Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tài liệu Đề tài " nghiên cứu vấn đề bản chất, chức năng, hình thức của tín dụng và vai trò của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.85 KB, 19 trang )



…………..o0o…………..


















Đề Tài: nghiên cứu vấn đề bản chất, chức
năng, hình thức của tín dụng và vai trò
của nó đối với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN


1
LỜI MỞ ĐẦU.

Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của


Nhà nước, với sự nỗ lực phấn đấu của các tổ chức, đơn vị kinh tế và
toàn thể nhân dân, sự hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ của các quốc gia, tổ
chức kinh tế quốc tế, nền kinh tế nước ta đã có những khởi sắc, tiến bộ
mới, từng bước phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn. Chúng ta đã và
đang cố gắng nâng cao sức mạnh tốc độ tăng trưởng, hiệu quả của nền
kinh tế để dần dần theo kịp hoà nhập với nền kinh tế khu vực và trên
thế giới. Tuy nhiên, xét từ mục tiêu, đường lối phát triển nền kinh tế
nước ta (theo quan điểm của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX) từ thực tiễn sự phát triển mạnh mẽ và rất năng động của nền
kinh tế thế giới trong đó nhất là khu vực Châu á - Thái bình dương,
gần nhất là khu vực Đông Nam Châu á, chúng ta nhận thấy rằng so với
mục tiêu đặt ra và thực trạng nền kinh tế khu vực cũng như thế giới,
nền kinh tế nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải
có sự phấn đấu vượt bậc, bảo đảm phát triển vững chắc tuần tự và kết
hợp có những bước đột phá, nhảy vọt, "đi tắt đón đầu"... mới có thể
đạt được kết quả như mong muốn. Quá trình đó cần quán triệt theo
mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 mà
mục tiêu tổng quát là "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học
và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng, an ninh
được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được
hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng
cao" (Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

2
lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, trang 89 - 90). Để
đạt được mục tiêu ấy, từ xuất phát điểm nền kinh tế nước ta hiện nay,
trong bối cảnh chung xu hướng vận động của nền kinh tế khu vực và

thế giới đòi hỏi chúng ta phải tìm ra và ứng dụng nhiều giải pháp đồng
bộ và có tính hệ thống và khả thi, nhiều "đòn bẩy kinh tế" với những
biện pháp cụ thể hữu hiệu, thiết thực hơn. Trong đó, hiện nay một
trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là phải tăng cường nguồn
vốn nhằm chuyển giao, áp dụng công nghệ tiên tiến, mở rộng quy mô
sản xuất phát huy nội lực, phát triển kinh tế đất nước, nâng cao năng
lực xuất khẩu, cạnh tranh, hợp tác, tích cực tham gia hoà nhập, thích
ứng quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới... Để tăng cường nguồn
vốn đầu tư cho nền sản xuất có nhiều biện pháp khác nhau, đa dạng và
phong phú, trong đó một biện pháp rất quan trọng là nâng cao khả
năng của hoạt động tín dụng. Về mặt lý luận kinh tế cũng như thực
tiễn phát triển nền kinh tế nước ta và thế giới từ trước đến nay, đặc
biệt trong tình hình kinh tế thế giới, khu vực, nước ta những năm gần
đây cho thấy tín dụng ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển nền kinh tế nói chung nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN nói riêng. Bởi vậy việc tìm hiểu,
nghiên cứu vấn đề bản chất, chức năng, hình thức của tín dụng và vai
trò của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là việc làm cần thiết, bổ ích trước hết là với những người học
tập về khoa học kinh tế, những nhà quản lý, hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế.

3
I. BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG.
1.1. Tín dụng hình thành, phát triển là một tất yếu khách
quan.
Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội loài người cũng
phát triển theo các hình thái kinh tế khác nhau. Ở mỗi giai đoạn, thời
đại kinh tế đó do đặc điểm về năng lực của nền kinh tế nên ở xã hội
cộng sản nguyên thủy do lực lượng sản xuất kém phát triển, xã hội

không có của dư, sản phẩm do con người làm ra chưa đủ tích lũy, quan
hệ sản xuất dựa trên cơ sở cộng đồng mọi sản phẩm đều là của chung,
con người hoàn toàn dựa vào nhau, chung sống, tư hữu chưa ra đời...
Do đó chưa xuất hiện quan hệ mua bán, trao đổi.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất sau đó đã tạo điều kiện tăng
năng suất lao động, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, con người
không chỉ đủ tiêu dùng mà dần dần còn có tích lũy, dự trữ xuất hiện
của dư. Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, của
công cụ lao động chế độ tư hữu dần dần xuất hiện, sự phân hoá giữa
người giàu người nghèo và các tầng lớp, giai cấp, các giai cấp cũng
theo đó phát triển ngày càng rõ rệt. Quan hệ trao đổi, mua bán, vay
mượn cũng từng bước xuất hiện với nhiều hình thức đa dạng phong
phú. Tuy nhiên quan hệ vay mượn thời kỳ đầu chỉ là hình thức sơ
khai, phôi thai của tín dụng sau này.
Khi sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định nhu cầu mua
bán, trao đổi, vay mượn tăng lên, xuất hiện tiền tệ (một loại hàng hoá
đặc biệt vật trung gian trong trao đổi mua bán, một loại của cải để tích
trữ...), xã hội dần dần xuất hiện quan hệ tín dụng. Sự tồn tại và phát
triển quan hệ tín dụng do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:

4
- Một là trong quá trình sản xuất kinh doanh do sự vận động của
vốn tiền tệ dẫn đến nảy sinh hiện tượng trong cùng một thời gian có
những đơn vị kinh tế thừa vốn để sản xuất kinh doanh, chưa có nhu
cầu sử dụng. Ngược lại có những đơn vị thiếu vốn, có nhu cầu vay
mượn tăng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Tình trạng đó nảy sinh
mâu thuẫn đỏi hỏi có cách thức giải quyết mở đường cho sản xuất phát
triển. Do vậy cần có sự tập trung vốn, phân phối lại các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi theo nguyên tắc vay mượn hoàn trả cả gốc và lãi
trong một thời gian nhất định, bảo đảm quá trình tái sản xuất, tuần

hoàn, xoay vòng của nguồn vốn được diễn ra liên tục nâng cao khả
năng sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được nguồn vốn ...
- Hai là: Trong đời sống sinh hoạt, vận động của toàn xã hội có
tình trạng có những cơ quan, đơn vị, tổ chức tập thể và trong nhân dân
(cá nhân, hộ gia đình ...) thường xuyên có lượng tiền nhàn rỗi chưa
cần sử dụng ngay. Đây cũng là một điều kiện, cơ sở tiềm tàng dẫn đến
nảy sinh quan hệ tín dụng bởi lẽ không có những lượng tiền nhàn rỗi
đó thì không có cơ sở để thực hiện quan hệ tín dụng.
- Ba là do chế độ sở hữu về vốn trong nền sản xuất hàng hoá
nhiều thành phần nền kinh tế thị trường, do tồn tại nhiều thành phần
kinh tế - nhiều hình thức sở hữu khác nhau về vốn songl ại đòi hỏi có
sự chuyển hoá trong nội bộ của các hình thức sở hữu và giữa các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế. Tuy nhiên để việc chuyển vốn
giữa các hình thức sở hữu các thành phần kinh tế và không làm ảnh
hưởng, không xâm phạm đến quyền lợi của nhau giữa các chủ sở hữu
cần phải thông qua quan hệ tín dụng có vay có trả theo thoả thuận nhất
định mà bên cho vay khi nhận lại số tiền cho vay ngoài phần gốc còn
được thêm một số tiền lãi theo tỷ lệ quy định. Nhờ đó mà quyền lợi
của các chủ sở hữu khác nhau khi tham gia quan hệ tín dụng được đảm

5
bảo một cách chặt chẽ, theo một quy tắc thống nhất, với sự bảo đảm
có tính pháp lý, pháp luật.
- Bốn là do yêu cầu của quá trình hạch toán kinh tế trong sản
xuất, kinh doanh rất chặt chẽ, cụ thể chi tiết nên các đơn vị, tổ chức
kinh tế, các doanh nghiệp phải luôn chủ động, thận trọng trong tính
toán huy động, chuẩn bị tạo nguồn vốn nắm chắc nguồn vốn cũng như
sử dụng vốn kể cả vốn cố định và lưu động. Tính toán cân nhắc, xác
định đúng về nhu cầu vốn của mình trong sản xuất kinh doanh đảm
bảo lấy thu bù chi và có lãi. Chính việc đi vay và cho vay thông qua

quan hệ tín dụng các đơn vị tổ chức kinh tế... giải quyết được vấn đề
nhu cầu về vốn, sử dụng vốn.
Từ những vấn đề trình bày ở trên có thể đi đến khẳng định rằng
sự hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng hoạt động tín dụng
trong quá trình phát triển của sản xuất của nền kinh tế là một tất yếu
khách quan, là vấn đề có tính quy luật.
1.2. Bản chất, đặc điểm của tín dụng trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
* Bản chất của tín dụng.
Từ sự phân tích quá trình hình thành, phát triển của tín dụng, qua
nghiên cứu chúng ta có thể thấy rằng tín dụng là một phạm trù của
kinh tế hàng hoá, là hình thức vận động của vốn cho vay. Tín dụng
phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ
hạn cả vốn gốc lẫn lợi tức.

6
Bản chất tín dụng biểu hiện ở quá trình vận động của tín dụng
trong nền kinh tế thị trường thể hiện thông qua các giai đoạn sau:
Ở giai đoạn cho vay: vốn tiền tệ được chuyển từ người cho vay
sang người đi vay. Khi đó giá trị vốn tín dụng được chuyển sang
người đi vay.
Ở giai đoạn sử dụng vốn tín dụng trong quá trình sản xuất, người
đi vay được quyền sử dụng giá trị của vốn tín dụng vốn vay được sử
dụng trực tiếp để mua hàng hoá (nếu vay bằng tiền) hoặc được sử
dụng trực tiếp (nếu vay bằng hàng hoá) để thoả mãn nhu cầu sản xuất
kinh doanh hoặc tiêu dùng của người đi vay. Song người đi vay không
có quyền sở hữu giá trị của vốn vay mà chỉ được sử dụng tạm thời
trong một thời gian nhất định theo thoả thuận giữa người cho vay và
người đi vay.

Ở giai đoạn: hoàn trả tín dụng - kết thúc một vòng tuần hoàn của
tín dụng. Vốn tín dụng sau khi đưa vào sản xuất trở về hình thái tiền
tệ - vốn, được người đi vay trả lại cho người vay gồm phân gốc và lãi
(lợi tức). Như vậy vốn đưa vào hoạt động tín dụng đã sinh lợi cho
người sở hữu nó. Quá trình này về thực chất theo C. Mác khi phân tích
nền kinh tế TBCN đã chỉ rõ: "Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở
hữu trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người
sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải bỏ ra
để thanh toán hay không phải tự ta bán đi để cho vay. Tiền chỉ đem
nhượng lại với một điều kiện là nó sẽ quay về điểm xuất phát sau một
kỳ hạn nhất định" (C.Mác tư bản quyền III, tập II, NXB Sự thật, Hà
Nội, 1978). Rõ ràng rằng ở đây sự hoàn trả tín dụng là sự quay trở về
của giá trị. Đó là sự vận động của một lượng giá trị. Sự hoàn trả theo
đúng nghĩa của nó luôn được bảo toàn về mặt giá trị và cộng với phần

×