu tác động trong việc thực hiện. Từ đó xuất hiện các hành
vi trốn thuế trong thương mại điện tử như là không đăng ký kinh doanh/ đăng ký nộp
thuế; không kê khai hoặc kê khai thấp giá trị giao dịch/ thu nhập để trốn thuế. Tác giả
bài viết đề xuất một số giải pháp xử lý như lập ra một đội giám sát, định kỳ rà soát các

website, xây dựng một hệ thống dị tìm tự động trên mạng internet để thu thập dữ liệu
từ các trạng điện tử giúp nhận diện, phân tích hành vi trốn thuế trong kinh doanh
thương mại điện tử...
Các cơng trình nghiên cứu đã tiếp cận vấn đề thuế ở nhiều khía cạnh, mức độ
nghiên cứu chuyên sâu khác nhau và đạt được những kết quả nhất định về vấn đề cần
giải quyết. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, các loại hình kinh doanh phi truyền thống ra
đời và phát triển nhanh chóng địi hỏi pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ thuế của chủ thể
kinh doanh ấy tại Việt Nam cần có sự thay đổi tương thích. Trước tình hình đó, để góp
phần hình thành thêm một nghiên cứu chuyên sâu và tiếp nối các nghiên cứu trước đó,


4

luận văn của tác giả tập trung nghiên cứu một phần trong nghĩa vụ thuế của chủ thể
kinh doanh nói chung nhưng bổ sung ở một góc độ khác, đó là nghĩa vụ thuế của doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam trong nền kinh tế chia sẻ. Trên nền tảng
kiến thức từ những nghiên cứu đã qua, luận văn kế thừa (i) cơ sở lý luận khái quát về
nền kinh tế chia sẻ, (ii) xác định nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với chủ thể
tổ chức nước ngoài để chú trọng khai thác chủ thể doanh nghiệp nước ngoài trong nền
kinh tế chia sẻ. Thêm vào đó, cập nhật các văn bản quy định mới và thực tế hiện nay để
có những kiến nghị phù hợp, tăng tính khả thi trong hoạt động của cơ quan thuế cũng
như tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đề tài hướng đến những mục đích sau:
a) Hiểu rõ cơ sở lý luận và nắm bắt được những quy định pháp luật trong lĩnh vực
thuế mà Việt Nam hiện có điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ kết nối, từ đó xác định chính xác nghĩa vụ thuế của chủ thể kinh
doanh này.
b) Khảo sát thực tiễn hiệu quả pháp luật thuế trong việc kiểm soát, quản lý
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế tại Việt Nam.

c) Phát hiện hạn chế của luật thực định từ góc độ lý luận và thực tiễn để đưa ra
những kiến nghị cần thiết trên nền tảng có học hỏi kinh nghiệm nước ngồi để
hồn thiện pháp luật điều chỉnh, phát huy tốt vai trò định hướng kinh tế của Nhà
nước thông qua công cụ thuế.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ kết nối tại Việt Nam, bao gồm hai loại thuế chính là thuế Giá trị gia tăng và
thuế Thu nhập doanh nghiệp.
b) Phạm vi nghiên cứu
Trong thời đại tiến bộ khoa học công nghệ mở đường cho kinh tế không ngừng
đổi mới và phát triển, hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh là doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối thực hiện tại Việt Nam ngày càng đa dạng cả về cách


5

thức và phương pháp. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu
trong hai giới hạn sau:
Một, luận văn giới hạn thuật ngữ doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối là
những doanh nghiệp tham gia vào nền kinh tế chia sẻ, đóng vai trị liên kết bên cung
cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng bằng phương tiện điện tử (ứng dụng nền tảng
công nghệ trực tuyến).
Hai, luận văn giới hạn nghiên cứu về mặt luật nội dung, cụ thể nghĩa vụ thuế
của doanh nghiệp bao gồm 02 loại thuế điều chỉnh trực tiếp là thuế giá trị gia tăng và
thuế thu nhập doanh nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với mục đích mà luận văn đã đề ra, tác giả vận dụng nhiều phương pháp nhằm
triển khai cụ thể từng nội dung của đề tài. Cụ thể:
Chương 1: Vấn đề lý luận chung

+ Phương pháp phân tích diễn giải tổng hợp: để hiểu đúng, chi tiết các vấn đề
liên quan đến quy định pháp luật thuế như khái niệm, đặc trưng, cơ sở hình thành nghĩa
vụ thuế… của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam, luận văn thực hiện
việc bình luận khoa học các quy định pháp luật, giải thích, diễn giải quy định, phân tích
xuyên suốt lịch sử quy định luật, các trường hợp áp dụng luật… Thêm vào đó, tìm hiểu
dự thảo văn bản luật (nếu có), hồ sơ, báo cáo, thống kê số liệu của các cơ quan liên
quan như cơ quan thuế, sở ban ngành… sau đó đi đến tổng hợp các phân tích nhằm đưa
ra kết luận cho từng vấn đề cụ thể cũng như kết luận chung cho nội dung lý luận về
nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam.
+ Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng trong chương 1 trước
hết trong việc so sánh cách quy định của pháp luật thuế với điều ước quốc tế, một số
ngành luật khác khi quy định về cùng một vấn đề. So sánh mang tính duy vật lịch sử
giữa quy định pháp luật thuế hiện hành dành cho doanh nghiêp cung cấp dịch vụ kết
nối tại Việt Nam với những quy định đã từng có trên cơ sở mối tương quan giữa các
yếu tố tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của thời đại. Đồng thời cho thấy xu hướng
điều chỉnh, thay đổi pháp luật thuế Việt Nam khi so sánh với quy định thuế của các


6

quốc gia khác trên thế giới nhằm giải quyết vấn nạn trốn thuế, gây thất thu thuế cho
ngân sách và bất công xã hội.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về việc thực hiện nghĩa vụ thuế và kiến
nghị giải pháp
+ Phương pháp khảo sát và phân tích số liệu: Nhằm đảm bảo tính định lượng
cũng như có mức độ khách quan nhất định, luận văn vận dụng phương pháp này để
khai thác, đánh giá các số liệu, thông tin thu thập được từ những văn bản, báo cáo các
cấp của các cơ quan chức năng có liên quan như cơ quan thuế, công thương... tại Việt
Nam và từ các website đăng tải thơng tin chính thống của các tổ chức nước ngoài và
quốc tế.

+ Phương pháp kinh tế học: Luận văn nghiên cứu pháp luật về nghĩa vụ thuế
xem xét dưới cái nhìn và sự trợ giúp của các quan điểm kinh tế, đặc biệt là quan điểm
giải thích nền kinh tế chia sẻ. Qua đó, nghiên cứu quy định pháp luật dưới khía cạnh
lợi ích kinh tế, xã hội góp phần kiến nghị giải pháp điều chỉnh luật phù hợp đảm bảo
dung hịa tốt nhất lợi ích của các bên.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được chia làm 02 chương:
Chương 1. Khái quát chung về nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ kết nối tại Việt Nam
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật về việc thực hiện nghĩa vụ thuế của
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam.


7

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ THUẾ CỦA DOANH NGHIỆP CUNG
CẤP DỊCH VỤ KẾT NỐI TẠI VIỆT NAM.
1.1. Khái niệm nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt
Nam
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam
Vì mục tiêu phát triển và hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu, trong những
năm qua, Việt Nam đã tiến hành ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do với các đối
tác trên thế giới ở nhiều cấp độ, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài rất lớn vào nước
ta. Thêm vào đó, xu hướng Cách mạng cơng nghiệp 4.0 cũng làm xuất hiện ngày càng
nhiều các chủ thể kinh doanh tham gia vào những lĩnh vực mới nổi như kinh tế kỹ
thuật số, trí thơng minh nhân tạo (AI), cơng nghệ tài chính (Fintech), cơng nghệ thực tế
ảo (VR)... Theo đó, lĩnh vực nhận được sự quan tâm nhiều nhất không chỉ từ các chủ
doanh nghiệp, người tiêu dùng mà từ cả Chính phủ các nước đó là kinh tế kỹ thuật số.

Trong số đó, nổi bật có KTCS (dựa trên nền tảng cơng nghệ).
Có thể nói, dù đã xuất hiện khá lâu, từ vài thập niên trước, nhưng đến nay, mơ
hình KTCS mới thật sự tạo nên bước đột phá nhờ sự hỗ trợ tích cực của các thành tựu
khoa học cơng nghệ. Có mầm mống từ một hình thái khơng rõ ràng ban đầu là tổ chức
chia sẻ tài nguyên mang tính chất ngang hàng tại Mỹ vào những năm 90s, chủ nghĩa
tiêu dùng cộng tác đã dần chiếm ưu thế, thay cho chủ nghĩa tiêu dùng sở hữu trước đó
trong người dân, nhanh chóng phát triển thành mơ hình KTCS, đặc biệt là với sự hỗ trợ
của nền tảng công nghệ số hiện đại ngày nay. Trong đó, những chủ thể kinh doanh, là
tổ chức, hoạt động trong lĩnh vực này được xem là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
kết nối. Do sự nở rộ nhanh chóng và ngày càng phổ biến của loại hình doanh nghiệp
này tại Việt Nam đặt ra yêu cầu cần làm rõ nội hàm khái niệm liên quan, đáp ứng mục
tiêu xây dựng quy chế đối xử phù hợp với chúng.
Nhìn chung, KTCS có nhiều tên gọi khác nhau như kinh tế hợp tác, tiêu dùng
cộng tác, kinh tế ngang hàng, kinh tế truy cập hay kinh tế tiếp cận qua các ứng dụng di


8

1

động… Theo đó, khái niệm này cũng được lý giải bằng nhiều cách. Theo thông tin
của Ủy ban châu Âu, kinh tế chia sẻ, mà theo họ gọi là “kinh tế hợp tác”, đề cập đến
các mơ hình kinh doanh nơi các hoạt động được tạo điều kiện bởi các nền tảng cộng tác
tạo ra thị trường mở cho việc sử dụng tạm thời hàng hóa hoặc dịch vụ thường được
cung cấp bởi tư nhân, cá nhân, là giao dịch hợp tác kinh tế thường không bao gồm thay
đổi quyền sở hữu và có thể vì lợi nhuận cũng như phi lợi nhuận. Được quy định bao
gồm: (1) Nhà cung cấp dịch vụ chia sẻ tài sản, tài nguyên, thời gian và/hoặc kỹ năng;
(2) Người dùng của các dịch vụ này; 3. Nền tảng cộng tác. Theo Nghị quyết của Nghị
viện châu Âu năm 2015: “nền kinh tế chia sẻ” hoặc “tiêu dùng hợp tác” là một mơ hình
kinh tế xã hội mới đã diễn ra nhờ một cuộc cách mạng công nghệ, với internet kết nối

mọi người thông qua các nền tảng trực tuyến được tiến hành một cách an toàn và minh
bạch.
Theo Báo cáo giới thiệu “Một số vấn đề về kinh tế chia sẻ” của Vụ Kinh tế
Tổng hợp – Ban Kinh tế Trung ương, “kinh tế chia sẻ” là một mơ hình thị trường kết
hợp giữa sở hữu và chia sẻ, trong đó đề cập đến vai trò ngang hàng (peer-to-peer
network) dựa trên sự chia sẻ quyền sử dụng hàng hóa và dịch vụ nhằm gia tăng lợi ích
cho các bên tham gia.
Ngồi ra, cịn rất nhiều khái niệm về mơ hình KTCS do các cơ quan, tổ chức,
các nhà nghiên cứu đưa ra mà trên đây chỉ là một vài ý kiến trong số đó. Tại Việt Nam,
dựa vào đặc điểm của các doanh nghiệp hoạt động theo mơ hình KTCS có thể kết luận
bản chất của mơ hình KTCS như sau: là một hình thức kinh doanh mới của trao đổi
ngang hàng, tận dụng lợi thế của phát triển công nghệ số, giúp tiết kiệm chi phí giao
dịch và tiếp cận một số lượng lớn khách hàng thông qua không gian mạng.
Thực tế ở các quốc gia rất nhiều lĩnh vực kinh doanh của KTCS đã xuất hiện và
đang hoạt động trên thị trường yếu tố (vốn, lao động) và trên thị trường sản phẩm
(hàng hóa và dịch vụ), mang lại lợi nhuận khổng lồ và cho thấy sức ảnh hưởng quan
trọng đến kinh tế tồn cầu. Nổi bật có thể kể đến 5 nhóm ngành nghề: Dịch vụ vận tải;

1Xem thêm: Nguyễn Mạnh Hải, Nguyễn Hồng Anh (2018), “Lợi ích của mơ hình kinh tế chia sẻ và những
thách thức cho nhà quản lý”, Tạp chí Tài chính, số 692, trang 11 – 14.


9

Dịch vụ du lịch và khách sạn; Dịch vụ bán lẻ; Dịch vụ lao động và việc làm; Dịch vụ
tài chính.
Theo các ấn bản từ điển, “doanh nghiệp” nhìn chung được hiểu là “tổ chức hoạt
động kinh doanh của những chủ sở hữu có tư cách pháp nhân, nhằm mục đích kiếm lời
2


ở một hoặc nhiều ngành” hoặc “một cơng ty hoặc nhóm người với mục đích cụ thể,
hoặc một nhóm được vận hành bởi sự chủ động và có định hướng, hợp tác với nhau
3

hoặc không, được tổ chức để tiến hành hoạt động kinh doanh” .
Trong lĩnh vực luật học, doanh nghiệp là một thuật ngữ được quy định tại
Khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13: “Doanh nghiệp là tổ chức có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Khác với một khái niệm thông dụng như “tổ
chức” hay sở hữu nội hàm chặt chẽ như “pháp nhân”, ngoài những văn bản luật chuyên
ngành trực tiếp quy định thì nhìn chung khái niệm “doanh nghiệp” vẫn chỉ xuất hiện
hạn chế trong các văn bản luật có phạm vi phổ quát và bao trùm khác.
Cụ thể trong lĩnh vực pháp luật thuế, rõ ràng thuật ngữ “doanh nghiệp” không
được sử dụng phổ biến như thuật ngữ “tổ chức”. Chẳng hạn trong Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp số 14/2008/QH12 (sửa đổi, bổ sung 2013, 2014) tại Khoản 1 Điều 2 định
nghĩa Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật (sau đây gọi là
doanh nghiệp) gồm doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị sự nghiệp… cho thấy không như tên
gọi, đối tượng nộp thuế theo Luật này bao hàm các tổ chức nói chung. Hay như Luật
Thuế GTGT 2008 (sửa đổi, bổ sung 2016), Nghị định 139/2016/NĐ-CP quy định về lệ
phí mơn bài đều khẳng định người nộp là “tổ chức” sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu.
Việc quy định “tổ chức” thay vì “doanh nghiệp” là phù hợp vì xét về bản chất thuế
đánh vào hành vi cụ thể của người nộp thuế. Qua đó cho thấy, khía cạnh tiếp cận phạm
trù “doanh nghiệp” ngay trong các văn bản pháp luật về thuế chỉ dừng lại ở mức độ là
một trong các chủ thể được liệt kê có nghĩa vụ thực hiện hành vi nộp thuế đó và liên hệ
với khái niệm đã được quy định trong Luật Doanh nghiệp.
2

Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thông tin, năm 1999.


3

Theo The Law Dictionary - Featuring Black's Law Dictionary Free Online Legal Dictionary 2nd Ed


10

Như đã lý giải từ đầu, tới thời điểm giữa năm 2020 vì cơ sở pháp lý cho loại
hình chủ thể này cũng như đối với nền KTCS nói chung tại Việt Nam vẫn đang được
nghiên cứu hoàn thiện, do đó dù thực tế có phát triển như thế nào thì tính hợp pháp
trong hoạt động của chúng vẫn chưa được đảm bảo. Vì vậy, trong phần viết này tác giả
chỉ dừng lại ở việc định danh dựa trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, đối với cơ sở
pháp lý thì sẽ cập nhật theo tiến trình vấn đề được luật hóa.
Về xu hướng KTCS, có thể nói doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối là một
phần không thể thiếu tham gia vào chuỗi hoạt động kinh tế ấy. Thực tế, ở Việt Nam tên
gọi “Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối” chưa là tên gọi chính thức. Bởi lẽ cịn
nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu xoay quanh chủ thể này mà đa phần chỉ tiếp cận ở
một lĩnh vực ngành nghề nhất định, chỉ ra một doanh nghiệp cụ thể để hình dung ra tất
cả chứ chưa khái quát thành một thuật ngữ pháp lý nhất quán để gọi tên loại hình
doanh nghiệp như thế nói chung.
Trong số đó, ý kiến được đa số học giả, nhà nghiên cứu đồng tình đó là xem loại
hình doanh nghiệp này là doanh nghiệp mơi giới, thực hiện hoạt động kết nối chủ thể
được môi giới (nhà sản xuất, người sở hữu…) với người tiêu dùng. Bắt nguồn từ hoạt
động môi giới thương mại trên thị trường theo cách thức mới – được thực hiện thơng
qua phương tiện điện tử dưới hình thức thơng điệp dữ liệu – cịn gọi là hoạt động mơi
giới thương mại điện tử, các doanh nghiệp đóng vai trị kết nối giữa người có nhu cầu
sử dụng và những người có nhu cầu cho sử dụng các tài sản sẵn có của mình (như
4

phương tiện đi lại, nhà, phịng ở, tài sản vơ hình…) . Đồng quan điểm, Ths. Mai

Hương Giang cho rằng chủ thể cung cấp dịch vụ kinh tế chia sẻ đóng vai trị như một
nhà mơi giới giữa người cung cấp dịch vụ truyền thống với người có nhu cầu sử dụng
dịch vụ. Đồng thời khẳng định những chủ thể đó khơng kinh doanh cơng nghệ, chỉ dựa
vào công nghệ để làm dịch vụ môi giới trên cơ sở sáng tạo từ rất nhiều các dịch vụ
5

khác nhau .

4

Nguyễn Ngọc Anh (2017), “Một số vấn đề pháp lý về môi giới thương mại điện tử trong xu hướng “kinh tế chia
sẻ”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 5 (302), trang 39-43.
5
Mai Hương Giang (2015), “Một số mơ hình của nền kinh tế chia sẻ và vấn đề đặt ra đối với nhà quản lý”,
Tạp chí Ngân hàng, số 5, trang 48.


11

Về thực tiễn, nền KTCS là một biểu hiện của việc áp dụng cơng nghệ nhằm giảm sự
lãng phí trong tiêu dùng, hướng tới cộng đồng, thành phố thông minh khi tài nguyên
được dùng một cách hiệu quả. Trong đó, cơ bản có một số mơ hình như:
(1) mạng lưới Product service - cung cấp dịch vụ thay cho sở hữu sản phẩm: sản
phẩm chuyển thành dịch vụ, sở hữu thành cho thuê, bán một lần chuyển thành
cho thuê theo mức sử dụng (Uber, Grab, Gojek…);
(2) chợ tái phân phối nguồn lực: sản phẩm, vật dụng từ nơi nó khơng được cần sang
nơi nó được cần hơn (ebay, Chợ tốt, Craigslist, Dobodi…);
(3) lối sống hợp tác: nền tảng giúp chia sẻ và trao đổi những tài sản như thời gian,
kĩ năng, vốn, kinh nghiệm… (Airbnb, TaskRabbit, Jupviec.com…)
Cụ thể, đối với mơ hình (1), doanh nghiệp đại diện có thể kể đến là Công ty Lift,

Uber tại Mỹ và Grab, Go-Viet (hiện tại đổi thành Gojek) tại Việt Nam: là các công ty
cung cấp các ứng dụng gọi xe kết nối giữa các tài xế với hành khách, tận dụng nguồn
tài nguyên nhàn rỗi là xe chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa hết công suất và người lao
động không kiếm được việc làm trong xã hội. Các giao dịch được thực hiện trên điện
thoại thông minh (smartphone) dưới dạng ứng dụng giúp kết nối người cần di chuyển
và tài xế. Theo đó, người có nhu cầu đi xe đăng ký hành trình trên ứng dụng, hệ thống
của cơng ty sẽ kết nối thơng báo với một chủ xe gần đó và phản hồi cho khách biết về
lộ phí, đặc điểm thông tin tài xế và chiếc xe sắp đến. Ứng dụng cung cấp bản đồ vị trí
của xe để hai bên chủ động trong vấn đề thời gian và di chuyển. Khi sử dụng ứng dụng
khách hàng thanh toán bằng thẻ tín dụng cá nhân hoặc bằng tiền mặt với số tiền thanh
tốn do cơng ty đã tính và thơng báo. Thông thường công ty hưởng 20%, chủ xe hưởng
80% trên cước phí của mỗi chuyến.
Doanh nghiệp điển hình cho mơ hình (2) chính là các cơng ty Ebay, Craigslist ở
Mỹ và Chợ Tốt ở Việt Nam: là những website mua sắm, đấu giá sản phẩm hoặc rao vặt
trực tuyến, kết nối người mua với người bán với nhau bằng những giao dịch cực kì đơn
giản. Nhờ sở hữu nguồn hàng lớn và đa dạng, các website giúp người tham gia có thể
dễ dàng mua bán, trao đổi bất cứ một loại mặt hàng nào, dù đó là đồ cũ hay đồ mới, tiết
kiệm thời gian mà vẫn thỏa mãn mọi nhu cầu của đời sống.
Sau cùng, đối với mô hình (3), có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập ở
những lĩnh vực khác nhau theo mơ hình này, ví dụ như Airbnb, TaskRabbit… Cụ thể,


12

hoạt động như một mạng xã hội, Airbnb là mô hình tận dụng nguồn tài nguyên đang
dư thừa là những căn phịng và nhà ở khơng dùng đến của người bản xứ, chia sẻ cho
người đi du lịch hoặc cho sinh viên thuê. Airbnb tìm kiếm những người sẵn sàng cho
thuê nhà và khách du lịch có nhu cầu để kết nối họ với nhau. Sau khi giao dịch người
thuê và người cho thuê có thể đánh giá lẫn nhau trên ứng dụng.
Là một nền tảng khởi nguồn từ sáng tạo của doanh nghiệp Việt, Jupviec.vn cho

phép người dùng sử dụng các ứng dụng di động của Công ty hoặc các trang web được
Công ty cung cấp như một phần của Dịch vụ (“Ứng dụng”) để kết nối khách hàng có
nhu cầu với một nhà cung cấp cá nhân sẵn sàng thực hiện dịch vụ giúp việc gia đình
theo thỏa thuận. Khách hàng công nhận rằng Khách hàng sử dụng Ứng dụng để tìm
kiếm và kết nối với mỗi đối tác giúp việc để thực hiện công việc từng lần hoặc từng
buổi, và với mỗi lần kết nối Khách hàng có quyền lựa chọn các đối tác giúp việc khác
nhau tại các thời điểm khác nhau tùy theo nhu cầu và quyết định riêng để thực hiện
dịch vụ giúp việc. Do đó, việc cung cấp dịch vụ giúp việc khơng phải là việc làm
thường xun các cơng việc gia đình theo quy định tại Bộ Luật Lao động và Nghị định
hướng dẫn về lao động là người giúp việc gia đình. Cơng ty là một doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ công nghệ và không cung cấp dịch vụ việc làm, khơng có chức năng của
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm.
Xét đến Công ty cung ứng giải pháp Fintech, tính đến năm 2020, Việt Nam có
khoảng hơn 150 cơng ty Fintech đang hoạt động với các loại hình dịch vụ khác nhau

6

như Định danh khách hàng điện tử (e-KYC), giao diện lập trình ứng dụng mở (Open
API), cho vay ngang hàng (P2P Lending), thanh toán liên kết chuỗi khối (Blockchain)
… Tất cả được dự báo sẽ càng phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng dịch vụ.
Trong đó, mơ hình cho vay ngang hàng (Peer-to-peer lending; P2P lending). Điển hình
như các cơng ty LendingClub (Mỹ), Zopa và RateSetter (Anh), Tima, Lendbiz (Việt
Nam)… Là mơ hình mà trong đó những nhà đầu tư tự do thơng qua ứng dụng kết nối
với cá nhân/ doanh nghiệp trong cộng đồng, thực hiện cho vay vốn ở những định mức
khác nhau, không thông qua trung gian là ngân hàng.
6Xem thêm: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá tác động của chính sách v/v xây dựng
Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm sốt hoạt động cơng nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng (dự thảo),
trang 13.



13

Trên đây chỉ là số ít những doanh nghiệp được liệt kê trong số rất nhiều doanh
nghiệp trên thị trường đang hoạt động theo mơ hình KTCS. Họ đã đạt được những
thành tựu hết sức đáng kể tại chính thị trường bản địa cũng như trong phạm vi lĩnh vực
đang hoạt động.
Nói tóm lại, có rất nhiều lĩnh vực có thể khai thác thông qua nền tảng số để trở
thành một phần của mơ hình KTCS, ở đó những ngành nghề truyền thống mang một
diện mạo mới, một phương thức tồn tại mới đáp ứng nhu cầu rẻ, nhanh, tiện lợi cho
người tiêu dùng. Trong đó sự xuất hiện của bên thứ ba trung gian (so với Hợp đồng hai
bên thơng thường) - ứng dụng nền tảng số - có tính chất quyết định. Do vậy, dù tên gọi
khác nhau như thế nào thì kiểu doanh nghiệp, cơng ty nêu trên, về bản chất, chính là
doanh nghiệp cung cấp những ứng dụng số trên điện thoại, máy tính giúp kết nối
những người sở hữu và người sử dụng. Từ đây, trong bài viết này sẽ gọi những chủ thể
đó là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối.
1.1.2.

Khái niệm nghĩa vụ thuế

Như tính chất chung của các loại nghĩa vụ cơng dân đối với Nhà nước, nghĩa vụ
thuế là nhóm nghĩa vụ mang tính hành chính, cưỡng chế. Nguồn gốc cơ sở phát sinh
nghĩa vụ thuế không xuất phát từ thỏa thuận bình đẳng mà là do luật định. Theo pháp
luật thuế, nghĩa vụ của người nộp thuế được ghi nhận dưới hai góc độ:
Một, với tư cách là một công dân, một tổ chức, doanh nghiệp trong quan hệ
ngân sách nhà nước.
Hai, với tư cách là chủ thể thực hiện một hoặc hàng loạt hành vi ở nhiều giai đoạn
7

khác nhau để hướng đến mục tiêu cuối cùng là nộp thuế vào ngân sách nhà nước .


Theo đó, Luật quản lý thuế 2019 được thơng qua ngày 13/6/2019, có hiệu lực
ngày 01/7/2020 tại Điều 17, quy định liệt kê 13 nghĩa vụ của người nộp thuế đối với
Nhà nước. Theo đó, quy định các nghĩa vụ cơ bản người nộp thuế phải tuân thủ nhằm
đảm bảo quyền thu thuế và chức năng quản lý thuế của Nhà nước, có thể kể đến một số
nội dung như đăng ký thuế đúng quy định, khai thuế chính xác, đủ và đúng, nộp tiền
7Trường Đại học Luật TP.HCM (2018), Giáo trình Luật thuế (tái bản có bổ sung), TS. Nguyễn Thị Thủy (chủ
biên), NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, trang 73.


14

thuế, tiền phạt đúng thời hạn, có chế độ kế tốn, thống kê, hóa đơn chứng từ đúng quy
định, ghi nhận và cung cấp thông tin hoạt động phát sinh xác định nghĩa vụ thuế của
doanh nghiệp…và các nghĩa vụ theo các quy định chi tiết khác.
Có thể nói, Điều 17 Luật Quản lý thuế 2019 là quy định tập trung nhất có nội
dung về nghĩa vụ của người nộp thuế. Không như quy định cụ thể trong từng sắc thuế
độc lập, nghĩa vụ thuế của người nộp thuế tại Luật quản lý thuế là những gì chung nhất,
cơ bản nhất, có tính bắt buộc bao qt đối với mọi chủ thể là người nộp thuế.
Với nhiều sửa đổi, bổ sung trong nội dung văn bản luật nói chung và quy định
về trách nhiệm người nộp thuế nói riêng, so với nội dung tương ứng ở Điều 7 Luật
quản lý thuế 2006, có thể nói Luật quản lý thuế 2019 đã có bước tiến bộ đáng kể.
Trong đó đáp ứng thực tế về cập nhật vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong thực
hiện nghĩa vụ thuế, phù hợp với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học – công nghệ
cũng như tạo thuận lợi về nhiều mặt cho người nộp thuế. Đồng thời quy định cũng lưu
ý về “các bên liên kết cư trú tại các quốc gia, vùng lãnh thổ ngoài Việt Nam” cũng phải
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế thông qua người nộp thuế hiện diện tại Việt Nam. Từ
đó, cho thấy sự quan tâm cao độ hơn đến nghĩa vụ tuân thủ các quy định của về thuế
nhà thầu đối với các chủ thể kinh doanh không hiện diện thương mại tại Việt Nam.
Như vậy, đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối, trước khi được
xem là một chủ thể trong nền KTCS được yêu cầu quản lý thuế đặc biệt, đã là một chủ

thể thuộc phạm vi người nộp thuế theo Luật quản lý thuế. Do đó, việc tuân thủ quy
định về nghĩa vụ của người nộp thuế là đương nhiên và bắt buộc, nhằm đảm bảo mục
tiêu quản lý thuế xuyên suốt và ổn định của cơ quan Nhà nước. Cho đến thời điểm hết
năm 2019, theo Quyết định số 999/QĐ-TTg ngày 12/8/2019 về phê duyệt đề án thúc
đẩy mơ hình kinh tế chia sẻ, tại Kế hoạch triển khai thực hiện nhiệm vụ đề án thúc đẩy
mơ hình kinh tế chia sẻ (ban hành kèm theo Quyết định 999/2019), Thủ tướng giao
nhiệm vụ cho Bộ Tài chính xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành luật quản lý thuế,
đề án về cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan quản lý nhà nước với cơ
quan quản lý thuế đáp ứng yêu cầu quản lý thuế đối với hoạt động kinh tế chia sẻ. Đối
với những văn bản nêu trên Bộ Tài chính có trách nhiệm trình Chính phủ và Thủ tướng
vào thời điểm năm 2020 – 2022.


15

Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, việc quy định rõ ràng, minh bạch nghĩa vụ
thuế đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối cũng gặp nhiều khó khăn. Đặc
biệt khi việc định danh hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp chưa rõ ràng, thống nhất,
còn các doanh nghiệp thì đã sớm lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện hành vi trốn
thuế hết sức tinh vi.
Điển hình là vụ việc ngày 20/12/2017, trên cơ sở yêu cầu của Tòa án thành phố
Barcelona, Tây Ban Nha về giải thích bản chất của dịch vụ kết nối vận chuyển hành
khách của Uber, Tịa án Cơng lý châu Âu (ECJ) đã ra phán quyết giải thích đó là dịch
vụ vận tải (hay chính xác hơn là dịch vụ vốn gắn liền với dịch vụ vận tải) thuộc lĩnh
vực vận tải hành khách thông thường của các nước châu Âu, chứ không phải chỉ là một
dịch vụ trung gian kết nối người có xe và người cần đi xe. Có nghĩa từ nay các nước
châu Âu có thể vận dụng luật của nước mình để áp dụng cho Uber như là công ty kinh
doanh tại nước sở tại, đóng thuế cho nước sở tại, khơng được sử dụng các lái xe khơng
có giấy phép vận tải hành khách. Kết luận này có thể xem là một kinh nghiệm tham
8


khảo đối với các quốc gia khác, nơi cho phép Uber hoạt động .
Tại Việt Nam, khi còn hoạt động, Uber - ứng dụng chia sẻ xe nổi tiếng của Mỹ tuy vì đặc trưng quốc gia mà vận hành với một số khác biệt so với khu vực châu Âu,
nhưng quan hệ vận tải (Uber – chủ xe/tài xế - hành khách) và cách thức áp dụng phần
mềm công nghệ là giống nhau. Dịch vụ trung gian Uber phải được xem là một phần
9

khơng thể thiếu của tồn bộ dịch vụ mà phần chính là dịch vụ vận tải . Trong đó, hành
vi kinh doanh dịch vụ cung cấp ứng dụng kết nối của Uber là không thay đổi dù ở thời
điểm, hoàn cảnh nào. Cách thức của Uber là khách hàng kết nối tài khoản ngân hàng của
mình với ứng dụng gọi xe, thanh tốn giá mỗi chuyến đi bằng cách chuyển tiền đến tài
khoản của Uber, khi hoàn tất vận chuyển Uber trả cho tài xế khoản tiền công sau khi đã trừ
chiết khấu. Thông thường tỷ lệ % phân chia thu nhập giữa Uber – Tài xế là 20 – 80. Qua
đây có thể thấy xét về bản chất, chính hành vi kinh doanh, thu phần trăm hoa hồng dẫn đến
phát sinh thu nhập tại Việt Nam là đối tượng chịu thuế. Hệ quả Uber phải

8

Xem thêm: Judgment of the Court, 20/9/2017, Associacion Profesional Elite Taxi – Uber Systems Spain SL.
Dư Ngọc Bích (20418), “Phán quyết của Tịa Cơng lý Châu Âu về dịch vụ Uber: Liên hệ với Việt Nam”, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, số 4, trang 77-84.
9


16

nộp thuế cho NSNN tính trên phần trăm thu nhập theo quy định của pháp luật thuế Việt
Nam.
Trong bản án sơ thẩm số 1910/2018/KDTM-ST ngày 28/12/2018 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngồi hợp

đồng” giữa Cơng ty Cổ phần Ánh Dương Việt Nam (Vinasun) và Công ty TNHH
GRAB, Hội đồng xét xử nhận định căn cứ vào cơ sở pháp lý (ngành nghề đăng ký kinh
doanh tại Giấy chứng nhận ĐKKD) và thực tiễn hoạt động điều hành của “Grab” xác
định hoạt động mà “Grab” đã và đang thực hiện là hoạt động kinh doanh vận tải taxi.
Cụ thể, Grab đã trực tiếp kinh doanh, trực tiếp điều hành xe, chỉ định tài xế đón khách,
quyết định giá bán, điều chỉnh tăng/ giảm giá bán, tổ chức thực hiện các chương trình
khuyến mãi cho khách hàng sử dụng các loại hình của Grab (như GrabCar, GrabTaxi,
GrabShare, GrabFood…), thưởng điểm cho các tài xế chạy nhiều chuyến, xử phạt các
tài xế cho hành vi vi phạm Quy chế do Grab đặt ra.
Về phía khách hàng, khi đặt xe và sử dụng dịch vụ Grab khách hàng sẽ thanh
toán bằng cách chuyển thẳng từ tài khoản của mình vào tài khoản của Grab (nếu thanh
tốn bằng thẻ tín dụng). Việc thanh toán này khẳng định: Khách hàng đã thanh toán
cho dịch vụ vận chuyển chứ khơng phải thanh tốn cho việc thuê phần mềm dịch vụ,
và khoản tiền này tùy thuộc vào quãng đường di chuyển dài hay ngắn của hành khách
chứ không phải là khoản tiền mặc định để chi trả cho việc thuê phần mềm dịch vụ của
Grab. Tương tự, điều này thể hiện ngay ở việc phần tiền mà Grab chiết khấu từ các lái
xe phụ thuộc vào quãng đường chứ không phải số tiền chiết khấu không thay đổi cho
việc kết nối ứng dụng. Ứng dụng kết nối của Grab đã áp dụng mức chiết khấu khác
10

nhau cho những chuyến đi khác nhau, trong cùng một điều kiện .
Qua thực tiễn nêu trên cho thấy, Grab với tư cách là chủ thể cung cấp dịch vụ đã
thực hiện hành vi kinh doanh dịch vụ kết nối vận tải, doanh thu là phần tiền hoa hồng
phân chia với tài xế - chủ thể thực hiện hoạt động vận tải – sau mỗi chuyến đi. Tỷ lệ
phân chia hiện tại giữa đôi bên thể hiện trong hợp đồng hợp tác kinh doanh là 20% cho

10
Bản án số 1910/2018/KDTP-ST của Tòa án nhân dân TP.HCM ngày 28/12/2018 v/v Tranh chấp
bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng giữa Cơng ty CP Ánh Dương Việt Nam và Công ty TNHH GRAB, trang
28.



17

11

Grab và 80% cho tài xế trên tổng tiền mỗi cuốc xe . Như vậy, trong mối quan hệ giữa
Grab và Tài xế xuất hiện hành vi kinh doanh dịch vụ của Grab, sinh ra khoản thu nhập
mà Grab có được, đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật thuế Việt Nam, Grab cũng trở
thành người nộp thuế theo pháp luật về các sắc thuế cụ thể tương ứng.
Tuy nhiên, theo Nghị định 10/2020/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh và
điều kiện kinh doanh vận tài bằng xe ôtô được ban hành ngày 17/01/2020 thay thế
Nghị định 86/2014/NĐ-CP, có hiệu lực từ 01/4/2020 áp dụng đối với tổ chức, cá nhân
kinh doanh hoặc liên quan đến kinh doanh vận tải bằng xe ô tô. Từ 01/4/2020 các hãng
công nghệ cung cấp phần mềm kết nối như GRAB, GOJEK (tên cũ là Go-Viet)… sẽ
được xem là các hãng cung cấp phần mềm, dịch vụ, không phải là doanh nghiệp vận
tải, được định nghĩa tại Khoản 19 Điều 3 Nghị định 10/2020 về phần mềm ứng dụng
hỗ trợ kết nối vận tải. Rõ ràng hơn, tại Điều 35 Nghị định 10/2020 quy định về đơn vị
cung cấp phần mềm ứng dụng hỗ trợ kết nối vận tải đề cập đến 02 trường hợp tương
ứng với 02 khoản của điều luật. Trong đó, tại khoản 1 quy định đơn vị chỉ cung cấp
phần mềm ứng dụng hỗ trợ kết nối vận tải (không trực tiếp điều hành phương tiện, lái
xe; không quyết định giá cước vận tải) và khoản 2 về trường hợp đơn vị cung cấp phần
mềm ứng dụng hỗ trợ kết nối vận tải có thực hiện ít nhất một trong các cơng đoạn
chính của hoạt động vận tải (trực tiếp điều hành phương tiện, lái xe hoặc quyết định giá
cước vận tải) để vận chuyển hành khách, hàng hóa trên đường bộ nhằm mục đích sinh
lợi. Dù tồn tại dưới hình thức nào thì về bản chất hành vi kinh doanh của loại hình
doanh nghiệp này trong tam giác quan hệ (Chủ thể cung cấp dịch vụ - Chủ thể thực
hiện dịch vụ - Chủ thể tiếp nhận dịch vụ) vẫn không thay đổi, trên cơ sở hoạt động
cung cấp dịch vụ cũng như thu nhập có được từ hoạt động đó. Qua đây, thuế đánh vào
hành vi kinh doanh dịch vụ, vào thu nhập doanh nghiệp, dẫn đến chủ thể cung cấp dịch

vụ có thu nhập trở thành người nộp thuế cho Nhà nước nhằm tạo nguồn thu cho ngân
sách cũng là tạo nên sự bình đẳng với các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Như vậy, “nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối” tại Việt
Nam cho đến thời điểm này về cơ bản là tương đồng với các doanh nghiệp kinh doanh
truyền thống khác. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất, phương thức hoạt động của
11
Xem thêm: Điều khoản sử dụng: dành cho Vận tải, Giao nhận và Thương mại, được công b ố bở i Công ty
Grab tại website cập nhật lần cuối 24/8/2020.


18

chủ thể, nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam có
những đặc trưng so với nghĩa vụ thuế áp dụng cho các chủ thể kinh doanh thông
thường. Các đặc trưng này sẽ được lồng ghép trong nội dung về các yếu tố cấu thành
nghĩa vụ thuế của loại hình doanh nghiệp này ở phần sau.
1.2. Các yếu tố nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối
tại Việt Nam
1.2.1. Đăng ký thuế
Đăng ký thuế được hiểu là việc người nộp thuế kê khai những thông tin của
người nộp thuế cho cơ quan quản lý thuế để bắt đầu thực hiện nghĩa vụ về thuế với
12

Nhà nước theo các quy định của pháp luật .
Theo đó, việc đăng ký thuế là nghĩa vụ đầu tiên, bắt buộc và là tiền để để doanh
nghiệp thực hiện các nghĩa vụ về thuế tiếp theo như khai thuế, nộp thuế... Với nghĩa vụ
13

này, doanh nghiệp sẽ được cơ quan quản lý thuế cấp cho mã số thuế . Như vậy, khi
doanh nghiệp muốn thực hiện các hành vi hoặc có các khoản thu nhập làm phát sinh

quan hệ pháp luật thuế, đã thực hiện các nghĩa vụ thuế thông qua mã số thuế, họ sẽ
không bị coi là vi phạm pháp luật quản lý thuế và khơng phải chịu chế tài hành chính
như quy định vì đã tiến hành đăng ký thuế đầy đủ. Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm khấu trừ, nộp thuế thay được cấp mã số thuế nộp thay để thực hiện khai
thuế, nộp thuế thay cho người nộp thuế. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng về
trách nhiệm cho người khấu trừ, nộp thuế thay trong trường hợp có liên kết với DNNN
khơng có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
So với Luật quản lý thuế 2006, Luật quản lý thuế 2019 có điểm bổ sung quy
định trường hợp doanh nghiệp ở nước ngoài khơng có trụ sở tại Việt Nam tại điểm a
Khoản 3 Điều 30 về việc cấp mã số thuế phụ thuộc cho người nộp thuế có chi nhánh,
văn phịng đại diện, đơn vị phụ thuộc.

12

Trường Đại học Luật TP.HCM (2018), Giáo trình Luật thuế (tái bản có bổ sung), TS. Nguyễn Thị Thủy (chủ biên),
NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, trang 446.
13

Khoản 1 Điều 30 Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019.


19

Theo Luật quản lý thuế 2019, thủ tục đăng ký thuế bao gồm: đăng ký thuế lần
đầu; thông báo thay đổi thông tin đăng ký thuế; Thông báo khi tạm ngừng hoạt động,
kinh doanh; chấm dứt hiệu lực mã số thuế; khôi phục mã số thuế.
Tuy nhiên đây là một nghĩa vụ có thời hạn, nghĩa là phải thực hiện đăng ký thuế
trong thời hạn pháp luật cho phép. Nếu vượt quá thời hạn quy định doanh nghiệp sẽ vi
phạm pháp luật về thuế. Cụ thể, thời hạn đó là 10 (mười) ngày làm việc kể từ ngày
doanh nghiệp (i) được cấp giấy chứng nhận hoạt động hoặc giấy phép thành lập, hoạt

động hoặc giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; (ii) phát sinh trách nhiệm khấu trừ thuế và
14

nộp thuế thay .
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối khi thành lập sẽ phải thực hiện đăng ký
thuế lần đầu. Sau khi chuẩn bị hồ sơ gồm có tờ khai đăng ký thuế, bản sao giấy phép
thành lập và hoạt động, quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc
giấy tờ tương đương, người nộp thuế sẽ tiến hành nộp bộ hồ sơ đăng ký thuế cho cơ
quan quản lý.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh đồng thời tự mình thực hiện nghĩa vụ thuế thì
đăng ký thuế tại cơ quan thuế nơi doanh nghiệp đó có trụ sở chính. Đối với người nộp
thuế có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế thay đăng ký thuế tại cơ quan thuế quản lý
trực tiếp người nộp thuế đó.
Doanh nghiệp đăng ký thành lập thì đăng ký thuế cùng thời hạn với đăng ký
thành lập doanh nghiệp. nếu trực tiếp đăng ký tại cơ quan thuế thì trong thời hạn 10
ngày làm việc kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, hoặc phát sinh
trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế thay, người nộp thuế có nghĩa vụ hoàn tất thực hiện
nghĩa vụ đăng ký thuế. Việc cơ quan quản lý tiếp nhận đăng ký thuế cùng đăng ký
doanh nghiệp từ lâu được xem là cải cách hành chính tạo thuận lợi lớn cho doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp có những điều kiện pháp lý ban đầu để nhanh chóng đi vào
hoạt động chính thức. Cũng như quy định thời hạn 10 ngày là hợp lý cho người nộp
thuế thay cho NTNN tìm hiểu, tiến hành đăng ký thuế với cơ quan quản lý trên cơ sở
hợp đồng thỏa thuận giữa đôi bên.
14

Khoản 2 Điều 33, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019.


×