Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về con người và ý nghĩa của nó trong sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.23 KB, 26 trang )

1

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, cả cuộc đời và
sự nghiệp cách mạng của Người là tấm gương mẫu mực về sự nghiệp giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội cho các thế hệ con người Việt
Nam nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng ln được kế thừa và
phát huy trong mọi hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Hệ thống tư tưởng của Người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
được hình thành và kiểm nghiệm của lịch sử đã minh chứng một cách sinh
động Người là nhà hoạt động thực tiễn, nhà lý luận tiên phong về giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có được hệ thống tư tưởng, cùng
những giá trị thực tiễn ấy là q trình bơn ba hơn ba mươi năm ra đi qua các
châu lục nhằm tìm con đường cứu dân, cứu nước.
Hơn một thế kỷ đã trôi qua nhưng những giá trị lý luận và thực tiễn về
con người trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ
nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng
Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng
con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu
và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của
Người cho đến nay vẫn cịn ngun giá trị của nó.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có một q trình phát triển từ thấp
đến cao, từng bước sâu sắc và hoàn thiện thêm, từ phạm vi dân tộc vươn tới
tầm nhân loại, hướng tới việc giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc
cho mọi người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô
cùng phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của
mỗi con người. Tất cả đều toát lên tình u vơ hạn, sự tơn trọng, thái độ bao
dung và niềm tin tuyệt đối vào con người. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta: ngay khi cuộc kháng chiến chống


Mỹ cứu nước thắng lợi thì “Đầu tiên là cơng việc đối với con người”, tức là
phải có chính sách xã hội đối với con người. Đó là những việc mà Đảng, Nhà
nước ta đã và đang thực hiện trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
1


2

Từ những vấn đề trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và ý nghĩa của nó trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận môn học là rất cần thiết.
Do trình độ và thời gian có hạn, bài viết khó tránh khỏi thiếu sót và hạn
chế. Vậy kính mong nhận được ý kiến nhận xét và đóng góp của q thầy cơ,
để bài viết của bản thân đạt kết quả cao hơn. Xin chân thành cảm ơn!

2


3

CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1.1 Khái niệm chung của Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Nếu hiểu nhân văn theo nghĩa rộng là văn hóa của lồi người, thì trong
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, tư tưởng về con người là một nội dung lớn, cơ
bản, phong phú và toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hình thành
sớm, liên tục phát triển với tất cả sự trong sáng cao cả và sâu sắc. Tư tưởng đó
xuất phát từ những cội nguồn quốc gia và quốc tế, từ mơi trường văn hóa gia
đình, q hương, dân tộc; tốt ra từ tồn bộ thực tiễn hoạt động cách mạng của
Người, thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Người

cũng lục tìm trong kho tàng triết học phương Đơng sách báo phương Tây như
tư tưởng và con người trên cơ sở mẫu sẽ chung là sự mưu cầu hạnh phúc cho
con người. con người Việt Nam và con người nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin
ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi
dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và
của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển
trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như
xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại với tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống
cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người:
"Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là
đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả lồi người". Quan điểm đó thể hiện ở chỗ
Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng.
Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn
3


4

cảnh, Người ln quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách
nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vơ
cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi
cá nhân khơng được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể

phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân,
Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên
lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống
riêng của bản thân và của gia đình mình". Trong quan điểm về thực hiện một
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân
chính, khơng hình thức, khơng cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải
được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp
luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn
tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người
trên toàn thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng tồn tại như một phạm
trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến
một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo
khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc
Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những
"người nơ lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lơgíc phát triển tư tưởng của
Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lơgíc phát triển tư tưởng ấy, khái
niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vơ sản
cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về
lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc
biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách
mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và tồn thể nhân loại khỏi mọi sự nơ dịch, áp bức. Tồn bộ các tư
tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn
về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách
mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo

4



5

dục con người v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng
về con người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục
tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của
chính sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý
luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Tấm lòng Hồ Chí Minh ln hướng về con người. Người u thương
con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là
người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh,
"lịng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại" là "không bao giờ thay
đổi". Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin
mãnh liệt và vơ tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người
bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bơn ba
tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư
của những người dân lao động trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng
định: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì
đang sơi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ
đến"1. Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong
những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác
căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của
các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ
Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu
trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng
lực lượng đồn kết tồn dân", thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có
những tư tưởng tích cực "lấy dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan
thư sức dân", nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa

vào dân cũng như một "kế sách", một phương tiện để thực hiện mục đích "trị
nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh,
tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một
quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức
mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con
5


6

người của Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần
chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử".
Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của
"cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương
con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản
thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong
khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh ln tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý
trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng
về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua
thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố
quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy
vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trị của bản thân mình (với tư
cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân
dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là

"đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp
phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và
khác về chất so với tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước
phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm
nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng
sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới, con người
phát triển toàn diện
1.2.1. Về xây dựng con người mới
Con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là con người xã hội chủ
nghĩa, con người phát triển toàn diện để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người mới xã hội chủ nghĩa là để
6


7

phân biệt con người sống trong xã hội cũ, con người chưa được giác ngộ cách
mạng, chưa được trang bị lý luận cách mạng đúng đắn theo lập trường của
giai cấp công nhân. Con người mới xã hội chủ nghĩa khơng phải tự nhiên mà
có, nó được gắn với sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, gắn với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln xem xét con người trong mối quan hệ với
xã hội. Người đưa ra một định nghĩa về con người rất mộc mạc mà độc đáo:
“Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là
đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả lồi người”. Với nghĩa đó, khái niệm
con người đã mang trong nó bản chất xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội.
Khi bàn về con người, trong tư tưởng của Người khơng có con người trừu
tượng mà chỉ có con người cụ thể, đó là mỗi một con người đều có cuộc sống,

mối quan hệ riêng của họ. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, khái niệm con
người được nhắc tới như một mục tiêu thiêng liêng, cao cả của cách mạng. Tư
tưởng về con người, giải phóng con người và con người phát triển tồn diện là
nhân tố quyết định thành cơng của cách mạng được Người vận dụng và phát
triển trong suốt cả cuộc đời lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Khi nói về mục
tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh
tới việc chăm lo con người, sao cho người lao động có cơng ăn việc làm, sao
cho ai cũng được ấm no hạnh phúc. Người nói: “Nói một cách tóm tắt, mộc
mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thốt nạn
bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một
cuộc đời hạnh phúc”. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người ln
khẳng định: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Sau khi đến được với chân lý cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“ Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no
trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình
hạnh phúc”.
7


8

Cũng từ đó, Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc ở Việt
Nam. Đó là con đường cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng xã hội, giải phóng con người để
đảm bảo cho con người cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng xã hội.
Quan điểm về con người mới xã hội chủ nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln gắn với quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Người vận dụng

quan điểm mác xít về con người để xây dựng con người mới, những con
người mang thế giới quan và nhân sinh quan của chủ nghĩa Mác – Lênin, con
người thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh. Theo Người, để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa phải chú ý
cả hai phương diện. Một mặt, là sự phấn đấu vươn lên không ngừng của mỗi
người theo hướng tự giác đấu tranh với những mặt lạc hậu, mặt xấu vốn tồn
tại như mặt bản năng tự nhiên của con người, đồng thời học tập, tu dưỡng đạo
đức cách mạng được xem như tinh hoa văn hóa của nhân loại. Mặt khác, đó là
sự tham gia tích cực của con người vào việc cải tạo xã hội theo hướng xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đối với nước ta là thực hiện cách mạng giải phóng dân
tộc, kết hợp với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là hai mặt ln gắn kết với
nhau và “muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ
nghĩa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ khẳng định một điều kiện có tính
quyết định đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta mà còn chỉ rõ vị trí, vai trị
quan trọng của con người mới xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2 .2. Về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Bước vào thế kỉ mới, với những biến đổi lớn lao, đặt ra nhiều thách
thức mà con người phải đối mặt như: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đang phát triển; vấn đề môi trường; dân số; vấn đề dân chủ, nhân quyền, nhân
sinh, an sinh xã hội; vấn đề dân tộc, tôn giáo, khủng bố và các tệ nạn xã hội
mới phát sinh. Điều đó khiến con người dứng trước những mâu thuẫn to lớn
và hết sức gay gắt, buộc con người phải tự hoàn thiện bản thân để theo kịp xu
thế mới của thời đại. Để làm được như vậy con người phải phát triển một cách
toàn diện.

8


9


Nói tới con người Việt Nam phát triển tồn diện là nhằm tới mục tiêu
xây dựng xã hội mới, thực hiện công bằng xã hội, dân chủ trong quản lý đất
nước, đó là bản chất của chế độ xã hội mới mà chúng ta đang hướng tới.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện trong tư tưởng Hồ
Chí Minh phải thực hiện từng bước, từng nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất. chiến lược con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ chỗ ý thức được vị trí, vai trò quyết định của con người đến sự
nghiệp cách mạng ở nước ta, Người đã có tư duy rất sớm về chiến lược con
người. Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc năm
1958, Người nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người”. Trồng người theo tư tưởng Hồ Chí Minh là bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau, chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh
niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng”, vừa “chun”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ quan tâm sâu sắc tới
thế hệ cùng thời với mình, mà người cịn quan tâm tới thế hệ tiếp sau. Người
chú ý tới công tác thanh, thiếu niên và nhi đồng với một thái độ yêu thương,
độ lượng, nghiêm túc và thận trọng. Người căn dặn phải uốn cây từ lúc cây
non, đừng để tâm hồn các cháu bị vẩn đục vì chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã sớm thấy những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân phát sinh từ lớp
người cịn trẻ, đó là nguyên nhân xuất hiện những thanh, thiếu niên hư hỏng.
Cho đến lúc sắp từ giã cõi đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khơng qn việc
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (Người viết bài báo Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân đăng trên báo Nhân dân ngày
3/2/1969, trước lúc Người qua đời vừa tròn bảy tháng). Điều đó cho thấy
Người coi vấn đề đạo đức cách mạng và việc chống chủ nghĩa cá nhân có tầm
rất quan trọng trong việc “trồng người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nâng niu,
trân trọng những tài năng, tạo điều kiện để phát triển, vì đây là những hạt
giống đỏ của đất nước.
Thứ hai, vai trò của giáo dục, đào tạo trong việc xây dựng con người

Việt Nam phát triển tồn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức trong chiến lược con người thì cơng
tác giáo dục, đào tạo con người mới là quan trọng hơn bao giờ hết. Ngay từ
9


10

lúc mới từ nước ngoài trở về, Người đã nghĩ đến đào tạo người cách mạng
bằng nhiều hình thức khác nhau như gửi đi đào tạo ở trường Phương Đông
(Liên Xô), tổ chức huấn luyện trực tiếp, viết sách làm tài liệu cho việc truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhờ chăm lo tới việc giáo dục, bồi dưỡng và đào
tạo những con người có ý thức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây
dựng được nhiều thế hệ cán bộ cách mạng thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước
trên một tầm cao mới. Đó là những chiến sĩ cách mạng có thế giới quan và
nhân sinh quan mới, sau này Người gọi đó là những con người mới xã hội chủ
nghĩa, họ là những đảng viên đảng cộng sản, những đoàn viên thanh niên lao
động, những chiến sĩ trong quân đội và công an nhân dân, những công nhân,
nông dân trong sản xuất và chiến đấu. Người đặc biệt chú trọng tới công tác
đào tạo cán bộ, đảng viên, gắn việc giáo dục lí luận với thực tiễn, lấy kết quả
trong hoạt động thực tiễn làm thước đo tác dụng của giáo dục, đào tạo. Những
bài học quý giá về công tác giáo dục, đào tạo con người mới đã được Người
cô đọng trong hai tác phẩm nổi tiếng là Đường Kách mệnh và Sửa đổi lối làm
việc với việc trình bày cặn kẽ từ kinh nghiệm cơng tác đến tư cách người cán
bộ, đảng viên; từ các vấn đề lý luận đến các bài học trong thực tiễn công tác
và chiến đấu.
Thứ ba, phương pháp xây dựng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm, chú ý tới phương pháp nêu
gương, thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa lý luận với thực tiễn. Gương
mẫu trong việc làm, trong cuộc sống, mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu

trước quần chúng, nêu gương tốt để quần chúng noi theo. Người chủ trương
viết sách về người tốt, việc tốt nhằm nêu gương những chiến công nổi bật,
vang dội, những cơng việc ích nước lợi dân, từ đó lôi cuốn đông đảo nhân dân
kể cả các cụ già, cháu nhỏ thi đua làm việc tốt. Đó cũng là cách khơi dậy các
tiềm năng tốt đẹp như tinh thần yêu nước, đạo đức trong sáng, thuần phong
mỹ tục sẵn có ở người Việt Nam. Đây là những chất liệu để xây dựng con
người mới phát triển toàn diện.
Cùng với phương pháp nêu gương người tốt, việc tốt, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cịn có cách nhìn người vừa bao dung, vừa sâu sắc để ln khai thác
những mặt tốt, tìm cách khơi dậy các mặt tốt. Người nói: “Mỗi con người đều
10


11

có cái thiện và cái ác ở trong lịng. Ta phải biết làm cho mặt tốt của con người
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của con
người cách mạng”.
Để thấy được sự quan trọng của con người trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh, vào Tháng 3 năm 1947, do nhu cầu “kháng chiến, kiến quốc”, Bác kêu
gọi thi đua xây dựng “đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích rất
rõ, dễ hiểu. Tháng 6 năm 1949, để tiếp tục răn dạy cán bộ về đạo đức, Bác
viết tác phẩm: “Cần, kiệm, liêm, chính”. Bác coi bốn đức tính “cần, kiệm,
liêm, chính” là những đức tính của người cán bộ cách mạng, như trời có bốn
mùa, đất có bốn phương. Bác viết:
“Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa thì khơng thành trời.
Thiếu một phương thì khơng thành đất.

Thiếu một đức thì khơng thành người”.
Sau đó, Bác cịn viết bốn bài báo đăng trên Báo Cứu quốc giải thích rõ
nội dung bốn đức tính này.
Cần: Tức là lao động cần cù, siêng năng, thậm chí cố gắng, dẻo dai;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, khơng lười biếng. Cần cịn là làm việc
một cách thơng minh, sáng tạo, có kế hoạch, khoa học. Theo Bác, con người
có đức cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được. Đúng như câu
tục ngữ kiến tha lâu cũng đầy tổ, nước chảy mãi đá cũng mòn. Bác lưu ý, kẻ
địch của chữ cần là lười biếng. Bác cho rằng nếu có một người, một địa
phương hoặc một ngành mà lười biếng thì khác nào tồn chuyến xe đang
chạy, mà có một bánh trật ra ngoài đường ray. Họ sẽ làm chậm trễ cả một
chuyến xe. Vì vậy, người lười biếng có tội với đồng bào, với Tổ quốc.
Kiệm: Là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của
dân, của nước, của bản thân; phải tiết kiệm từ cái lớn đến cái nhỏ, khơng phơ
trương hình thức, khơng xa xỉ, hoang phí. Cần và kiệm phải đi đơi với nhau
như hai chân của con người. Cần mà không kiệm thì như gió vào nhà trống.
như nước đổ vào cái thùng không đáy, làm chừng nào xào chừng ấy, rốt cuộc
11


12

khơng lại hồn khơng. Kiệm mà khơng cần thì khơng tăng thêm và khơng
phát triển được. Bác giải thích, tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không
đáng tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng khơng nên tiêu, nhưng khi có
việc cần làm lợi cho dân, cho nước thì hao bao nhiêu của, tốn bao nhiêu cơng
cũng vui lòng, như thế mới là kiệm.
Liêm: Là trong sạch, là ln ln tơn trọng, giữ gìn của cơng, của
dân, không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Khơng
ham người tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến

bộ. Vì vậy mà quang minh chính đại, khơng bao giờ hủ đóa. Bác đã nhắc lại
một số ý kiến của các bậc hiền triết ngày trước: Khổng Tử nói: “Người mà
khơng liêm thì khơng bằng súc vật”; Mạnh Tử cho rằng: “Ai cũng tham lợi thì
nước sẽ nguy”. Do vậy, Bác yêu cầu mỗi người, nhất là cán bộ lãnh đạo phải
thực hiện tốt chữ liêm, Chữ liêm và chữ kiệm phải đi đôi với nhau như chữ
kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có kiệm thì mới có liêm được, bởi xa xỉ ắt sinh
tham lam, không giữ được liêm. Bác cũng chỉ rõ ngược lại với chữ liêm là
tham ô, là ăn cắp của công làm của tư, đục khoét nhân dân, tiêu ít mà khai
nhiều, lợi dụng của chung của nhà nước làm quỹ riêng cho địa phương mình.
Tham ơ là trộm cướp, là kẻ thù của nhân dân. Muốn liêm thật sự thì phải
chống tham ơ.
Chính: Là khơng tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì là khơng
đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Nói về chính, Bác viết: “Một người phải cần,
kiệm, liêm nhưng cịn phải chính mới là người hồn hảo. Trên quả đất có hàng
mn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai hạng: Người thiện
và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm cơng, nghìn việc, song, những cơng
việc ấy có thể chia làm hai thứ: Việc chính và việc tà. Làm việc chính là
người thiện. Làm việc tà là người tà.
Cần, kiệm, liêm, là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại
cần có ngành, lá, hoa, quả, mới là hoàn hảo. Một người cần phải cần, kiệm,
liêm nhưng cịn phải chính mới là người hồn hảo.
Chí cơng vơ tư, là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham
địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý; “phải lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ (tiên thiên hạ ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Thực hành
12


13

chí cơng vơ tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo đức cách mạng, quét

sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi
người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, cịn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.
Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn hơn, khơng nhất định hôm nay vẫn được mọi
người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”. Người cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân.
Những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa, con người phát triển tồn diện cịn ngun giá trị
cho đến ngày nay, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa. Vấn đề xây dựng con người phát triển toàn diện đang
được đặt ra một cách cấp thiết, khi nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

13


14

CHƯƠNG 2
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
2.1. Sự vận dụng của Đảng ta về vấn đề xây dựng con người phát
triển toàn diện trong giai đoạn hiện nay
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt q trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln coi con người là vốn quý nhất, là mục
tiêu, là động lực của cuộc cách mạng. Quan điểm này được thể hiện thông qua
các kỳ đại hội, đặc biệt tại Đại hội XII, Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều
quan điểm mới về xây dựng, phát triển con người. Những quan điểm này
được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp, định hướng cụ thể trong hoạt
động thực tiễn và phát triển kinh tế - xã hội.

2.1.1. Thực trạng và một số vấn đề xây dựng con người Việt Nam
2.1.1.1. Thuận lợi
Sau 30 năm đổi mới, sự nghiệp “trồng người” ở Việt Nam đã có nhiều
chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết quả. Nhà nước đã quan tâm thực hiện các
chính sách xã hội để nâng cao đời sống cho người dân, thể hiện sâu sắc tính
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống an sinh xã hội nói chung, hệ
thống bảo hiểm nói riêng ở Việt Nam thay đổi theo hướng mở rộng đối tượng,
loại hình như bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, bảo hiểm
tự nguyện); Nhà nước thực hiện chính sách cấp bảo hiểm y tế hỗ trợ chăm sóc
sức khỏe miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, hỗ trợ một số đối tượng chính sách,
người nghèo. Các chính sách trợ giúp xã hội được mở rộng về quy mô và đối
tượng, với mức trợ giúp ngày càng tăng…
Việc thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo những năm qua của Viêt
Nam được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng cho các vùng nghèo, nâng cấp, làm mới, cải tạo các tuyến giao thông,
tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế; đồng thời tiếp tục quan tâm tạo
nguồn lực để dân cư đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề tăng thu nhập.
Tại Đại hội XII, Đảng ta xác định một trong những mục tiêu quan trọng là:
“Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành mục tiêu
của của chiến lược phát triển”.
14


15

Đất nước đang tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong một
xu thế tồn cầu hóa. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế
(WTO); được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
Hợp quốc (nhiệm kỳ 2 năm 2008 - 2009, làm Chủ tịch 1 năm); năm 2010 Việt
Nam làm Chủ tịch luân phiên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN);

gia nhập Hiệp định CPTPP. Việt Nam còn gia nhập nhiều tổ chức quốc tế
khác nữa. Chắc chắn rằng, với việc tham gia ngày càng nhiều và ngày càng
tích cực vào các tổ chức quốc tế, thì Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển,
thu hẹp dần khoảng cách tụt hậu về phát triển kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới.
Việt Nam đang tiếp tục ổn định về nhiều mặt. Đây là một trong những
điều kiện tiên quyết, tạo ra môi trường bên trong và bên ngoài để đất nước
phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn, bởi vì khơng ít nước trong khu vực và
trên thế giới khơng dễ gì có được điều kiện này.
Hơn bao giờ hết, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến nhằm
đưa đất nước tiến nhanh và bền vững. Việt Nam đã thấu chịu thử thách bị
nước ngồi đơ hộ hàng nghìn, hàng chục năm, nay nỗi nhục nghèo nàn và lạc
hậu đang chích vào tâm trí của con người Việt Nam nói chung, cứa vào lòng
tự trọng của người Việt Nam. Chưa bao giờ ý chí vươn lên thốt khỏi tình
trạng kém phát triển lại mạnh như bây giờ trong con người Việt Nam.
Trong tình hình quốc tế nói chung và tình hình Việt Nam nói riêng đang
ở vào trạng thái vừa hợp tác vừa đấu tranh bởi xu thế ngày càng mạnh của
toàn cầu hóa, bên cạnh những khó khăn, thì cũng có những thuận lợi cho sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đó là xu thế hịa bình, hợp tác và
phát triển; là sự phát triển nhanh hơn rất nhiều của khoa học và công nghệ so
với tất cả các thời kỳ cách mạng kỹ thuật trước đây (thường được gọi là thời
kỳ cách mạng công nghiệp 4.0), mà Việt Nam là nước đi sau có thể có lợi thế
rút ngắn các bước phát triển.
2.1.1.2. Khó khăn
Bên cạnh những mặt thuận lợi, riêng tồn cầu hóa đặt ra cho các nước
trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển những thách thức và nguy
cơ hết sức to lớn: vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên,
15



16

vấn đề dân số và sức khỏe cộng đồng, sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội
và tội phạm mang tính quốc tế, đặc biệt nguy hiểm là tội phạm có tổ chức. Về
mặt chính trị, đó là những thách thức nghiêm trọng đối với chủ quyền quốc
gia. Điều này ảnh hưởng tới cả phẩm chất và năng lực của con người. Điều đó
được lý giải bằng sự tác động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về
kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về chính trị. Từ đó đặt ra thách thức
khắc nghiệt là hội nhập nhưng khơng hịa tan. Với lơgíc đó, người ta nói đến
sự suy yếu của mơ hình quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện
nay, người ta thường nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc
hơn là đề cập đến sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, khơng
thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên
ngồi trong bối cảnh tồn cầu hóa. Vấn đề là ở chỗ, đứng như thế nào, thế
đứng ra sao để hội nhập tồn cầu hóa, trong đó quốc gia - dân tộc tham gia rất
tích cực, rất sâu, rất rộng nhưng “anh vẫn là anh”, đó quả thực là vấn đề của
cốt cách là bản sắc văn hóa quốc gia - dân tộc.
Thế giới đang và sẽ trở nên bất an hơn bao giờ hết: thế giới tiếp tục có
những sự xung đột dân tộc, khu vực, tôn giáo; ranh giới giữa chiến tranh
chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa nhiều lúc bị mờ đi và bị chuyển cực;
giữa chủ quyền và nhân quyền; giữa sự can thiệp cần thiết của các tổ chức
quốc tế, kể cả tổ chức lớn nhất là Liên Hợp quốc, với việc vi phạm bốn yếu tố
quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia là độc lập - chủ quyền - thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, trở nên mong manh khó phân biệt hơn bao giờ hết. Thế giới
càng trở nên bất an hơn bởi chủ nghĩa khủng bố và nguy cơ tiềm tàng vũ khí
hạt nhân. Thế giới bị tàn phá bởi chính con người trong nỗ lực/lịng tham tìm
mọi cách tăng trưởng kinh tế mà chưa chú ý đúng mức cũng như khơng giải
quyết được các vấn đề khác, trong đó có vấn đề mơi trường sinh thái để phát
triển bền vững.
Tháng 1 - 1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
của Đảng đã chỉ ra bốn thách thức và đồng thời cũng là bốn nguy cơ lớn trong

q trình phát triển của những năm sau đó ở Việt Nam: “Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất
phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên
16


17

trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa
nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ
đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ diễn biến
hịa bình của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với
nhau, tác động lẫn nhau”. Việc chỉ ra bốn nguy cơ như vậy là rất chính xác.
Đến các Đại hội sau đó và gần đây nhất là Đại hội XII của Đảng (2016), Đảng
đều khẳng định sự nhận định đúng đắn của Nghị quyết Hội nghị này. Trong
giai đoạn hiện nay, nguy cơ lớn nhất, nguy cơ của mọi nguy cơ là: nguy cơ
mất chế độ chính trị đang xây dựng; và như vậy, rất khó khăn cho việc xây
dựng con người Việt Nam.
2.1.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng con người phát triển toàn
diện được thể hiện thơng qua Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô
cùng phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của
mỗi con người. Tất cả đều tốt lên tình u vơ hạn, sự tôn trọng, thái độ bao
dung và niềm tin tuyệt đối vào con người. Đó là những việc mà Đảng, Nhà
nước ta đã và đang thực hiện trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt q trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi con người là vốn quý nhất, là mục
tiêu, là động lực của cuộc cách mạng. Quan điểm này được thể hiện thông qua
các kỳ đại hội, đặc biệt tại Đại hội XII, Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều
quan điểm mới về xây dựng, phát triển con người. Những quan điểm này

được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp, định hướng cụ thể trong hoạt
động thực tiễn và phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở
thành mục tiêu của chiến lược phát triển, là một trong những nhiệm vụ tổng
quát phát triển đất nước 5 năm 2016 – 2020, đó là “xây dựng con người phát
triển tồn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Đây là một bước tiến quan trọng của Đảng ta
không chỉ coi trọng phát triển con người về mặt nhận thức, về mặt lý luận, mà
còn biến thành nhiệm vụ cụ thể và hoạt động thực tiễn. Căn cứ để đưa ra
nhiệm vụ tổng quát dựa trên sự đúc kết những giá trị văn hóa và hệ giá trị
17


18

chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Đảng tạo điều kiện để con người giai đoạn hiện nay phát
triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, tâm hồn, trách nhiệm
xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật một cách toàn diện. Tạo
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tự hào dân tộc, tơn vinh lịch sử,
văn hóa dân tộc. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi những hành vi sai trái, tiêu cực
ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người, sự xuống
cấp về đạo đức xã hội, để xây dựng thành công một xã hội tốt đẹp, văn minh
và phát triển.
Thứ hai, gắn mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa với xây dựng con
người. Đại hội XII của Đảng khẳng định chủ trương gắn việc xây dựng văn
hóa, con người với xây dựng và phát triển đất nước. Đây là bước phát triển
trong tư duy lý luận của Đảng về lĩnh vực phát triển con người sau 30 đổi
mới. Đại hội XII khẳng định phương hướng phát triển văn hóa là: “Xây dựng,
phát triển văn hóa, con người... Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người

với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”, bởi vì con người vừa là chủ
thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là sản phẩm của chính nền văn hóa do mình
sáng tạo ra. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, nói tới văn hóa
là nói tới con người, con người giữ gìn phát huy giá trị văn hóa, nhưng chính
con người cũng có thể làm mất đi giá trị tốt đẹp của văn hóa. Cho nên, việc
xây dựng, phát triển văn hóa khơng thể tách khỏi xây dựng, phát triển con
người. Qua cách diễn đạt này, Đảng đã khẳng định và nhấn mạnh vấn đề trọng
tâm, cốt lõi của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là xây dựng con người mới, con người phát triển toàn diện với nhân
cách, lối sống, đạo đức tốt đẹp.
Thứ ba, Đảng ta khẳng định, vấn đề xây dựng con người là bốn trong
sáu nhiệm vụ trung tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII. Vấn đề xây dựng con
người được xem là nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ này. Trong đó có hai
nhiệm vụ đề cập tới phát triển năng lực cho con người. Ngay ở nhiệm vụ đầu
tiên về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta nhấn mạnh cần phải:
“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
18


19

Ở nhiệm vụ thứ ba, về tập trung các giải pháp nâng cao chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, Đảng ta yêu cầu tiếp
tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược, trong đó có: “phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”, có như vậy mới đáp ứng được
yêu cầu phát triển của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với quan điểm nguồn nhân lực là vốn quý của đất nước, trong nhiệm
vụ thứ năm, Đại hội XII của Đảng xác định: “Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi
nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân”. Khi đề cập tới vấn đề đạo đức, lối

sống, nhân cách của con người để xây dựng con người phát triển toàn diện,
trong nhiệm vụ thứ sáu, Đảng ta khẳng định: “Phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo
đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc”. Việc cụ thể hóa những
yêu cầu trong xây dựng và phát triển con người toàn diện là thể hiện sự nhận
thức đúng đắn của Đảng trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, của quá trình
hội nhập quốc tế và xu thế tồn cầu hóa hiện nay.
Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện, diễn ra trên mọi mặt của đời
sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực con
người. Đó là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về
quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc về
học vấn nền tảng, đào tạo con người có trình độ tay nghề, nắm vững cơng
nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất, hình thành phong cách lao động công
nghiệp, lao động sáng tạo.
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước địi hỏi người lao
động phát triển cả đạo đức và nhân cách. Đó là đạo đức trung thực, đạo đức
trong hành động, tự giác trong lao động. Biểu hiện của đạo đức cách mạng là
sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức và hành động, giữa
động cơ và hiệu quả. Đạo đức đó đáp ứng được chuẩn mực đạo đức của xã
hội mới, là điều kiện cơ bản để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất
nước hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
19


20

2.2. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong sự

nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh với hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa dân tộc, về con người và văn hóa, về chủ nghĩa nhân văn
và đạo đức, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và về
nhiều vấn đề khác… vốn mang ý nghĩa và giá trị thời đại, được khẳng định từ
Hội thảo quốc tế về Hồ Chí Minh được UNESCO tơn vinh là Anh hùng giải
phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn, tự nó đã nói lên ý nghĩa và giá trị thời đại
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong rất nhiều diễn biến lớn của thế giới, có thể nói đến ba hiện tượng
nổi bật:
Một là, sự phát triển bùng nổ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là
khoa học công nghệ viễn thông với mạng Internet toàn cầu, tạo ra một nền
văn minh mới - văn minh trí tuệ, đồng thời tạo cơ sở thuận lợi cho sự phát
triển sức sản xuất, trước hết là đẩy mạnh sức sản xuất tư bản chủ nghĩa;
Hai là, tồn cầu hóa mọi mặt đời sống xã hội, dẫn đến thế giới hình
thành một thị trường chung trên nhiều phương diện, đặc biệt là thị trường tài
chính tiền tệ;
Ba là, những diễn biến mới trong lòng chủ nghĩa tư bản, tạo nên sự
phát triển khơng bình thường giữa quan hệ sản xuất với phương thức phân
phối, dẫn đến những khủng hoảng không thể tránh khỏi. Ðây là một hiện
tượng mới thuộc khuyết tật bẩm sinh của chủ nghĩa tư bản mà từ lâu C.Mác
đã thấy trước: “Có một sự vận động tăng lên không ngừng trong những lực
lượng sản xuất, một sự vận động phá hoại không ngừng trong những quan hệ
xã hội, một sự vận động hình thành không ngừng trong những ý niệm”. Cuộc
vận động tăng lên không ngừng trong những lực lượng sản xuất đã dẫn đến
tồn cầu hóa hay cịn gọi là chủ nghĩa tư bản phiên bản 3.0, khiến cho của cải
vật chất ngày càng dồi dào, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng tăng tiến;
Cuộc vận động phá hoại không ngừng trong quan hệ xã hội dẫn đến sự phân
hóa trong chính giai cấp tư sản, hình thành thị trường tài chính tiền tệ và các
nhà tư bản tài chính đầu cơ tài chính tiền tệ nhằm tìm kiếm siêu lợi nhuận,

dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các nhà tư bản ngày càng khốc liệt, xảy ra khủng
20


21

hoảng là đương nhiên; và một sự vận động hình thành khơng ngừng trong
những ý niệm, đó chính là những quan niệm khác nhau về lý thuyết phát triển
chủ nghĩa tư bản. Trong bối cảnh mới và đặc biệt ấy, chúng ta tiếp tục nghiên
cứu, khám phá về ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Con người khơng chỉ là sản phẩm, mà cịn là chủ thể của lịch sử. Sự phát
triển của lịch sử sẽ tác động một cách mạnh mẽ và tích cực đối với con người,
làm cho năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân phát triển hơn. Con người
chính là sự kết tinh những giá trị vật chất và tinh thần cao nhất, có khả năng lao
động, sáng tạo và do vậy, là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Có thể khẳng
định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh coi quần chúng nhân dân là lực lượng sáng
tạo nên lịch sử, là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội đã đánh dấu bước
ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam về vấn đề này. Nếu
trước đây, một số nhà yêu nước, như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… muốn
dựa vào sức mạnh bên ngồi để tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, thì trái
lại, đến Hồ Chí Minh, Người khẳng định rằng, phải dựa vào sức mạnh của
chính quần chúng nhân dân; rằng, chính quần chúng nhân dân là động lực quan
trọng nhất, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng thành công. Trong suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam, Người ln kêu gọi đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi tầng
lớp nhân dân trong các tổ chức, đoàn thể xã hội để phát huy sức mạnh tồn dân
tộc. Chính vì biết khai thác, phát huy triệt để sức mạnh nội lực này mà cách
mạng Việt Nam - dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh - đã giành được những thắng lợi to lớn.
Như vậy, ý nghĩa của Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay là rất lớn:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác Lênin là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể từng con người từng giai cấp ở nước ta,
phù hợp với lịch sử và văn hóa Việt Nam, xuất phát từ đất nước và con người
Việt Nam nhằm giải đáp những yêu cầu thực tiễn và lý luận của cách mạng

21


22

Việt Nam. Vì vậy, phải nghiên cứu học lập chủ nghĩa Mác Lênin và đồng thời
phải đẩy mạnh học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp thu đồng thời phát triển học thuyết Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
thấy thế giới là thống nhất, không chỉ gồm các nước tư bản phát triển mà cả
nhân loại cần lao đang cần được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, khỏi nghèo
nàn, lạc hậu để có cuộc sống thật sự ấm no, hạnh phúc, cuộc sống đúng với ý
nghĩa của nó. Người tìm thấy đối tượng cần được giải phóng cũng như nguồn
lực sức mạnh đấu tranh giải phóng con người khơng chỉ có giai cấp vơ sản mà
là những người lao động trên khắp hành tinh, không phân biệt giai cấp, dân
tộc, tôn giáo, mầu da, nam, nữ và cả chính kiến.
Chính vì lẽ đó, từ khi đi tìm đường cứu nước, tiếp cận với học thuyết
Mác và chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh khơng chỉ tìm được con đường cứu
nước mà cịn trang bị cho mình một nhân sinh quan mới, tìm thấy con đường
phát triển của một đất nước còn lạc hậu, kém phát triển như Việt Nam. Ðây là
q trình Hồ Chí Minh tìm hiểu và vận dụng những nguyên lý cách mạng và
học thuyết của học thuyết Mác và chủ nghĩa Lênin vào Việt Nam sao cho
thích hợp chứ khơng phải là q trình đơn giản, máy móc. Chính q trình đó,

Người khơng chỉ thành cơng trong việc vận dụng một học thuyết vốn có cơ sở
thực tế từ xã hội phương Tây tư bản chủ nghĩa vào thực tiễn một nước thuộc
địa, nông nghiệp, chưa phát triển như Việt Nam mà còn phát triển học thuyết
Mác lên một tầm cao mới phù hợp không chỉ với thế giới tư bản chủ nghĩa mà
cả với phần thế giới còn lại chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản mà
Việt Nam là một điển hình.
Có thể nói, nếu học thuyết Mác và chủ nghĩa Lênin mang tính thời đại
bao nhiêu thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng mang giá trị thời đại tương xứng
bấy nhiêu. Với Mác, ý nghĩa thời đại của học thuyết cách mạng và khoa học
chỉ diễn ra trực diện và phù hợp với những nước phát triển chủ nghĩa tư bản;
với Lênin, thời đại đã được xác định với tên gọi cụ thể nhưng vẫn tập trung ở
ý nghĩa đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và chủ nghĩa tư bản; cịn
với Hồ Chí Minh, ý nghĩa và giá trị thời đại không chỉ diễn ra ở các nước tư
bản phát triển mà còn bao quát hơn ở tất cả các nước chưa phát triển; không
chỉ bao gồm cuộc đấu tranh sống cịn giữa giai cấp cơng nhân với chủ nghĩa
22


23

tư bản mà cuộc đấu tranh đã được mở rộng trên tất cả các phạm vi và lĩnh vực
đời sống xã hội; không chỉ là đấu tranh giai cấp với ách áp bức, bóc lột mà cả
đấu tranh xóa bỏ đói nghèo, sự ngu dốt và lạc hậu, nhằm tạo ra một thế giới
mới theo mục tiêu lý tưởng của Mác: "Tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người".
Hồ Chí Minh tiếp thu Mác ở hai khía cạnh lớn: Ðó là phương pháp luận
biện chứng và nhân sinh quan tất cả vì con người, cho con người và do con
người. Đương nhiên, nói đến học thuyết Mác khơng chỉ nói đến nhân sinh
quan mà cả thế giới quan. Hồ Chí Minh khơng trái với thế giới quan mác-xít
khi thừa nhận thế giới diễn ra trong đấu tranh giai cấp và bóc lột giá trị thặng

dư vốn được xem là hai phát hiện vĩ đại của Mác. Nhưng, Người tập trung
hơn vào phát hiện thứ ba của Mác được Ăngghen nhắc đến sau khi Mác qua
đời, đó là lịch sử phát triển các nền văn minh, tập trung vào lý tưởng giải
phóng con người khơng chỉ khỏi áp bức, bóc lột mà cịn phải giải phóng con
người khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Ðây là vấn đề có ý nghĩa thời đại cấp bách
hiện nay khi nhân loại ngày càng bị phân hóa, ngày càng phát triển những tệ
nạn xã hội, ngày càng xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức, ngày càng mất
niềm tin vào con người và tương lai tươi sáng của mọi thời đại mới…
Thứ hai, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo vận dụng và đưa con
người vào trung tâm của mọi vấn đề. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh,
cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành được thắng lợi lịch sử có ý
nghĩa thời đại. Trong quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập, hợp tác liên quốc
gia, khu vực … các thế lực thù địch cũng lợi dụng để ráo riết thực hiện âm mưu
diễn biến hịa bình nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Làm thế nào để
không chệch hướng, làm thế nào để bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc ?
Chỉ có nắm vững cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ
Chí minh về con người nói riêng gắn với độc lập dân tộc đi liền với chủ nghĩa
xã hội thì chúng ta mới đổi mới, hội nhập vững vàng, tự tin và chủ động
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự
chủ, đổi mới và sáng tạo. Hồ Chí Minh là con người của độc lập, tự chủ của
đổi mới và sáng tạo. Người luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, hết sức tránh lặp
23


24

lại những lối cũ, đường mịn, khơng ngừng đổi mới, tìm ra câu trả lời mới cho
thực tiễn khơng ngừng biến đổi. Đó là nét đặc sắc nhất của tinh thần và phong
cách Hồ Chí Minh. Ngày nay, thế giới đang diễn biến theo xu hướng khu vực

hóa, tồn cầu hóa. Để giải quyết tốt những vấn dề đang đặt ra trong thực tiễn
đổi mới thì phải nắm cái tinh thần khoa học và cách mạng, tính biện chứng
của chủ nghĩa Mác Lênin , tính độc lập tự chủ, đổi mới khơng ngừng sáng tạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, biết gắn lý luận với thực tiễn, lời nói và việc làm
thật sự cải biến hiện thực đất nước.
Thứ tư ý nghĩa rất quan trọng nữa của Hồ Chí Minh đó là về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chưa phát triển như Việt Nam,
không chỉ là đấu tranh giai cấp mà trước hết và trên hết phải tạo ra công ăn
việc làm cho người lao động, làm sao cho dân giàu, nước mạnh, nhân dân
được tự do, hạnh phúc. Ðó là con đường phấn đấu lâu dài, gian khổ, liên tục
trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và xã hội, y tế và giáo
dục… Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ có ý nghĩa và giá trị thời đại khi con đường
phát triển xã hội mang lại tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân, khi dân
khơng cịn đói, nghèo, lạc hậu, xứng đáng với một nước độc lập đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ năm ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể
hiện rõ trên nhiều lĩnh vực khác về xây dựng con người và văn hóa... Nhưng
trong bối cảnh mới, tư tưởng của Người mang ý nghĩa và giá trị mới. Có thể
nói chưa bao giờ thế giới lại diễn ra nhiều nghịch lý như hiện nay. Thế giới
càng giàu lên thì hiện tượng nghèo đói và sự phân hóa giàu nghèo càng trở lên
sâu sắc. Quả như một đại biểu người Chilê đã từng nói từ lâu: “Chúng ta đang
vận động khơng theo hướng tạo ra sự bình đẳng về khả năng cho những tầng
lớp nghèo đói của xã hội, mà theo hướng tạo ra ngày càng nhiều khả năng hơn
cho người giàu”. Chính hiện tượng nghịch lý đó đang tạo ra những khủng
hoảng về niềm tin, về tâm lý, dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội như một tất yếu ở
các nước được xem là văn minh, vào chính con người ở ngay các nước giàu
có nhất. Kỳ lạ thay, cái thế giới văn minh đến tuyệt đỉnh khiến con người có
đủ mọi thứ, thực hiện được mọi ước mơ mà trước kia chỉ là huyền thoại lại
vẫn có vơ số sự bất cơng, vơ số người mất lịng tin đã tìm đến cái chết để trốn
24



25

tránh cuộc đời. Kỳ lạ thay, chính ở những nước có nền kinh tế phát triển, có
nhiều người là tỷ phú đôla, lại nảy sinh hiện tượng khủng hoảng về lẽ sống,
phải tìm đến những cách sống xa lạ trái với tự nhiên, tạo nên những tệ nạn xã
hội. Phải chăng, đó cũng chính là biểu hiện của sự suy thối đạo đức khi con
người chỉ hướng vào "cái tơi" thuần túy, chạy theo chủ nghĩa cá nhân cực
đoan. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa nhân văn, về
đạo đức mới đang có ý nghĩa định hướng cho con người hành động, cho con
người thấy hướng đi đúng đắn.
Không phải ngày nay chúng ta mới thấy được ý nghĩa và giá trị thời đại
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ rất lâu, nhân loại tiến bộ trên thế giới, nhất là
những trí thức lớn, những chính khách giàu lịng bác ái, đã từng ca ngợi và
bày tỏ sự khâm phục tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhưng,
có thể nói, trong bối cảnh thế giới đang có những diễn biến phức tạp, đan xen
những thời cơ và thử thách, những tiêu cực và tích cực, những nghịch lý cuộc
đời... thì ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh càng được tỏa
sáng hơn bao giờ hết.
Tóm lại, nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người nói riêng là để thấm nhuần sâu sắc hệ thống
quan điểm, phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh, để kiên định mục tiêu,
lý tưởng nâng cao lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, nâng cao đạo
đức cách mạng, vươn cao ngọn cơ lãnh đạo của Đảng, đưa sự nghiệp cách
mạng nước ta đến thắng lợi.

25



×