Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên tây yên tử tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 103 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ Nông nghiệp và PTNT

Trường Đại học Lâm nghiệp
--------------------------

Nguyễn tuấn dương

Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp
đồng quản lý rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên tây yên tử
tỉnh bắc giang

luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà Nội - 2009


Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ Nông nghiệp và PTNT

Trường Đại học Lâm nghiệp
-----------------------

Nguyễn tuấn dương

Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp
đồng quản lý rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên tây yên tử
tỉnh bắc giang


Chuyên ngành lâm học
MÃ số: 60.62.60

luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

NGI HNG DN KHOA HC
pGS. TS. Trần hữu viên

Hà Néi - 2009


1

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hơn bốn thập kỷ hình thành và phát triển, đến nay hệ thống khu bảo tồn
thiên nhiên của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn Quốc gia,
69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu Bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm
khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc trưng với
giá trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và trên biển
đã và đang được xây dựng trên khắp các vùng, miền cả nước. Đây là những tài sản
thiên nhiên q báu khơng chỉ có giá trị trước mắt cho thế hệ hơm nay mà cịn là di sản
của nhân loại mai sau.
Trong những năm qua, với sự lỗ lực mọi mặt của các ngành, các cấp và sự hỗ
trợ của quốc tế trong công tác bảo tồn thiên nhiên, nhất là trong những năm đổi mới
của đất nước, quá trình quản lý các khu khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đã và
đang tiếp cận, trao đổi kinh nghiệm, hài hồ với những thơng lệ, tiêu chí quản lý
bảo tồn thiên nhiên quốc tế. Tuy vậy mỗi một khu rừng đặc dụng có những đặc
điểm đặc trưng riêng biệt, nhưng thường có đặc điểm chung là địa hình hiểm trở
khó đi lại, kinh tế xã hội chưa phát triển. Đặc điểm này đã gây ra khơng ít khó khăn

và trở ngại cho cơng tác quản lý các khu rừng đặc dụng ở nước ta trong những năm
qua.
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử tỉnh Bắc Giang được thành lập theo
Quyết định số 117/QĐ-UB ngày 22/7/2002 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang.
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử nằm trong lưu vực Yên Tử tây, được bao bọc
bởi dẫy Yên Tử, có đỉnh cao nhất là 1068m. Địa thế thấp dần từ Đông nam sang
Tây bắc, có độ dốc 300. Địa hình cao dốc, chia cắt phức tạp với nhiều vách đá
dựng đứng. Khu vực giáp ranh với tỉnh Quảng Ninh có độ dốc bình quân 35 - 400.
Với địa hình phức tạp nên khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử có những khu vực
còn tương đối nguyên vẹn, với một quần thể sinh vật phong phú và đa dạng. Đây là
nơi sinh sống của một số đồng bào dân tộc ít người như: Tày, Nùng, Sán dìu, Sán
trắng, Hoa, Cao lan, Sán chí, trình độ dân trí chưa cao thu nhập chủ yếu bằng trồng
trọt, chăn ni, thu hái lâm sản ngồi gỗ ... Nguồn sống của các hộ gia đình ít nhiều
cịn dựa vào rừng.
Những đặc điểm trên đã ẩn chứa rất nhiều nguy cơ, thách thức công tác quản lý


2

khu rừng đặc dụng Tây Yên Tử nói riêng và các khu rừng đặc dụng trên phạm vi
toàn tỉnh Bắc Giang nói chung, lực lượng quản lý lâm nghiệp mỏng, trình độ hiểu
biết về đa dạng sinh học cũng như tổ chức quản lý cịn nhiều hạn chế, kinh phí đầu
tư cho cơng tác bảo tồn thiên nhiên cịn chưa được thỏa đáng. Đây chính là nguyên
nhân chính dẫn đến rừng và đa dạng sinh học của các khu rừng đặc dụng trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang vẫn tiếp tục bị tác động và suy giảm.
Xuất phát từ những vấn đề trên đề tài “Nghiên cứu đề xuất một số nguyên
tắc và giải pháp đồng quản lý rừng tại khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử tỉnh
Bắc Giang” được tiến hành.
Ý nghĩa khoa học
Đề tài là cơng trình đầu tiên tiến hành điều tra, nghiên cứu có tính hệ thống

tiềm năng đồng quản lý tài nguyên rừng ở Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Tây
Yên Tử tỉnh Bắc Giang. Các kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở cho việc đề xuất các
nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng, nhằm góp phần vào cơng tác quản lý
bền vững tài nguyên rừng ở tỉnh Bắc Giang nói riêng và các khu bảo tồn thiên nhiên
khác có điều kiện tự nhiên và xã hội tương tự.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần điều chỉnh các cơ chế chính sách
quản lý tài nguyên thiên nhiên tại khu vực nghiên cứu và các vùng lân cận có điều
kiện tự nhiên tương tự.
Đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng quản lý rừng tại khu
BTTN Tây Yên Tử góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý bền vững tài
nguyên rừng ở tỉnh Bắc Giang.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung về đồng quản lý
Trong xu thế chung toàn cầu khi nền kinh tế phát triển song hành với nó là
sự cạn kiệt của nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên rừng nói
riêng. Vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia là nghiên cứu tìm ra giải pháp quản lý sử
dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Trong những năm gần đây, người
ta đã đưa ra hàng loạt các giải pháp trong đó sự hợp tác giữa các bên tham gia có
thể là rất quan trọng đối với sự thành công của việc quản lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Trong đó, được quan tâm nhất là việc giải quyết ổn thỏa mối quan hệ giữa
mục tiêu chung quốc gia và quyền lợi người dân nơi có rừng.
Thuật ngữ đồng quản lý được sử dụng ở đây để mơ tả sự bố trí sắp xếp chính
thức hoặc khơng chính thức giữa chính phủ, thành phần tư nhân hoặc tầng lớp dân
thường liên quan đến việc quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sự thịnh hành của

hình thức quản lý này đang tăng lên đáng kể trong 20 năm qua, có thể tìm thấy rất
nhiều ví dụ ở các nước đang phát triển nơi mà tình trạng nghèo đói và sự suy thối
nguồn tài ngun thiên nhiên đang dẫn dắt xã hội và quốc gia đó vào việc sắp xếp
hình thức đồng quản lý.
Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên đang vượt ra ngồi hình thái khác hoặc
mới về quản lý tài ngun. Đó là một quy trình vốn đã có tính chính trị đã có rất
nhiều nghiên cứu nhằm đưa ra khái niệm về đồng quản lý.
Wild và Mutebi,1996 [38] cho rằng đồng quản lý là một quá trình hợp tác
giữa các cộng đồng địa phương với các tổ chức nhà nước trong việc sử dụng và
quản lý tài nguyên thiên nhiên hoặc các tài sản khác. Các bên liên quan, nhà nước
hay tư nhân, cùng nhau thơng qua một hiệp thương xác định sự đóng góp của mỗi
đối tác và kết quả là cùng nhau ký một hiệp ước phù hợp mà các đối tác đều chấp
nhận được.
Định nghĩa đồng quản lý là sự chia xẻ việc ra quyết định giữa những người
sử dụng tài nguyên địa phương với các nhà quản lý tài nguyên về chính sách sử
dụng các vùng bảo vệ. Các đối tác cần hướng tới mối quan tâm chung là bảo tồn


4

thiên nhiên để trở thành “đồng minh tự nguyện”. Theo Rao và Geisler, 1990 [34].
Nghiên cứu về đồng quản lý hai nhà khoa học Andrew W.Ingle và các tác
giả, 1999 [22] cho rằng đồng quản lý được coi như sự sắp xếp quản lý được thương
lượng bởi nhiều bên liên quan, dựa trên cơ sở thiết lập quyền và quyền lợi, hoặc
quyền hưởng lợi được nhà nước công nhận và hầu hết những người sử dụng tài
nguyên chấp nhận được. Q trình đó được thể hiện trong việc chia xẻ quyền ra
quyết định và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên.
Borrini-Feyerabend năm 1996 [27] đưa ra khái niệm về đồng quản lý các
khu bảo tồn (Protected Areas) là tìm kiếm sự hợp tác, trong đó các bên liên quan
cùng nhau thoả thuận chia xẻ chức năng quản lý, quyền và nghĩa vụ trên một vùng

lãnh thổ hoặc một khu vực tài nguyên dưới tình trạng bảo vệ. Năm 2000 [27] ông
lại đưa ra khái niệm chung “đồng quản lý như là một dạng hợp tác trong đó hai hoặc
nhiều đối tác xã hội hiệp thương với nhau xác định và thống nhất việc chia xẻ chức
năng quản lý, quyền và trách nhiệm về một vùng, một lãnh thổ hoặc nguồn tài
ngun thiên nhiên được xác định”.
Ơng giải thích thêm đối với mục tiêu về văn hố, chính trị nhằm tìm kiếm sự
“công bằng” trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Ông đưa ra thuật ngữ tiếp cận “số
đông” trong quản lý tài nguyên, kết hợp giữa nhiều đối tác có vai trò khác nhau
nhằm mục tiêu chung là bảo tồn thiên nhiên, phát triển bền vững và chia xẻ công
bằng quyền lợi liên quan đến tài nguyên.
Trên cơ sở các khái niệm và định nghĩa đã nêu trên, căn cứ vào điều kiện
cụ thể ở Việt Nam cho một khu bảo tồn thiên nhiên có thể đi đến khái niệm chung
mang tính chất tương đối về đồng quản lý tài nguyên rừng như sau:“Đồng quản lý
là việc sắp xếp lại quyền và trách nhiệm giữa các bên tham gia trong quản lý tài
nguyên rừng. Hoạt động sắp xếp này liên quan đến việc chuyển từ hình thức đưa ra
quyết định từ trên xuống dưới và thiếu sự phối kết hợp giữa người bản địa với việc
quản lý nguồn tài nguyên của Nhà nước sang hình thức đưa ra quyết định có sự
chia sẻ, hợp tác và thỏa thuận của các bên liên quan trong bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên”.


5

1.2. Nghiên cứu về đồng quản lý tài nguyên rừng trên thế giới.
Ở Ấn Độ từ cuối những năm của thế kỷ 20 sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thế giới là sự ô nhiễm môi trường, sự thay đổi khí hậu tồn cầu, bên cạnh đó
nhu cầu của con người về các sản phẩm của ngành lâm nghiệp cũng như nhu cầu về
đất canh tác, đất xây dựng cơ sở hạ tầng ... ngày càng tăng cao, tạo áp lực ngày càng
lớn vào tài nguyên rừng thì vấn đề QLBVR càng trở nên quan trọng hơn, cấp thiết
hơn lúc này nhiệm vụ bảo vệ rừng không phải của riêng nhà nước mà vai trò nhiệm

vụ này là của các bên có liên đến nguồn tài nguyên này.
Ấn Độ là quốc gia đầu tiên trên thế giới đặt nền móng cho phương pháp
tham gia quản lý tài nguyên rừng và khái niệm tham gia quản lý rừng nói chung lần
đầu tiên được biết đến ở đây. Đồng quản lý (hay hợp tác quản lý) bảo vệ khu rừng
được tiến hành trong thời gian này và nhanh chóng lan rộng tới các quốc gia thuộc
các nước châu Phi, châu Mỹ La Tinh và châu Á.
Nghiên cứu của Eva Wollenberg, Bruce Campbell, Sheeona Shackletton,
David Edmunds, and Patricia Shanley, 2004 tại Orissa và Uttarkhand ở Ấn độ, Bộ
lâm nghiệp cho phép người dân được trực tiếp tiếp cận với sản phẩm rừng, đất rừng,
lợi ích từ tài nguyên rừng hoặc tạo cơ hội để họ được tiếp cận với cách quản lý rừng
của nhà nước. Ngược lại thì nhà nước cho phép người dân hợp tác với họ để quản lý
rừng thông qua việc bảo vệ rừng hoặc trồng rừng, yêu cầu người dân chia sẻ lợi
nhuận với các cơ quan quản lý rừng của nhà nước.
Thông qua việc chia sẻ quyền lợi giữa các nhóm người địa phương với nhà
nước, các chương trình dự án cũng đã giúp hịa giải sự tranh chấp nguồn tài nguyên
giữa người dân và nhà nước. Các chương trình đồng quản lý hoặc hợp tác rừng đã
đem lại những kết quả to lớn. Ở Ấn Độ có hơn 63.000 nhóm - tổ tham gia vào các
chương trình trồng mới 14 triệu ha rừng.
Ở Nam Phi tại vườn quốc gia Richtersveld trong báo cáo khoa học về vấn
đề “Hợp tác quản lý với người dân ở Nam Phi trong phạm vi vận động” của hai nhà
khoa học Moenieba Isaacs và Najma Mohamed năm 2000 [28] đã nghiên cứu các
hoạt động hợp tác quản lý tại vườn quốc gia này. Tài nguyên thiên ở khu vực này
khá phong phú và đa dạng đặc biệt có mỏ kim cương. Bởi vậy người dân ở các vùng


6

khác di cư đến khai thác trái phép làm cho tài nguyên rừng, đa dạng sinh học ở khu
vực này bị suy giảm nghiêm trọng.
Năm 1991 ban quản lý vườn quốc gia đã nghiên cứu tìm ra phương thức

hợp tác quản lý với cộng đồng dân cư. Phương thức này chủ yếu dựa trên hương
ước quản lý bảo vệ tài nguyên. Trong đó người dân cam kết bảo vệ đa dạng sinh
học trên địa phận của mình, cịn chính quyền và ban quản lý hỗ trợ người dân xây
dựng cơ sở hạ tầng và cải thiện các điều kiện kinh tế xã hội khác [28].
Tại Vườn quốc gia Kruger người dân trước đây đã chuyển đi từ Makuleke,
khi chính phủ mới thành lập đã cho phép người dân trở laị vùng đất truyền thống để
sinh sống. Để đạt được quyền sử dụng đất đai cũ, người dân phải xây dựng quy ước
bảo vệ môi trường trong khu vực Vườn quốc gia, đồng thời họ cũng được chia xẻ
lợi ích thu được từ du lịch. Từ những kết quả đạt được về đồng quản lý tài nguyên
ở Nam Phi đã trở thành bài học kinh nghiệm cho các nước đang phát triển khác.
(Reid, H., 2000) [35].
Ở Thái Lan theo kết quả đánh giá của các nhà khoa học khi đồng quản lý
tài nguyên rừng trên thế giới lan đến Châu Á thì Thái Lan là một nước được đánh
giá đạt được nhiều thành tựu trong công tác xây dựng các chương trình đồng quản
lý bảo vệ các khu rừng. Các cộng đồng dân cư có đời sống phụ thuộc vào tài nguyên
rừng thường có rất nhiều kinh nghiệm khi đóng vai trò là người bảo vệ hoặc người
tham gia quản lý khu bảo tồn.
Trong báo cáo “Liên minh cộng đồng: đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã
có nghiên cứu điểm tại vườn quốc gia Dong Yai nằm ở Đông Bắc và khu rừng
phịng hộ Nam Sa ở phía bắc Thái Lan. Đó là những vùng quan trọng đối với cơng
tác bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời cũng là những vùng có nhiều đặc điểm độc
đáo về kinh tế, xã hội, về thể chế truyền thống của cộng đồng người dân địa phương
trong quản lý và sử dụng tài nguyên (Poffenberger, M. và McGean, B. 1993) [33].
Tại Dong Yai, người dân đã chứng minh được khả năng của họ trong việc
tự tổ chức các hoạt động bảo tồn, đồng thời phối hợp với Cục Lâm nghiệp Hoàng
gia xây dựng hệ thống quản lý rừng đảm bảo ổn định về mơi trường sinh thái, cũng
như phục vụ lợi ích của người dân trong khu vực. Tại Nam Sa, cộng đồng dân cư


7


cũng rất thành công trong công tác quản lý rừng phịng hộ. Họ khẳng định rằng nếu
chính phủ có chính sách khuyến khích và chuyển giao quyền lực thì họ chắc chắn sẽ
thành cơng trong việc kiểm sốt các hoạt động khai thác quá mức nguồn tài nguyên
rừng, các hoạt động phá rừng và tác động tới môi trường. Đồng quản lý ở Thái Lan
có thể trở thành bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam, bởi Thái Lan cũng là
một nước trong vùng Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam quốc gia có một số đặc
điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên và văn hoá xã hội [33].
Ở Uganda Khi tiến hành nghiên cứu về lĩnh vực đồng quản lý rừng tại
vườn quốc gia Bwindi Impenetrable và MgaHinga Gorilla thuộc Uganda hai nhà
nghiên cứu Wild và Mutebi, 1996 [38]. Cho thấy hợp tác quản lý được thực hiện
giữa ban quản lý vườn quốc gia và cộng đồng dân cư. Hai bên thoả thuận ký kết
quy ước cho phép người dân khai thác bền vững một số lâm sản, đồng thời có nghĩa
vụ tham gia quản lý bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn của cộng đồng. Đồng
quản lý chỉ có hai đối tác là ban quản lý và cộng đồng dân cư.
Ở Canada kể từ khi ký hiệp định Northern Quebec và James Bay năm 1975,
việc sắp xếp công tác đồng quản lý ở Canada đã tăng lên nhanh chóng. Có rất nhiều
hình thức sắp xếp công tác đồng quản lý và nhiều ban chính thức liên quan đến tuần
lộc, cá voi trắng, các sản phẩm lâm nghiệp và phi lâm nghiệp và các loại cá được
đặt tên nhưng rất ít. Việc sắp xếp quyền đồng quản lý đối với chủ đề này là một chủ
điểm giữa tỉnh Saskatchewan, công ty quản lý lâm nghiệp Mistik và các cộng đồng
người dân thuộc Hội đồng bộ lạc Meadow.
Khi viết về đồng quản lý rừng tại vườn quốc gia Vutut, tác giả Sherry, E. E.,
1999 [37] cho rằng đây vừa là một khu bảo tồn thiên nhiên vừa là khu di sản văn
hoá của người thổ dân ở vùng Bắc Cực. Liên minh giữa chính quyền và thổ dân đã
huy động được lực lượng người dân và kết hợp với ban quản lý làm thay đổi chiều
hướng bảo tồn tự nhiên hoang dã và tăng các giá trị của Vườn quốc gia. Đồng quản
lý ở đây đã kết hợp được giữa các mối quan tâm và kiến thức bản địa với mục tiêu
bảo tồn. Ban quản lý vườn quốc gia giúp về kỹ thuật xây dựng các mơ hình bảo tồn
thiên nhiên và phát triển kinh tế xã hội, cịn dân bản địa có thể thực hiện các mơ

hình đó. Hợp tác quản lý ở đây đã giải quyết hài hồ mâu thuẫn giữa chính sách của


8

chính quyền và bản sắc truyền thống của người dân, đảm bảo cho sự thành công của
công tác bảo tồn hoang dã và bảo tồn các di sản văn hoá. Đồng quản lý ở vườn quốc
gia Vutut được đánh giá là rất thành cơng, theo tác giả thì nó được thiết kế để “kết
hợp giữa sự tốt đẹp nhất của hai thế giới” nhà nước văn minh và thổ dân.
Ở Madagascar tác giả Shuchenmann 1999 [36] đã đưa ra một ví dụ ở vườn
quốc gia Andringitra, là vườn quốc gia thứ 14 của nước cộng hoà Madagascar. Theo
tác giả này Vườn quốc gia là một vùng núi có mối liên hệ giữa các hệ sinh thái, sinh
cảnh, đa dạng sinh học và cảnh quan cũng như di tích văn hố. Chính phủ có nghị
định đảm bảo các quyền của người dân như: quyền chăn thả gia súc, khai thác tài
nguyên từ rừng phục hồi để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn những tập qn
truyền thống khác như có thể giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng. Để đạt được
những thoả thuận trên, người dân phải đảm bảo tham gia bảo vệ sự ổn định của các
hệ sinh thái trong khu vực. Ngồi ra, có nhiều bên liên quan tham gia trong ban
đồng quản lý như du lịch, chính quyền.
Ở Brazil, nơng dân đã giúp quản lý 2,2 triệu ha rừng phòng hộ, khoảng một
nửa số huyện ở Zimbab tham gia vào chương trình CAMPFIRE, ở đó người dân
có thể chia sẻ lợi nhuận từ du lịch trong các khu rừng bảo vệ động vật hoang dã, các
chương trình này giúp nhà nước bảo vệ được rừng, giúp người dân cải thiện được
quyền tiếp cận với tài nguyên rừng, tuy nhiên chưa giúp người nghèo cải thiện đáng
kể kế sinh nhai.
Năm 1957 Nhà nước Nepal thực hiện quốc hữu hoá rừng, tập trung quản lý
bảo vệ rừng và đất rừng, kết quả là người dân ở đây đã ít quan tâm đến BVR( bảo
vệ rừng) của Nhà nước dẫn đến trong vòng 20 năm hàng triệu ha rừng bị tàn phá.
Từ năm 1978, Chính phủ đã giao quyền quản lý và bảo vệ rừng cho người dân địa
phương để thực hiện chính sách phát triển lâm nghiệp. Tuy nhiên, sau một thời gian

người ta nhận thấy các đơn vị hành chính này khơng phù hợp với việc quản lý và
bảo vệ rừng do các khu rừng nằm phân tán, khơng theo đơn vị hành chính và người
dân có nhu cầu, sở thích sử dụng sản phẩm rừng khác nhau.
Năm 1989, Nhà nước thực hiện chính sách lâm nghiệp mới đó là chia rừng và
đất rừng làm hai loại: rừng tư nhân và rừng Nhà nước cùng với hai loại sở hữu rừng


9

tương ứng là sở hữu tư nhân và sở hữu rừng Nhà nước. Trong quyền sở hữu của Nhà
nước lại được chia theo các quyền sử dụng khác nhau như: rừng cộng đồng theo nhóm
người sử dụng, rừng hợp đồng với các tổ chức, rừng tín ngưỡng, rừng phịng hộ. Nhà
nước công nhận quyền pháp nhân và quyền sử dụng cho các nhóm sử dụng.
Năm 1993, Nêpal phát triển chính sách lâm nghiệp mới, nhấn mạnh đến các
nhóm sử dụng rừng, cho phép gia tăng quyền hạn và hỗ trợ cho các nhóm sử dụng
rừng thay chức năng của các phòng lâm nghiệp huyện từ chức năng cảnh sát và chỉ
đạo sang chức năng hỗ trợ và thúc đẩy cho các bên liên quan, từ đó rừng được quản
lý và bảo vệ có hiệu quả hơn.
Theo báo cáo của nhà khoa học Oli Krishna Prasad 1999 [24], tại khu bảo
tồn Hoàng gia Chitwan ở Nepal, cộng đồng dân cư vùng đệm được tham gia hợp tác
với một số các bên liên quan quản lý tài nguyên vùng đệm phục vụ cho du lịch. Lợi
ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài nguyên là khoảng 30% - 50% thu được
từ du lịch hàng năm sẽ đầu tư trở lại cho các hoạt động phát triển kinh tế xã hội của
cộng đồng. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở đồng quản lý tài nguyên rừng phục
vụ du lịch ở vùng đệm.
1.3. Nghiên cứu về đồng quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam.
Từ sau ngày hồ bình được lập lại nhiều diện tích rừng và đất rừng được
quy hoạch và đưa vào các lâm trường quốc doanh. Nhiệm vụ chủ yếu của các lâm
trường là khai thác rừng để phục vụ cho nền kinh tế xã hội. Cấp quản lý nhà nước
Trung ương có Tổng cục Lâm nghiệp (sau này là bộ Lâm nghiệp) là cơ quan chuyên

ngành của Chính phủ. Đến năm 1973 Chính phủ thành lập Cục Kiểm lâm, là cơ
quan thực thi luật pháp bảo vệ rừng, ở cấp tỉnh có các Ty lâm nghiệp (sau này là Sở
Lâm nghiệp) là cơ quan quản lý lâm nghiệp của tỉnh kiêm cả việc quản lý các doanh
nghiệp lâm nghiệp, ở cấp huyện có các Hạt Lâm nghiệp trực thuộc UBND huyện.
Thực tế cho thấy trước kia ở nước ta tài nguyên rừng được Nhà nước trực tiếp
quản lý và quyết định mọi phương án quản lý và sử dụng. Bởi vậy diện tích rừng ở
nước ta trong thời gian qua suy giảm nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lương. Ngay
cả các khu rừng đặc dụng cũng bị xâm phạm nghiêm trọng làm cho tài nguyên ngày
càng bị cạn kiệt. Đã có một số đề tài, dự án của các tổ chức nước ngoài và trong nước


10

được thực hiện nhằm quản lý bền vững các khu rừng đặc dụng.
Năm 1997 tại vườn Quốc gia Cát Tiên trong khóa tập huấn về “Kết hợp bảo tồn
và phát triển” phương pháp đồng quản lý tài nguyên rừng lần đầu tiên được đưa vào giới
thiệu và thảo luận. Sau thời gian đó phương pháp này được giới thiệu trong một số khóa
tập huấn về bảo tồn thiên nhiên của các dự án nhưng chưa mang lại kết quả đáng kể.
Trong hội thảo quốc gia về lâm nghiệp được tổ chức năm 2001 tại Hà Nội
nhằm làm rõ các yếu tố khuôn khổ pháp lý của rừng cộng đồng, việc thực thi các chính
sách hỗ trợ cho quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam. Trong hội thảo có rất nhiều báo
cáo và các vấn đề thảo luận: ‘‘Báo cáo về khn khổ pháp lý, chính sách của Nhà nước
và hiện trạng quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam’’ của tác giả : Phạm Xuân Phương,
Hà Công Tuấn, Vũ Văn Mê, Nguyễn Hồng Quân.
Các báo cáo về sự vận dụng chính sách lâm nghiệp nhà nước ở cấp tỉnh của
các tác giả: Sheelagh, Orelly, Vũ Hữu Tuynh, Nguyễn Ngọc Lung, Lê Ngọc Anh,
Nguyễn Hải Nam, Cao Vĩnh Hải… Cuối cùng hội thảo đi đến kết luận cộng đồng đang
quản lý 15% diện tích rừng của nhà nước, đó là thực tế mang tính khách quan và ngày
càng có một vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam. Tuy
nhiên, vẫn còn một số những vướng mắc trong khn khổ chính sách hưởng lợi từ rừng

khi tham gia bảo vệ và phát triển rừng như: không quy định cộng đồng dân cư thôn bản
là đối tượng của chính sách này. Sự vận dụng các chính sách của nhà nước và địa
phương đã có tính sáng tạo, cụ thể là một số tỉnh đã mạnh dạn thí điểm giao đất giao
rừng và cấp sổ đỏ cho cộng đồng dân cư thôn bản như Sơn La, Thừa Thiên Huế,
ĐăkLăk.
Tại khu BTTN Pù Luông trong nghiên cứu về phối hợp quản lý và bảo tồn
Ulrich Apel, Oliver C. Maxwell và các tác giả 2002 [20] đã có đánh giá nghịch lý về sử
dụng đất đai và nhà ở, tình hình quản lý tài nguyên thiên nhiên ở một số thôn bản vùng
đệm khu BTTN Pù Luông. Trong kết quả nghiên cứu của các tác giả mới chỉ đánh giá
một số thể chế, chính sách hiện nay đối với cơng tác quản lý rừng đặc dụng, phân tích
sự phụ thuộc của người dân đối với tài nguyên rừng. Chưa đánh giá được đầy đủ tiềm
năng về đồng quản lý và không đưa ra được nguyên tắc và giải pháp thực hiện.
Địi hỏi của thực tiễn là cần có tiến trình, ngun tắc và các giải pháp thích hợp


11

để xây dựng kế hoạch đồng quản lý tài nguyên rừng đây là câu trả lời mà các dự án
triển khai trong thời gian gần đây đang lúng túng chưa đưa ra được. Ngày 4/8/2003 hội
thảo về “ý tưởng thành lập khu bảo tồn thiên nhiên Phu Xai Lai Leng do cộng đồng
quản lý” được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An đã đề xuất một số vấn đề đồng
quản lý khu bảo tồn. Tuy nhiên, hội thảo cũng chưa thống nhất được các nguyên tắc
đồng quản lý và giải quyết triệt để vấn đề [12].
Năm 2004 tại Hà Nội, Hội thảo quốc gia về lâm nghiệp cộng đồng được tổ
chức với nội dung về khuôn khổ và thể chế quản lý rừng cộng đồng, chính sách hưởng
lợi trong quản lý rừng cộng đồng, đánh giá tài nguyên rừng và khai thác rừng cộng
đồng. Hội thảo kết luận, quản lý rừng cộng đồng hiện đang tồn tại như một xu thế
khách quan và ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý tài nguyên rừng,
nhiều diện tích đất lâm nghiệp có thể giao cho cộng đồng quản lý những diện tích rừng
xa khu dân cư, có địa hình phức tạp mà các tổ chức nhà nước và hộ gia đình khơng có

khả năng quản lý và quản lý khơng có hiệu quả, các khu rừng giữ nguồn nước phục vụ
trực tiếp cho cộng đồng, khu rừng giáp ranh giữa các thơn, xã.
Bên cạnh đó, vấn đề hưởng lợi của cộng đồng quản lý rừng được nhiều nhà
khoa học quan tâm và nghiên cứu, đặc biệt là tác giả Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Ngọc
Lung. Tác giả Phạm Xuân Phương với khảo sát đánh giá tình hình triển khai chính sách
hưởng lợi đối với hộ gia đình, các nhân, cộng đồng được giao nhận khoán rừng năm
2003.
Kỹ thuật đánh giá thực trạng quản lý rừng cộng đồng của các tác giả Nguyễn Hồng
Quân, Vũ Long, Phạm Xuân Phương đã đưa ra khung định vị đánh giá hiện trạng quản
lý rừng cộng đồng gồm 5 tiêu chí ... Qua hội thảo, các báo cáo và các cơng trình nghiên
cứu của các tác giả cho thấy, tuy nhà nước chưa quy định quyền hưởng lợi của cộng
đồng với những diện tích rừng cộng đồng hiện đang quản lý, song trên thực tế cộng
đồng đang quản lý và có quyền hưởng lợi, phân chia lợi ích từ rừng.
Bàn về hiệu quả đạt được từ quản lý bảo vệ rừng cộng đồng ở nước ta, cho đến
nay chưa có đánh giá hiệu quả quản lý rừng cộng đồng ở quy mơ tồn quốc, tuy nhiên,
căn cứ vào 3 kết quả Hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam được tổ


12

chức tại Hà Nội (tháng 6/2000, tháng 11/2001 và tháng 11/2004) có thể đưa ra một số
nhận định sau:
- Nhiều nơi rừng cộng đồng được bảo vệ và phát triển tốt hơn, những nơi rừng do
cộng đồng quản lý hầu như khơng bị chặt phá, do khơng có xâm hại nên rừng ngày càng
tăng trưởng.
- Góp phần nâng cao thu nhập của người dân, xố đói giảm nghèo, đáp ứng nhu
cầu lâm sản cho các cơng trình chung của cộng đồng và hộ gia đình.
Đối với diện tích rừng do cộng đồng nhận khoán bảo vệ, hàng năm được Nhà nước
hoặc chủ rừng trả tiền cơng khốn, đã góp phần giải quyết một phần khó khăn về đời
sống cho một bộ phận dân cư.

Đối với diện tích rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao, cộng đồng có thể
tận dụng khi rừng chưa khép tán hoặc đất trống chưa trồng rừng để canh tác kết hợp cây
nông nghiệp, chăn thả dưới tán rừng, được các dự án đầu tư hỗ trợ vốn để sản xuất, được
hưởng lợi sản phẩm từ rừng.
Đối với diện tích rừng cộng đồng quản lý theo truyền thống cho đến nay hầu như
cộng đồng có toàn quyền quyết định việc sử dụng tài nguyên rừng, trong đó đáp ứng nhu
cầu lâm sản cho các cơng trình chung của cộng đồng, giải quyết nhu cầu gỗ làm nhà cho
các hộ gia đình.
- Tiết kiệm chi phí cho Nhà nước: hiện nay có nhiều cộng đồng đang quản lý rừng
hầu như khơng có sự hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí, nhưng rừng vẫn được bảo vệ tốt.
- Rừng cộng đồng đã góp phần bảo vệ nguồn nước, giải quyết một phần nhu cầu gỗ
gia dụng cho cộng đồng và thành viên của cộng đồng; khai thác lâm sản ngồi gỗ..., góp
phần phát triển ngành nghề thủ công truyền thống và tăng thu nhập cho cộng đồng.
- Góp phần khơi phục truyền thống văn hố, phong tục tập quán tốt đẹp của cộng
đồng thông qua việc quản lý rừng cộng đồng, có sự giúp đỡ và hướng dẫn của các tổ
chức nhà nước, đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện quy chế quản lý, bảo vệ
rừng; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; khơi phục truyền thống văn hố tốt đẹp, hương
ước của cộng đồng.
Nhìn chung, quản lý rừng và đất rừng trên cơ sở cộng đồng là một vấn đề tổng
hợp và phụ thuộc nhiều vào khuôn khổ thể chế, chính sách của từng quốc gia, từng địa


13

phương. Do vậy, không thể sao chép nguyên vẹn một mơ hình nào từ nơi này sang nơi
khác. Tuy nhiên, việc chia sẻ kinh nghiệm, chia sẻ những bài học thành công hay thất
bại trong cả nước và khu vực là rất cần thiết trong bối cảnh chính sách lâm nghiệp đang
cải cách và hoàn thiện như hiện nay. Điều đáng chú ý là phải có những nghiên cứu tổng
hợp đánh giá và đúc kết kinh nghiệm, bổ sung và xây dựng những chính sách mới phù
hợp cho mỗi vùng.

Vì vậy quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng được xem như nền tảng của sự phát
triển vì nó đảm bảo đáp ứng được những nhu cầu lợi ích cho cộng đồng, góp phần xố
đói giảm nghèo và khắc phục được tình trạng khánh kiệt tài nguyên trong những
phương thức sử dụng kém bền vững.
Đồng quản lý tài nguyên rừng ở nước ta tuy chưa có những nghiên cứu hồn
chỉnh , nhưng trong điều kiện thực tế cho thấy phương pháp này là một trong những xu
hướng phù hợp với điều kiện bảo tồn đa dạng sinh học trong các khu rừng đặc dụng.
Một số dự án với nội dung đồng quản lý đã được triển khai ở một số vùng. Dự án quản
lý vùng chiến lược kết hợp với bảo tồn thiên nhiên (MOSAIC) do USAID/WWF tài trợ
triển khai ở phía tây tỉnh Quảng Nam, trong đó có nội dung thử nghiệm đồng quản lý
khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh tiến hành năm 2001.
Một dự án nhỏ khác về đồng quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên - Huế do tổ chức Catherine T. Macarthur Foundation tài trợ. Mục tiêu của
dự án nhằm xây dựng mơ hình đồng quản lý khu bảo tồn giữa cộng đồng dân cư và các
tổ chức, cơ quan liên quan (bao gồm cả tổ chức chính phủ và phi chính phủ).
Tóm lại: ở Việt Nam, đồng quản lý hay hợp tác quản lý là mới, còn trong giai
đoạn thử nghiệm và gặp nhiều khó khăn trong q trình ứng dụng và thực tiễn. Việc
đưa ra vấn đề đồng quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng cần phải thực hiện trên cơ sở lý
luận và các bước tiến hành về quản lý phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn ở
nước ta và đặc biệt là sự hợp tác nhiệt tình của địa phương.
Các nghiên cứu gần đây về “Đồng quản lý rừng” tại khu BTTN Sông Thanh,
tỉnh Quảng Nam của Nguyễn Quốc Dựng (Luận văn thạc sỹ Lâm nghiệp năm 2004);
tại khu BTTN Copia, tỉnh Sơn La của Vũ Đức Thuận (Luận văn thạc sỹ Lâm nghiệp
năm 2006); tại vườn Quốc gia Chư yang sin, tỉnh ĐăkLăk của Phạm Văn Hạ (Luận văn


14

thạc sỹ Lâm nghiệp năm 2007); tại rừng quốc gia Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ của Nguyễn
Thị Thanh Hải (Báo cáo tốt nghiệp đại học Lâm nghiệp năm 2009) bước đầu đã chỉ ra

được kinh nghiệm đồng quản lý rừng tại nơi nghiên cứu và cũng là những gợi ý cho
những nghiên cứu tiếp theo về đồng quản lý rừng ở các địa phương khác.
Ở tỉnh Bắc Giang nói chung và Tây Yên Tử nói riêng cho đến nay chưa có một
nghiên cứu nào có tính hệ thống về quản lý rừng cộng đồng và đồng quản lý tài nguyên
rừng. Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử thuộc huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang, có
diện tích tương đối rộng, rất đa dạng về sinh học và gắn liền với di tích lịch sử văn hóa
n Tử, một di sản văn hóa của nước ta từ thời Trần. Cần thiết phải bảo tồn để giữ được
tài nguyên thiên nhiên cùng với di sản văn hóa và cũng là quần thể du lịch của vùng
Đông bắc Việt Nam. Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế, xã hội của Khu BTTN Tây
Yên Tử thế nào? Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện đồng quản lý rừng tại khu BTTN
Tây Yên Tử là gì ? Tiềm năng đồng quản lý rừng tại khu BTTN Tây Yên Tử đã được
thiết lập thế nào?. Có những nguyên tắc cơ bản nào làm cơ sở cho công tác đồng quản lý
rừng ở đây?. Cần có những giải pháp cơ bản về đồng quản lý thế nào để giải quyết được
các mâu thuẫn trong quản lý tài nguyên rừng tại khu BTTN Tây Yên Tử, góp phần phát
triển kinh tế xã hội ở huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang ? là ý tưởng và mong muốn của
những người thực hiện đề tài và cũng là những nội dung chính của luận văn.


15

CHƯƠNG 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá được tiềm năng đồng quản lý tài nguyên rừng ở khu BTTN Tây
Yên Tử. Bước đầu đề xuất được một số nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng quản
lý rừng, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý bền vững tài nguyên rừng ở
tỉnh Bắc Giang.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể

- Tập hợp cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện đồng quản lý rừng tại khu BTTN Tây
Yên Tử, tỉnh Bắc Giang;
- Đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng tại khu BTTN Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất được một số nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho công tác đồng quản lý rừng.
- Đề xuất được một số giải pháp cơ bản về đồng quản lý nhằm giải quyết các mâu
thuẫn trong quản lý tài nguyên rừng tại khu BTTN Tây Yên Tử và phát triển kinh tế xã hội
ở huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
2.2. Nội dung và giới hạn nghiên cứu.
2.2.1. Nội dung nghiên cứu.
- Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế, xã hội Khu BTTN Tây Yên Tử.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện đồng quản lý rừng tại khu BTTN Tây Yên Tử.
- Đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng tại khu BTTN Tây Yên Tử.
- Đề xuất được một số nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho công tác đồng quản lý rừng.
- Đề xuất được một số giải pháp cơ bản về đồng quản lý nhằm giải quyết các
mâu thuẫn trong quản lý tài nguyên rừng tại khu BTTN Tây Yên Tử và phát triển
kinh tế xã hội ở huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
2.3.2. Giới hạn nghiên cứu
Do điều kiện hạn chế về thời gian, nhân lực và kinh phí để thực hiện luận văn,
nên phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn cụ thể ở một xã mang tính đại diện nhất


16

của khu BTTN Tây Yên Tử là xã An Lạc huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang làm cơ sở đề
xuất nguyên tắc, giải pháp đồng quản lý rừng ở khu BTTN Tây Yên Tử.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
- Cơ chế chính sách của các cấp có liên quan đến cơng tác quản lý hệ thống rừng
đặc dụng ở khu BTTN Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Giang.
- Kiến thức bản địa và thể chế của cộng đồng dân cư địa phương trong quản lý tài
nguyên thiên nhiên ở khu BTTN Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Giang.

- Tổ chức quản lý tài nguyên thiên nhiên ở khu BTTN Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Giang.
- Tài nguyên thiên nhiên ở khu BTTN Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Giang.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp kế thừa tài liệu
Kế thừa các tài liệu có sẵn ở các cơ quan và ban ngành các cấp từ trung ương
tới địa phương gồm những tài liệu liên quan đến các yếu tố tự nhiên, xã hội, kinh
nghiệm quản lý bảo vệ rừng, những kết quả nghiên cứu về đồng quản lý ở các địa
phương, những tài liệu về tổng kết chính sách lâm nghiệp trong nước.
2.4.2. Thu thập tài liệu, thông tin ngoại nghiệp
2.4.2.1. Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu là đại diện điển hình của khu vực. Địa điểm nghiên cứu
gồm các thôn phân bố bám rừng, các yếu tố về địa hình và khả năng tiếp cận với
rừng tương đối đồng nhất.
- Trên cơ sở các tiêu chí như trên, xã An Lạc được chọn làm địa điểm nghiên
cứu điểm trong đề tài.
2.4.2.2. Phương pháp điều tra đánh giá các giá trị đa dạng sinh học cần phải bảo tồn
- Đa dạng sinh học khu BTTN Tây Yên Tử mới được điều tra đánh giá, nên đề
tài sẽ kế thừa các tài liệu đã có là chủ yếu, chỉ kiểm tra bổ sung cập nhật một số
thơng tin ngồi thực địa về hiện trạng rừng, thực vật bậc cao và động vật có xương
sống, nhằm đánh giá mức độ đe dọa.
- Đối với thực vật sử dụng phương pháp điều tra theo tuyến kết hợp với phỏng
vấn người dân.
- Đối với động vật rừng sử dụng phương pháp phỏng vấn người dân, thợ săn...


17

2.4.2.3. Phương pháp điều tra tiềm năng đồng quản lý trong cộng đồng
- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA (Rapid Rural Appraisal): Được
thực hiện để thu thập những thông tin bổ sung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội,

thuận lợi, khó khăn, nguy cơ, thách thức trong công tác quản lý bảo vệ rừng.
- Phương pháp đánh giá nơng thơn có sự tham gia PRA (Participatory Rural
Appraisal): Được áp dụng để củng cố những thông tin thu thập được từ phương
pháp kế thừa và phương pháp RRA. Đồng thời, xác định những phong tục, tập
quán, kiến thức và thể chế bản địa liên quan đến việc BVR và tiềm năng BVR của
cộng đồng cũng như vai trị của các bên liên quan đến cơng tác quản lý tài nguyên,
mâu thuẫn và khả năng hợp tác của các bên liên quan trong công tác BVR.
2.4.2.4. Các công cụ sử dụng trong điều tra:
- Bảng câu hỏi phỏng vấn bán định hướng các cơ quan cấp huyện, cấp xã và
trưởng thôn.
- Bảng câu hỏi phỏng vấn hộ gia đình
- Ma trận và sơ đồ đánh giá tiềm năng các bên liên quan.
- Ma trận đánh giá mâu thuẫn trong quản lý sử dụng tài nguyên rừng.
- Ma trận đánh giá khả năng tham gia của các bên liên quan trong quản lý khu bảo tồn.
2.4.2.5. Chọn nhóm người dân (cộng tác viên) tham gia thảo luận:
- Về số lượng: mỗi thơn có 10 - 15 người tham gia thảo luận.
- Về tuổi tác bao gồm: người cao tuổi, trung niên, thanh niên.
- Về kinh nghiệm, trình độ: bao gồm những người hiểu biết rõ về thôn, bản, là
người sống lâu đời trong thơn, bản, có kiến thức bản địa.
- Về nghề nghiệp bao gồm:
 Nhóm nam có 5 - 7 người hay đi rừng: lấy củi, măng, mật ong, gỗ làm nhà,
săn bắt động vật rừng...
 Nhóm nữ có 5 - 7 người có kinh nghiệm đi rừng lấy củi, lấy rau, lấy các lâm sản khác.
 Mỗi nhóm có 2 - 3 người của các đồn thể như: hội phụ nữ, hội nơng dân,
đồn thanh niên, hội cựu chiến binh...
2.4.2.6. Chọn hộ gia đình phỏng vấn:
- Căn cứ vào tiêu chí phân loại của xã, thảo luận với trưởng bản hoặc trưởng


18


thơn về tiêu chí và cách phân loại hộ gia đình trong thơn.
- Đề nghị trưởng thơn lập một danh sách và chọn ngẫu nhiên 6 hộ đại diện cho 3
nhóm để phỏng vấn: 2 hộ thuộc nhóm giàu và khá, 2 hộ thuộc nhóm trung bình, 2 hộ
thuộc nhóm nghèo và đói.
- Phương pháp chuyên gia: sử dụng phương pháp này nhằm tham khảo thêm
những nhận xét và ý kiến góp ý của các chuyên gia có kinh nghiệm từ đó làm cơ sở
đề xuất các nguyên tắc, giải pháp thực hiện đồng quản lý.
2.4.3. Phân tích số liệu và viết báo cáo
- Số liệu thu thập qua bảng phỏng vấn bán định hướng được xử lý và phân tích
định lượng bằng phần mềm Excel, phân tích sự tương quan giữa các nguồn thu nhập
liên quan đến tài nguyên rừng đối với tổng thu nhập của hộ gia đình trong cộng
đồng dân cư thôn, bản. Kết quả xử lý được thể hiện theo dạng phân tích, mơ tả,
bảng và biểu đồ. Ngoài ra, các kết quả thảo luận, các thơng tin định tính như chính
sách, tổ chức cộng đồng, thể chế cộng đồng, được phân tích theo phương pháp định
tính.
- Phân tích ảnh hưởng của các nguồn thu nhập từ tài nguyên rừng đến tổng thu
nhập của các hộ gia đình trong vùng chọn nghiên cứu.
- So sánh danh lục và kết quả điều tra, bổ sung nếu phát hiện thêm các loài
mới cho khu hệ động vật và thực vật và tình trạng của khu hệ động vật, thực vật.
- Dùng phương pháp phân tích tổng hợp, mơ tả, so sánh, đánh giá để tìm ra để
đánh giá tiềm năng phát triển đồng quản lý tài nguyên rừng.


19

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế, xã hội khu BTTN Tây Yên Tử.
3.1.1. Điều kiện tự nhiên

3.1.1.1. Vị trí địa lý: Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử nằm trên đia bàn 4 xã là:
An Lạc, Thanh Sơn, Thanh Luận (huyện Sơn Động), Lục Sơn (huyện Lục Nam).
Có toạ độ địa lý: Từ 2109' đến 21013' Vĩ độ Bắc. 106033' đến 10702' Kinh độ Đơng.
Phía Đơng và phía Nam giáp tỉnh Quảng Ninh và Hải Dương, phía Tây và Bắc giáp
tỉnh Lạng Sơn và phần còn lại của các xã Thanh Sơn, Thanh Luận, An Lạc, Dương
Hưu, Long Sơn, Lục Sơn. Trung tâm Khu bảo tồn đặt tại thôn Nòn, xã Thanh Sơn.
Cách thị trấn An Châu, huyện Sơn Động 25 km về phía Đơng Nam.
3.1.1.2. Địa hình: Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử nằm trong lưu vực Yên Tử
Tây, được bao bọc bởi dẫy Yên Tử, có đỉnh Yên Tử cao nhất là 1068 m. Địa thế
thấp dần từ Đông Nam sang Tây Bắc. Dãy Yên Tử có độ dốc 300. Địa hình cao
dốc, chia cắt phức tạp với nhiều vách đá dựng đứng. Khu vực giáp ranh tỉnh Quảng
Ninh có độ dốc bình qn 35-400. Với địa hình phức tạp như vậy, nên khu bảo tồn
thiên nhiên Tây n Tử có những khu vực cịn tương đối nguyên vẹn, với một quần
thể sinh vật phong phú và đa dạng.
3.1.1.3. Khí hậu thủy văn
a. Khí hậu: Theo số liệu thu thập của trạm khí tượng thuỷ văn tỉnh Bắc Giang (số
liệu trung bình 10 năm 1998 - 2008). Khu vực khu bảo tồn Tây Yên Tử, thuộc 2
huyện Sơn Động và Lục Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 230C (trung bình tháng cao nhất là 28,50, trung
bình tháng thấp nhất là 15,80C). Lượng mưa trung bình năm là 1483,3mm (trung
bình tháng cao nhất là 291,9 mm, trung bình tháng thấp nhất là 31,2mm). Tổng số
ngày mưa là 120 ngày, tập trung vào các tháng 5,6,7,8. Độ ẩm khơng khí bình qn
năm là 82% thấp nhất là 79%. Lượng bốc hơi trung bình năm là 1050mm, thường
bốc hơi vào các tháng 5, 6, 7 nhìn chung lượng bốc hơi thấp hơn lượng mưa nên
mùa khô ít bị hạn. Sương mù thường xuất hiện vào các tháng 1, 2, 9, 10, 11, 12.
Trong các tháng 1, 11, 12 thỉnh thoảng xuất hiên sương muối gây thiệt hại cho trồng


20


trọt và chăn nuôi. Sơn Động và Lục Nam chịu ảnh hưởng của 2 loại gió mùa là gió
mùa Đơng Bắc xuất hiện vào mùa Đông, kèm theo mưa phùn và giá lạnh (từ tháng
11 đến tháng 3 năm sau); Gió mùa Đơng Nam từ tháng 4 đến tháng 10. Trong mùa
này thường nóng và xuất hiện giơng bão, kèm theo mưa to đến rất to. Song, do xa
biển lại được dẫy Yên Tử che chắn nên mức độ thiệt hại do bão gây ra không lớn.
b. Thuỷ văn: Khu bảo tồn Tây Yên Tử thuộc lưu vực Yên Tử Tây. Lưu vực này có 7
con suối lớn là: Suối Đồng Rì, suối Bài, suối Nước Nóng, suối Nước Vàng, suối Đá
Ngang, suối Khe Đin và suối Khe Rỗ. Đây là những con suối thuộc thượng nguồn
của sông Lục Nam. Do lưu vực còn nhiều rừng nên 7 con suối trên có nước quanh
năm. Là nguồn cung cấp nước cho các xã Thanh Sơn,Thanh Luận, Lục Sơn và An
Lạc. Đảm bảo sinh hoạt và cho sản xuất cho nhân dân địa phương.
3.1.1.4. Địa chất, thổ nhưỡng
Đất thuộc các xã An Lạc, Thanh Sơn, Thanh Luận, Lục Sơn được hình thành
trên phức hệ đất trầm tích, gồm các loại đá mẹ Sa thạch, Phiến thạch sét, Sa phiến
thạch, cuội kết và phù sa cổ. Khu bảo tồn Tây Yên Tử có 2 loại đất chính sau:
- Đất Feralít trên núi, phân bố ở độ cao 300m trở lên. Hầu hết còn thực vật
che phủ, tầng đất sâu ẩm. Có lớp thảm mục khá dầy. Đất giàu dinh dưỡng, trong
loại đất này thấy xuất hiện các loại phụ sau:
 Đất Feralít núi màu vàng.
 Đất Feralít núi màu vàng nâu.
 Đất Feralít núi bằng, tầng B khơng rõ.
- Đất Feralít điển hình, phân bố ở độ cao 200 - 300m. Tập trung chủ yếu ở
khu Tây Bắc khu bảo tồn, hình thành trên đá mẹ phiến thạch, Sa thạch... Tầng đất từ
trung bình đến dầy cịn tính chất đất rừng. Nơi cịn rừng thì tầng đất sâu ẩm, độ phì
cao. Nơi mất rừng thì đất bị thối hố mạnh, nghèo dinh dưỡng, có các loại phụ sau:
 Đất Feralít màu vàng, phát triển trên đá mẹ Sa thạch, tầng đất nông,
nghèo dinh dưỡng.
 Đất Feralít màu vàng đỏ, phát triển trên đá mẹ Phiến thạch sét, Sa phiến
thạch ... tầng đất trung bình, chất dinh dưỡng trung bình.



21

3.1.1.5. Thảm thực vật rừng
a. Đặc điểm
Kết quả điều tra của Viện điều tra quy hoach rừng Việt Nam năm 2002 cho
thấy khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử có các kiểu rừng với các trạng thái rừng
tương ứng sau.
Bảng 3.1: Diện tích và các kiểu rừng
STT

Kiểu rừng

Diện tích (ha)

1

Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới

4.872,4

2

Kiểu rừng hỗn hợp cây lá rộng, lá kim ở dưới bình độ 400m

4.953,5

3

Kiểu rừng thứ sinh sau nương rẫy


7.637,4

Khu bảo tồn thiên Tây Yên tử là vùng giầu rừng nhất của tỉnh Bắc Giang bao
gồm các kiểu rừng sau:
- Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới
Kiểu rừng này phân bố từ độ cao 400m trở lên. Đất Feralit núi màu vàng nâu,
vàng nâu, trên đất cso tầng B khơng rõ ràng, có tầng đất sâu, có lớp thảm mục khá
dày, đất có kết cấu độc lập giàu dinh dưỡng. Về cấu trúc loại rừng này có 3 – 4 tầng
chủ yếu cây gỗ và tre vầu, tầng cây bụi, cỏ quyết khơng có nhiều khơng rõ ràng. Về
thành phần lồi rất phong phú có 34 loài cây thuộc 18 họ thực vật khác nhau với
mật độ phân bố từ 500 – 800cây/ha. Lượng cây con tái sinh cũng rất lớn 1500 –
2500 cây/ha trong đó 30% cây tái sinh có triển vọng. Trong tổ thành rừng chủ yếu
là cây thuộc nhóm I, II, III, IV như Thông tre, Thông nàng, Lim, Giổi, Gụ,
Giẻ....hầu hết là cây có đường kính > 26cm, có trữ lượng lớn nhất trong lâm phần.
Các tầng dưới chủ yếu là cây tạp mộc, hồng sắc cây tái sinh. Kiều này có diện tích
4.872,4 ha, trong kiểu này xác định được các ưu hợp:
- Ưu hợp Lim xanh
-

Ưu hợp Thông tre

-

Ưu hợp Sến táu

-

Ưu hợp Giẻ lá to



22

- Kiểu rừng kín hỗn hợp cây lá rộng, lá kim núi thấp dưới bình độ 400m.
Kiểu này chiếm diện tích 4.953,5 ha chủ yếu là trạng thái rừng IIIA1 có tiết diện
ngang G/ha ≤ 10, tàn che 0,3 tầng thứ không rõ ràng, chủ yếu là cây tạp mộc, giái trị
kinh tế thấp như Kháo, Giẻ, Chẹo.....có đường kính 12 – 24 cm.
- Kiểu rừng thứ sinh sau nương rẫy.
Phân bố ở độ cao ≤ 200m. Kiểu rừng này phục hồi sau nương rẫy hoặc khai
thác rừng quá tàn kiệt , rừng đang được phục hồi kiểu này có diện tích 7.637,4 ha.
Do mức độ tàn phá khác nhau trải qua thời gian khác nhau dẫn đến đất đai cũng
khác nhau, qua điều tra phân loại thấy có các ưu hợp tiêu biểu sau:
-

Ưu hợp cây tiên phong với các loài cây tiêu biểu: Thẩu tấu, Sau sau, Lành
ngạnh, Ba sơn, Ba bét, Tre vầu, Giẻ, Chẹo, Lim...

-

Ưu hợp tre vầu thuần lồi có gỗ rải rác

-

Ưu hợp trảng cỏ, cây bụi, tre dóc

b. Các trạng thái rừng tương ứng
- Rừng non phục hồi:
Bao gồm các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy hoặc sau khai thác kiệt.
Rừng non phục hồi tập trung chủ yếu ở phía Bắc khu bảo tồn, có diện tích là 6.716ha.
tổ thành rừng đơn giản gồm các loài cây Hồng sắc và gỗ tạp: Giẻ, Kháo, Sau sau,

Trám, Bứa, Thị rừng... và cóa Lim xanh tái sinh. Rừng có kết cấu 1 tầng, tỷ lệ che phủ
từ 0,4- 0,5. Với các loại rừng này cần có biện pháp khoanh giữ, bảo vệ để rừng sinh
trưởng, phát triển theo diễn thế tự nhiên.
- Rừng nghèo kiệt (trạng thái IIIA1):
Rừng nghèo kiệt được hình thành do quá trình khai thác lạm vào vốn rừng
liên tục: Độ đầy của rừng từ 0,1- 0,2: Cấu trúc rừng bị phá vỡ hồn tồn; kết cấu
tầng thứ khơng rõ ràng, độ tàn che của rừng chỉ còn 0,3 - 0,4; chất lượng rừng xấu,
cây cong queo sâu bệnh, sâu bệnh nhiều, rừng có trữ lượng thấp (M = 45m3/ha). Tổ
thành rừng bao gồm các loài cây: Trám, Dẻ, Kháo, Chẹo, ...Tỉ lệ lồi cây nhóm V –
VI – VII tăng rõ rệt chiếm 70-80%. Các loài cây thân Thảo, dây leo, cây bụi phát
triển mạnh, loại rừng IIIA1 phân bố ở chân và phần sườn giữa khu bảo tồn (thường
ở dưới bình độ 400m), có diện tích là 4953,5ha; loại rừng này cần có giải pháp lâm


23

sinh thích hợp để rừng phát triển theo hướng có lợi đáp ứng theo hướng có lợi của
mục tiêu khu bảo tồn, có trữ lượng là 222.908m3.
- Rừng trung bình và giàu.
Bao gồm các trạng thái rừng IIIA2, IIIA3 có độ dày từ 0,3 trở lên, độ tàn che
của rừng là 0,6. Rừng có cấu trúc tương đối rõ rệt về tầng thứ, có 2-3 tầng, đường
kính bình qn từ 22-26cm; chiều cao h =16-18m, có trữ lượng khá; M/IIIa2 =
76m3/ha, M/IIIA3 = 90M3/ha, tổ thành rừng gồm các loài cây có giá trị: Thơng nàng,
Thơng tre, Gụ, Đinh, Sến, Táu, Trường, Xoan đào, Dẻ, Kháo.... ở các độ cao khác
nhau nhưng chủ yếu tập trung ở độ cao 400m trở lên, đã hình thành các lâm phần
khác nhau trong mỗi lâm phần có một số lồi ưu thế riêng biệt như Thông tre,
Thông nàng, Gụ, Đinh, Táu.... loại rừng này số cây có D >30cm chiếm trên 36% trữ
lượng chủ yếu thuộc các nhóm I, II, III, IV, rừng sinh trưởng khá, tái sinh tốt. Đất
rừng là loại Feralit trên núi màu vàng hoặc vàng nâu phát triển trên các loại đá mẹ
sa thạch, phiến thạch, sét. Đất dày, tầng thảm mục khá giàu chất dinh dưỡng.

Loại rừng này ít bị tác động của con người do nằm ở vùng rừng phịng hộ rất
xung yều, trên địa hình hiểm trở núi cao, dốc lớn, có những khu vực đi lại rất khó
khăn cho nên một số khu vực rừng Thơng tre thuần lồi tổng diện tích 4,8724ha,
tổng trữ lượng 370,302m3, các lâm phần phát triển tốt trên địa hình cao dốc có
nhiều vách đá dựng đứng, đá lộ đầu và núi đá.
- Rừng hỗn giao tre, gỗ.
Hầu hết các loại rừng trên đều có tre vầu, nứa và hỗn giao. Tùy từng lâm
phần mà mức độ đông đặc của tre, nứa, vầu có khác nhau. Diện tích 726,4ha có trữ
lượng 29.056m3. Về cấu trúc các loại rừng này có 2-3 tầng rõ rệt; 1-2 tầng cây gỗ
trên, 1 tầng tre, vầu, nứa + cây tái sinh ở dưới. Phân bố ở độ cao < 200m. Kiểu rừng
này phục hồi sau nương rẫy hay khai thác quá tàn kiệt, rừng đang được phục hồi,
kiểu có diện tích 7.637,4ha. Do mức độ tàn phá khác nhau, trải qua thời gian khác
nhau mà đất đai cũng khác nhau, qua điều tra, phân loại thấy xuất hiện mấy ưu hợp
tiêu biểu sau.
 Ưu hợp cây tiên phong với các loài cây tiêu biểu: Thẩu tấu, Sau sau, Lành
ngạnh, Ba sơn, Ba bét, Tre vầu, Giẻ, Chẹo, Lim...


×