Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào chăm trên địa bàn huyện an phú, tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.04 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------

HUỲNH TIẾN SĨ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO CHĂM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Hà Nội - 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------

HUỲNH TIẾN SĨ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN
VỮNG ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO CHĂM TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHÚ VĂN HẲN


Hà Nội - 2021



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Số liệu điều tra mới nhất vào năm 2019 (do Chi cục thống kê huyện An Phú, An
Giang công bố vào tháng 06/2020), tổng số người Chăm trên địa bàn toàn huyện là
5.768 người và là địa bàn huyện có số người Chăm cư trú đơng nhất tỉnh An Giang (Số
người Chăm tồn tỉnh An Giang là 11.171 người [Kết quả điều tra… ngày 01.04.2019,
UBDT công bố tháng 06 năm 2010]). Người Chăm huyện An Phú là một trong các
cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời gắn bó với sự hình thành và phát triển tỉnh
An Giang, cư trú tập trung theo các ấp trên địa bàn xã Khánh Bình (583 người), xã
Quốc Thái (621 người), xã Nhơn Hội (1.966 người), xã Vĩnh Trường (1.019 người), và
xã Đa Phước (1.579 người). Hầu hết người Chăm ở huyện An Phú tỉnh An Giang đều
theo đạo Hồi (Islam) và tích cực vươn lên góp phần xây dựng cuộc sống và bảo vệ tổ
quốc. Từ đổi mới (1986) đến nay, nhất là từ nhiều năm gần đây, nhờ chủ trương của
Đảng, chính sách ưu việt của nhà nước, trong đó có chính sách giảm nghèo và giảm
nghèo bền vững dành cho người dân tộc thiểu số, dành cho người nghèo vùng sâu vùng
xa, đời sống kinh tế xã hội của người Chăm huyện An Phú, An Giang có nhiều chuyển
biến tích cực. Tuy nhiên cũng thấy rằng, đôi lúc, đôi nơi ở dân tộc Chăm phát triển ở
đây chưa ổn định và thiếu bền vững.

An Phú là một huyện biên giới của An Giang với 02 tỉnh KanDal và Tà Keo
nước bạn Campuchia, với chiều dài biên giới 42,5 km, có đơng người dân tộc Chăm
ở tỉnh An Giang số dân 9.309 người/2358 hộ, chiếm tỷ lệ 5,17%. Dân tộc Chăm ở An
Phú sống tập trung ở 5 xã (Khánh Bình, Quốc Thái, Nhơn Hội, Đa Phước, và Vĩnh
Trường trong đó, có 3 xóm Chăm ở khu vực biên giới). Hầu hết đồng bào Chăm ở

An Phú, An Giang theo đạo Islam. Hộ nghèo hiện nay có 97 hộ chiếm tỷ lệ: 4,11%;

Hộ cận nghèo có 101 hộ chiếm 4,28% (TL, Huyện ủy An Phú, An Giang, 2020).
Đa số người Chăm ở huyện An Phú sống bằng nghề làm thuê, mướn, buôn bán
nhỏ, lẻ và sinh sống bằng nghề chài lưới. Đa số người Chăm ở An Phú đều là hộ nghèo,
đời sống kinh tế của đồng bào Chăm vẫn cịn nhiều khó khăn. An Phú cũng như nhiều
địa phương khác ở An Giang thực hiện đầy đủ các chủ trương, chương trình, chính sách
dân tộc trên địa bàn và thực tế cũng có những chuyển biến nhất định
ở dân tộc Chăm.

1


Tuy nhiên khách quan mà nói, để có những đánh giá nghiêm túc dưới góc
nhìn khoa học về chính sách, kết quả từ việc thực hiện chính sách cơng chưa có
cơng trình nghiên cứu thuyết phục, cụ thể việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững của Đảng và Nhà nước ta đối với dân tộc, cụ thể đối với xóa đói giảm bền
vững đối với đồng bào Chăm huyện An Phú tỉnh An Giang.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng đói nghèo, vượt nghèo, giảm nghèo bền vững
nhất là đối với cộng đồng nghèo ở dân tộc Chăm là nhiệm vụ khơng chỉ của chính
quyền mà cịn là nhiệm vụ khoa học. Luận văn “Thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững đối với đồng bào Chăm trên địa bàn huyện An Phú, tỉnh An Giang” là một
sự chọn lựa nghiên cứu trường hợp cụ thể ở một cộng đồng dân tộc Chăm (về chủ thể
nghiên cứu), sinh sống trong một khơng gian nhất định (huyện An Phú) và q trình
phát triển cụ thể (về thời gian) để làm rõ hiện trạng thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững, chính sách dân tộc, chính sách xã hội khác của Đảng và Nhà nước từ trung
ương và ở tỉnh An Giang, cụ thể đối với việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững đối với đồng bào Chăm huyện An Phú, An Giang, từ đó có những nhìn nhận, đề
xuất bổ sung, điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm phát triển bền vững cộng đồng
Chăm ở An Phú tỉnh An Giang, góp bài học kinh nghiệm giúp phát huy chính sách,
phát triển cộng đồng dân tộc, tộc người ở người Chăm An Phú, An Giang.


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, có thể nói đã có một khối lượng khá đồ sộ các cơng trình
nghiên cứu về người Chăm và văn hóa Chăm ở Việt Nam của các tác giả trong nước
và nước ngoài đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau (sử học, dân tộc học, ngơn ngữ
học, văn học, nghệ thuật, tơn giáo…). Đã có nhiều bài báo khoa học, luận văn viết
về giảm nghèo, giảm nghèo bền vững, cũng như viết về người Chăm ở An Giang ở
các địa phương khác nhau và nhiều góc độ khác nhau.
Về người Chăm ở Nam Bộ, trước năm 1975, cơng trình khảo cứu Người
Chăm Hồi giáo miền Tây Nam phần của Nguyễn Văn Luận (1974) đã nhấn mạnh
đến yếu tố Hồi giáo trong dân tộc, tôn giáo và có đề cập đến mối quan hệ đồng tộc
giữa người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ với người Chăm Hồi giáo ở Campuchia. Có
thể được xem đây như một cơng trình “dân tộc chí” về người Chăm ở Nam Bộ.

2


Sau năm 1975, tìm hiểu nghề đánh bắt cá của người Chăm là hai nghiên cứu
sớm nhất đã cung cấp những tư liệu liên quan đến văn hoá và lịch sử người Chăm ở
An Giang (Mah Mod, 1979 và 1981). Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí
Minh (nay là Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ) đã tổ chức nhiều đợt khảo sát,
điền dã dân tộc học trong vùng người Chăm nói chung và vùng người Chăm ở An
Giang nói riêng. Những kết quả nghiên cứu đã được công bố trong kỷ yếu Những
vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, Tập II (1978) và một số cuộc hội thảo
khoa học được tổ chức vào những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ XX. Tiếp tục
cơng việc nghiên cứu người Chăm có các cơng trình nghiên cứu đã được xuất bản
thành sách, các bài viết trên tạp chí, các luận án tiến sĩ... đề cập đến kinh tế, văn
hóa, xã hội và tơn giáo của họ (Phan Xuân Biên, 1991; Phan Văn Dốp, 1993; Võ
Cơng Nguyện, 1996; Vương Hồng Trù, 2003; Tơn Nữ Quỳnh Trân chủ biên, 2003;
Phú Văn Hẳn, 2005; Phan Văn Dốp và Nguyễn Thị Nhung, 2006…).
Chủ đề được nhiều công trình đề cập đến đối với người Chăm ở An Giang là

đời sống tôn giáo hay việc thực hành đức tin Hồi giáo; về lịch sử hình thành của Hồi
giáo, kinh sách, giáo luật; về các bổn phận căn bản của người tín đồ và việc thực
hành đức tín của tín đồ Hồi giáo Chăm. Đặc biệt là ở tỉnh Châu Đốc cũ (An Giang
ngày nay) với sự xuất hiện của phái “Mới” (Mudơ) (Nguyễn Văn Luận, 1974; Phan
Văn Dốp và Nguyễn Thị Nhung, 2006; Phan Văn Dốp và Vương Hoàng Trù 2011). Các mối quan hệ đồng tộc và đồng tôn giáo ở các nước Campuchia, Thái Lan
và Malaysia được một số cơng trình của Phú Văn Hẳn và một số đồng nghiệp tìm
hiểu, nghiên cứu và coi đây là vấn đề cốt lõi trong quan hệ tộc người và tôn giáo
xuyên biên giới/xuyên quốc gia giữa người Chăm ở An Giang với cộng đồng Hồi
giáo ở khu vực Đơng Nam Á và trên thế giới (Hồng Minh Đơ, 2006; Phú Văn Hẳn,
2009, 2010; Lý Hành Sơn, 2010).
Các vấn đề dân tộc và quan hệ tộc người của người Chăm ở vùng này đã được
ghi lại trong một số tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc như Chân Lạp phong thổ ký của
Châu Đạt Quan (1973)… Tập chuyên khảo (monographie) của các tỉnh Nam Kỳ thời
thuộc Pháp (1902, 1905, 1921, 1927 và 1936) cũng đã mô tả, khảo cứu về thiên nhiên,
lịch sử, dân cư, kinh tế, xã hội, văn hóa… của các địa phương vùng này lúc

3


bấy giờ. Phần ghi chép về người Kinh, người Khmer, người Hoa, người Chăm và
người nước ngoài chiếm một dung lượng đáng kể trong các tập chuyên khảo này.
Trước năm 1975, cịn có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về các tộc người ở
Nam Bộ nói chung. Những cơng trình nghiên cứu sớm về người Kinh, người Khmer,
người Hoa và người Chăm ở vùng này là của các học giả người Pháp như H. Maspero,
L. Malleret, C. Barrault, P. Gourou, G. Coedes, J. Delvert, Laboussière (1880), M. Ner
(1941)… Sau này, Joann L. Schrock và tập thể tác giả (1966) đã kế thừa kết quả nghiên
cứu của người Pháp trước đó để phát dựng một bức tranh tồn cảnh về mơi trường địa
lý, dân số, nguồn gốc tộc người, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của các tộc
người ở miền Nam. Những cơng trình nghiên cứu về các tộc người ở vùng Tây Nam Bộ
của các học giả người Pháp và người Mỹ có giá trị tư liệu quan trọng, góp phần nhận

biết về nguồn gốc và q trình tộc người cũng như quan hệ giữa các tộc người thiểu số
và các nhóm xã hội khác nhau trước năm 1975.

Kết quả nghiên cứu về vấn đề dân tộc và ở dân tộc Chăm từ sau năm 1975
đến nay đã có những đóng góp đáng kể về lý luận và thực tiễn, làm cơ sở khoa học
góp phần vào việc hoạch định chính sách dân tộc và tăng cường khối đại đoàn kết
dân tộc, bảo vệ, xây dựng và phát triển vùng đất này trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập. Những kết quả nghiên cứu về người Chăm đã góp phần làm sáng tỏ các mối
quan hệ tộc người ở vùng Tây Nam Bộ và An Giang.
Nghiên cứu chính sách và tác động xã hội của chính sách đối với các dân tộc
ở An Giang và cụ thể ở huyện An Phú một trong những lĩnh vực nghiên cứu được
chú ý đến trong thời gian gần đây và hiện nay. Các nghiên cứu này thường tiến hành
các cuộc khảo sát, điều tra, điền dã dân tộc học để có cơ sở khoa học cho các nhận
định, tổng kết. Những cuộc khảo sát, điều tra về đời sống vật chất, tinh thần,… đã cung
cấp nhiều số liệu quan trọng về tình hình, thực trạng kinh tế - xã hội ở dân tộc Chăm.
Tình trạng nghèo, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, trình độ học vấn và mặt bằng
dân trí của cộng đồng cư dân đa tộc người vùng Tây Nam Bộ còn thấp là một thực tế,
đặc biệt là đối với người Chăm ở đây. Việc thực thi chính sách dân tộc chưa thật linh
hoạt và hợp lý làm hạn chế sự phát triển kinh tế gắn với phát triển văn

4


hóa, bảo vệ bền vững mơi trường và tài ngun, bảo đảm an toàn sinh kế, an sinh xã
hội, an ninh quốc phòng trong vùng dân tộc thiểu số ở huyện An Phú, An Giang
theo định hướng phát triển bền vững.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm rõ chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng,
Nhà nước ta về chính sách giảm nghèo, việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền

đối với dân tộc thiểu số, cụ thể đối với đồng bào Chăm ở huyện An Phú An Giang.
Thơng qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững, chính sách phát triển kinh tế xã hội và nâng cao công
tác vận động đồng bào Chăm thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước góp phần ổn định đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối
với đồng bào Chăm trên địa bàn huyên An Phú tỉnh An Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách phát triển kinh
tế - xã hội, chính sách dân tộc, tơn giáo, chính sách giảm nghèo của Đảng và Nhà
nước và của địa phương tỉnh An Giang cụ thể vào chính sách mục tiêu giảm nghèo
bền vững đối với đồng bào Chăm trên địa bàn An Phú, An Giang;
- Phân tích, đánh giá thực trạng kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc, tơn giáo, chính sách
giảm nghèo của Đảng và Nhà nước và của địa phương tỉnh An Giang đối với dân
tộc Chăm ở huyện An Phú tỉnh An Giang dưới góc nhìn khoa học chính sách
cơng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững
kết hợp các chính sách phát triển kinh tế xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo liên quan

5


giảm nghèo, giảm nghèo bền vững ở dân tộc Chăm huyện An Phú tỉnh An Giang
dưới góc nhìn khoa học chính sách cơng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với
đồng bào Chăm và các chính sách dân tộc, tơn giáo liên quan phát triển thốt nghèo,

vượt nghèo, giảm nghèo, làm giàu ở dân tộc Chăm tại tỉnh An Giang giai đoạn từ sau
đổi mới đến nay và tập trung vào hai mươi năm đầu của thề kỷ XXI (2000-2020).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở luận
Luận văn dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển
kinh tế xã hội, liên quan dân tộc, tôn giáo và liên quan phát triển giảm nghèo, phát
triển bền vững ở dân tộc Chăm, cụ thể ở huyện An Phú tỉnh An Giang dưới góc nhìn
khoa học chính sách cơng.
Ngồi ra những cơ sở lý luận thuộc chuyên ngành dân tộc học, nhân học và
cũng sẽ được vận dụng phân tích, lý giải trình bày thực trạng giảm nghèo từ chính
sách của Đảng và Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, lơgic, kết
hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn trên cơ sở tài liệu chính sách cơng và
phương pháp nghiên cứu chính sách, nghiên cứu tài liệu chính sách cơng.
Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết (nghiên cứu các
văn bản về chính sách, đường lối của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật, các
quy định của Nhà nước về cơng tác thực hiện chính sách giảm nghèo, công tác tôn
giáo, công tác dân tộc).
Phương pháp thống kê, phân tích số liệu, tổng hợp số liệu, giải thích các
thuật ngữ liên quan được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu được vận dụng.
Phương pháp quan sát kết hợp phỏng vấn khảo sát thực tế để thu thập các
thơng tin về thực tiễn thực hiện chính sách giàm nghèo bền vững đối với người
Chăm trên địa bà huyện An Phú tỉnh An Giang.

6



6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa lý thuyết về chính sách cơng liên quan đến giảm nghèo,
làm rõ vị trí, vai trị, đặc điểm thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững và các chính
sách liên quan như chính sách giảm nghèo bền vững đối với dân tộc Chăm cụ thể ở
huyện An Phú, tỉnh An Giang, góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện chính
sách giảm nghèo. Luận văn góp phần bổ sung cơ sở lý luận chính sách giảm nghèo bền
vững nhằm nâng cao đời sống đồng bào Chăm, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, văn
hóa và mơi trường ở An Phú, An Giang. Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận và thực tiễn,
rút ra bài học từ thực tiễn về hoạt động và thực tiễn chính sách giảm nghèo bền vững
đối với đồng bào Chăm tại địa phương An Phú, An Giang.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn chỉ ra một số hạn chế trong việc thực thi chính sách giảm nghèo
như: xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo đối với người
Chăm; tuyên truyền chính sách; phân cơng phối hợp thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững đối với người Chăm; đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm từ đó cung
cấp những vấn đề có giá trị tham khảo cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách giảm nghèo đối với đồng bào Chăm trên địa bàn huyện An Phú tỉnh An Giang.
Luận văn cung cấp cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban, ngành về công tác giảm
nghèo trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối
với người Chăm ở An Phú tỉnh An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Phụ lục, phần mở đầu, bố cục luận văn theo 03 chương, kết luận, các chương như

sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan chính sách giảm nghèo ở dân
tộc Chăm huyện An Phú tỉnh An Giang.
Chương 2: Hiện trạng giảm nghèo bền vững đối với đồng bào Chăm huyện
An Phú tỉnh An Giang.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững đối với đồng bào Chăm huyện An Phú tỉnh An Giang.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM
NGHÈO BỀN VỮNG Ở DÂN TỘC CHĂM HUYỆN AN PHÚ TỈNH AN
GIANG
1.1. Khái niệm dân tộc, người nghèo, giảm nghèo và phát triển bền vững
Thuật ngữ dân tộc:
Thuật ngữ “dân tộc” ở Việt Nam được hiểu là một cộng đồng chính trị - xã hội,
trong đó bao gồm 54 tộc người cùng cư trú, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam và được
quản lý bởi Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Còn dân tộc - theo nghĩa
hẹp - để chỉ một cộng đồng mang tính tộc người, tương ứng với thuật ngữ tộc người
(ethnic) như dân tộc (tộc người) Kinh (Việt), dân tộc (tộc người) Khmer, Chăm…
Ngồi ra, từ người (People) cịn được dùng vừa có nghĩa là dân tộc (người Việt Nam)
và vừa có nghĩa là tộc người (người Hoa, người Chăm, người Khmer…).

Thuật ngữ dân tộc (tộc người) thiểu số đã được giải thích rõ ràng và được sử
dụng chính thức trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta. Dân tộc Chăm được
sử dụng trong trình bày luận văn được hiểu là dân tộc/ tộc người, một cộng đồng
hiện hữu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thuật ngữ dân tộc (tộc người) bản
địa hay tại chỗ hiện nay vẫn cịn có nhiều ý kiến khác nhau. Các nhà nghiên cứu dân
tộc học ở nước ta thường sử dụng thuật ngữ dân tộc (tộc người) tại chỗ thay cho
thuật ngữ dân tộc (tộc người) bản địa để phân biệt với dân tộc (tộc người) di cư.
Tuy nhiên, nội hàm của thuật ngữ tộc người tại chỗ không phản ánh được một cách
cụ thể và xác thực về sự hình thành và phát triển của các tộc người này.
Các thuật ngữ dân tộc Chăm, đồng bào Chăm sử dụng trong luận văn này

được hiểu tương đương nội dung trong khái niệm đã nêu.
Nghèo và giảm nghèo:
Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo, và nhìn chung các quan niệm đều
được phản ánh trên các khía cạnh: được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức tối
thiểu của cuộc sống con người, mức sống thấp hơn mức trung bình của cộng đồng dân
cư địa phương; thiếu hoặc khơng có cơ hội lựa chọn để tham gia vào quá trình

8


phát triển của cộng đồng. Để làm rõ mức độ nghèo, người ta chia thành 2 loại:
Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối (nghèo thu nhập): Dựa vào mức chi tiêu cần thiết để đảm
bảo một người có thể mua được một lương thực, thực phẩm tương đương 2100 2300 kcalo/người/ngày. Đây là thước đo dễ lượng hóa để mơ tả tình trạng nghèo.
Nghèo tương đối: Những người nghèo tương đối là những người phải đấu
tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm
cách vượt qua sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới tri
thức chúng ta”
Ở Việt Nam chúng ta cũng thấy: “Xã nghèo là xã có trên 40% tổng số hộ
nghèo, khơng có hoặc có rất ít những cơ sở hạ tầng thiết yếu, trình độ dân trí theo tỉ
lệ mù chữ cao”. Cịn về vùng nghèo là chỉ khơng gian có thể là một số xã liền kề
nhau nằm ở vị trí rất khó khăn, khơng có điều kiện phát triển sản xuất đảm bảo cuộc
sống và là vùng có số hộ nghèo cao.
Bên cạnh nghèo hiện nay, ở nước ta còn dùng nhiều đến thuật ngữ tái nghèo
để chỉ những hộ đã thốt được nghèo (theo tiêu chí, tiêu chuẩn trước đó) nhưng sau
do nhiều lý do (tăng chuẩn nghèo…) hoặc do làm ăn thất bát…, lại rơi vào tình
trạng nghèo (tái nghèo).
Khái niệm nghèo có thể thống nhất về mặt định tính song khơng thể thống
nhất về mặt định lượng. Các quốc gia khác nhau, các vùng khác nhau trong một
quốc gia thì mức sống của người dân cũng khác nhau. Định lượng của mức nghèo

cũng biến động theo thời gian tương ứng với sự biến động về sự phát triển KT-XH
theo vùng, theo quốc gia đó.
Tiêu chí xác định nghèo
Khái niệm nghèo không mang ý nghĩa tuyệt đối; Người nghèo ở quốc gia này,
vùng này có thể không nghèo so với quốc gia khác. Các quốc gia khác nhau sử dụng
các tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá mức độ giàu nghèo. Mỗi quốc gia xây dựng một
thước đo mức độ nghèo riêng thông qua những tiêu chí cụ thể được xác định gọi là
chuẩn nghèo và lấy đó làm cơ sở xác định tỷ lệ nghèo của mình. Chuẩn nghèo: là

9


thước đo xác định số lượng người nghèo và đánh giá mức độ nghèo. Vì vậy, chỉ ra
giới hạn nghèo được coi là bước đầu tiên để tiến hành đánh giá về thực trạng nghèo.
Chuẩn nghèo:
Theo đó những người hoặc những hộ có thu nhập hoặc chi tiêu bình qn
đầu người thấp hơn chuẩn nghèo được coi là người nghèo hoặc hộ nghèo. Chuẩn
mực nghèo luôn thay đổi và tùy thuộc vào trình độ phát triển của các quốc gia.
Chuẩn nghèo là số tiền đảm bảo mức tiêu dùng thiết yếu (bao gồm cả lương thực
thực phẩm và phi lương thực thực phẩm) cho 1 người trong 1 tháng.
Ngưỡng nghèo hay mức nghèo:
Ngưỡng nghèo là mức chi dùng tối thiểu, được xác định như tổng số tiền chi
cho giỏ hàng tiêu dùng trong thời hạn nhất định, bao gồm một lượng tối thiểu lương
thực thực phẩm và đồ dùng cá nhân, cần thiết để bảo đảm cuộc sống và sức khỏe
một người ở tuổi trưởng thành, và các khoản chi bắt buộc khác. Đó là cơng cụ để đo
tỷ lệ nghèo trong xã hội, một chỉ số quan trọng phản ánh mức sống của xã hội về
mặt thu nhập cá nhân. Ngưỡng nghèo là ranh giới giúp phân biệt giữa người nghèo
và người khơng nghèo. Mức đó có thể được tính bằng tiền tệ hoặc phi tiền tệ. Có
ngưỡng nghèo tuyệt đối và tương đối.
Ngưỡng nghèo tuyệt đối:

Là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu cần thiết để cá nhân
hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh bao gồm hai loại: Ngưỡng nghèo lương
thực thực phẩm là số tiền cần thiết để mua lương thực, thực phẩm hàng ngày;
Ngưỡng nghèo chung là số tiền cần thiết để mua lương thực, thực phẩm và cả phần
chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực.
Ngưỡng nghèo tương đối: được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu
dùng chung trong cả nước. Ngưỡng nghèo tương đối phản ánh một bộ phận dân cư
sống dưới mức trung bình của cộng đồng.
Tỷ lệ nghèo: là số phần trăm số người hoặc số hộ có mức sống thấp hơn chuẩn
nghèo trong tổng số người hoặc số hộ nghiên cứu. Một số nước chọn thước đo đơn
chiều và thước đo đa chiều. Thước đo đơn chiều:“Thước đo này đo khía cạnh kinh tế

10


của mức sống và được tính theo thu nhập hoặc chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia
đình từ các cuộc điều tra thu nhập, chỉ tiêu hoặc điều tra mức sống hộ gia đình”.

Cũng có một số quốc gia lựa chọn thu nhập làm thước đo đơn chiều, mức
sống cho rằng: Thu nhập phản ánh thực chất mức sống của các hộ gia đình hơn là
chi tiêu. Các nước chọn chi tiêu làm thước đo đơn chiều, mức sống lại cho rằng: Độ
chính xác của số liệu chi tiêu điều tra thường cao hơn so với số liệu điều tra về thu
nhập, mức chi tiêu phản ánh trực tiếp mức sống của các hộ hơn là thu nhập. Trong
khi thu nhập thường có tính ổn định khơng cao trong một thời kỳ nhất định.
Thước đo đa chiều: Xem xét mức sống của dân cư một cách đầy đủ hơn, tồn
diện hơn. Nó đo lường mức sống cả mặt kinh tế lẫn chất lượng cuộc sống theo các
khía cạnh khác nhau như: Tình trạng phi tiền tệ, tình trạng dễ bị tổn thương, rủi ro,
quyền tự do, bị gạt ra ngoài lề xã hội, bị phân biệt đối xử bị vi phạm quyền con
người…Việc đo lường mức sống theo đa chiều là việc xác định các chỉ tiêu để đo
các chiều và việc gộp các chiều thành độ đo đơn hay để riêng từng chiều và sử dụng

trọng số của các chiều. “Tuy nhiên, do khó khăn về số liệu nên trong thực tế thước
đo nghèo đa chiều chỉ đo lường sự phát triển con người về 3 chiều: tuổi thọ bình
quân, trình độ học vấn và chất lượng cuộc sống đo bằng GDP thực tế bình quân
đầu người tính theo sức mua tương đương (Purchasing Power Parity -PPP$)”.
Rõ ràng, thước đo nghèo đơn chiều và thước đo nghèo đa chiều về đều có
những ưu nhược điểm hay tác động đến giảm nghèo khác nhau. Thước đo nghèo
đơn chiều giải quyết các vấn đề nghèo một cách ngắn hạn trong khi thước đo đa
chiều giải quyết nghèo ở dài hạn.
Chính sách giảm nghèo:
Chính sách ở đây được hiểu là chính sách cơng. Hiện nay trên thế giới khái
niệm chính sách công cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. “Chính sách cơng
là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn
mục tiêu cụ thể và giải pháp, công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội
theo mục tiêu tổng thể đã xác định”.

11


Khái niệm “chính sách” và “chính sách cơng” được dùng rất phố biến trong
các lĩnh vực đời sống kinh tế và xã hội ở mọi quốc gia. Hiện nay, có nhiều định
nghĩa khác nhau về các khái niệm này.
Tóm lại, dù có nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau từ nhiều góc độ
xem xét, có thể tạm đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
Chính sách là những quyết định hướng đến hành động của chủ thể quản lý
với các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển để nhằm đạt mục tiêu
nhất định cho hệ thống hoặc tổ chức. Theo Hồ Việt Hạnh, chính sách cơng là những
quyết định của chủ thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề vì
lợi ích chung của cộng đồng. [Hồ Việt Hạnh (2017) “Bàn về khái niệm chính sách
cơng”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 17, tr. 3-6]. Theo Văn Tất Thu, chính
sách cơng là chính sách của nhà nước đối với khu vực cơng cộng, phản ánh bản

chất, tính chất của nhà nước và chế độ chính trị trong đó nhà nước tồn tại; đồng thời
phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách xử sự của đảng chính trị phục vụ cho mục
đích của đảng cầm quyền, lợi ích và nhu cầu của nhân dân [Văn Tất Thu (2017)
“Bản chất, vai trị của chính sách cơng”]. Theo Vũ Mạnh Tồn (2019), chính sách
cơng là một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn
đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định [Nguyễn
Ngọc Toàn (2019) Bài giảng xây dựng chính sách cơng, Học viện khoa học xã hội]
Với cách tiếp cận này chính sách công được xem xét và được thể hiện bởi
những yếu tố đặc trưng như: Chính sách cơng là tất cả những cơng việc mà chính
quyền thi hành đến dân; Là ý chí của nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
nhằm thực hiện mục tiêu theo định hướng chính trị; Là những tác động mang tính
cộng đồng vì lợi ích chung của quốc gia dân tộc; Mang tính hệ thống và đảm bảo
thực thi để các cơ quan quyền lực và hệ thống hành chính từ Trung ương đến địa
phương; Thể hiện ý chí chính trị của chủ thể ban hành và thường gắn với các đảng
phái chính trị lãnh đạo cầm quyền.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, chủ thể chính sách là các cơ quan ban hành và
thực thi chính sách gồm Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các Bộ ngành; khách thể chính

12


sách hay đối tượng điều chỉnh của chính sách là những cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp, hộ gia đình mà chính sách sẽ tác động vào.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xác định: “là một
tập hợp những quan điểm, đường lối, chính sách và những giải pháp thực hiện của
nhà nước, tác động trực tiếp đến các dân tộc và mối quan hệ dân tộc đang tồn tại”
(Lê Ngọc Thắng, 2005, tr. 97 - 98). Tại Việt Nam, chính sách dân tộc ln được các
chế độ chính trị đương thời trong lịch sử quan tâm theo những quan điểm và cách
thức riêng. Chính sách dân tộc chủ yếu áp dụng cho các dân tộc, tộc người thiểu số,
những đối tượng được xem là nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội. Dưới sự

lãnh đạo của Đảng mỗi một chính sách ra đời đều do nhu cầu khách quan của tình
hình thực tiễn đặt ra, có nội dung và mục đích riêng nhằm nâng cao hiệu quả lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Cịn chính sách xã hội quan tâm đến mọi
thành viên trong một quốc gia, không kể tộc người đa số hay tộc người thiểu số, chú
trọng và hướng tới việc thực hiện quyền bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội.
Chính sách xã hội khơng đồng nhất với chính sách dân tộc, mà nó chỉ tác động đến
mối quan hệ tộc người với tư cách là đối tượng xã hội và chính sách dân vận là
chính sách thể hiện những chủ trương, sách lược, kế hoạch tổ chức và vận động
quần chúng, xây dựng các đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội… nhằm nâng cao
chất lượng đời sống vật chất, tinh thần và góp phần quan trọng để thực hiện đoàn
kết dân tộc… (Lê Ngọc Thắng, 2005, tr.46 - 48).
Theo các nghiên cứu cho thấy, “Chính sách giảm nghèo có thể hiểu là những
quyết định, quy định của Nhà nước được cụ thể hoá trong các chương trình, dự án
cùng với nguồn lực, vật lực, các thể thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác
động vào các đối tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với mục
đích cuối cùng là giảm nghèo”.
1.2. Quy trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào Chăm

Để thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững mang lại kết quả và hiệu quả
như mong muốn được thực hiện theo quy trình 7 bước cụ thể như sau:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững

13


Việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đồng bào Chăm An Phú An
Giang là việc làm lâu dài, do đó cần xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể để các
cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chủ động và đồng bộ. Kế hoạch được xây
dựng dựa vào điều kiện, mức sống cụ thể hiện tại của đồng bào Chăm để khi triển

khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đồng bào Chăm được tiếp cận
nhanh chóng, ổn định cuộc sống. Chính sách phải được triển khai từ trung ương đến
địa phương một cách sớm nhất.
Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách giảm nghèo bền vững
Để tham gia q trình phổ biến, tun truyền chính sách giảm nghèo thể hiện
qua các mặt sau:
- Đội ngũ cán bộ trong bộ máy cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ cần chủ
đổng phổ biến, tuyên truyền. Cán bộ phải được đào tạo có đủ trình độ, kinh nghiệm, kỹ
năng trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách giảm nghèo bền vững, khi được phổ
biến, tuyên truyền phải đảm bảo tính trung thực, khách quan những nội dung chính
sách đã được hoạch định. Cán bộ khi phổ biến, tun truyền chính sách phải có

thái độ cầu, thị cần với nhân dân khi triển khai thực hiện.
- Các đối tượng được phổ biến, tuyên truyền chính sách là những cơng dân
được hưởng chính sách giảm nghèo bền vững trực tiếp, đây là đối tượng thụ hưởng
cũng như những công dân, tổ chức bị tác động gián tiếp bởi chính sách, đặc biệt là
đối với đồng bào Chăm huyện An Phú An Giang, đây là những nhân tố góp phần
làm cho chính sách đạt hiệu quả; những đối tượng tham gia thực thi, triển khai
chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào Chăm.
Bước 3: Phân công, phối hợp trong tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững
- Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách
một cách chủ động, sáng tạo để ln duy trì chính sách được ổn định, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.
- Phân cơng, phối hợp các cơ quan, chính quyền nhằm thực hiện mục tiêu của
chính sách diễn ra cũng hết sức phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian. Tác
động đến lợi ích của các bộ phận dân cư theo các hướng khác nhau. Có bộ phận

14



được hưởng lợi nhiều, có bộ phận được hưởng lợi ít, có bộ phận khơng được hưởng
lợi, thậm chí cịn bị tác động tiêu cực. Đăc biệt Nhà nước giữa vai trò chủ đạo cùng
phối hợp với các ban ngành, đoàn thể phối hợp thực hiện nhằm làm sao thực hiện
hiệu quả các chính sách đem lại lợi ích cho đồng bào Chăm.
Bước 4: Duy trì chính sách giảm nghèo bền vững
Duy trì chính sách giảm nghèo bền vững là làm cho chính sách tồn tại được và
phát huy tốt tác dụng trong môi trường thực tế. Thực hiện một số nội dung như sau:

- Cụ thể hóa nội dung triển khai bằng các văn bản mang tính pháp lý – quy
định rành mạch, hợp lý trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể thực hiện; tránh tình
trạng lẫn lộn quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện.
- Tổ chức phối hợp thống nhất, hiệu quả, đồng bộ (giữa cơ quan chủ trì với
cơ quan khác; giữa cơ quan nhà nước với nhân dân).
- Đảm bảo các điều kiện về nhân lực, vật lực, tài lực và các phương tiện kỹ
thuật hỗ trợ.
- Đảm bảo kế hoạch hóa về thời gian và quy trình thủ tục thực hiện.
- Đảm bảo sự thống nhất giữa việc kiên trì mục tiêu chính sách cơng với việc
sáng tạo trong khi sử dụng các biện pháp, hình thức, chương trình hành động cụ thể
thích hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, ngành.
- Chống bệnh quan liêu, hình thức trong q trình thực hiện chính sách.
Bước 5: Điều chỉnh thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực
thi chính sách giảm nghèo bền vững, ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình
hình thực tế. Cơ quan nhà nước các ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp,
cơ chế chính sách để thực hiện có hiệu quả chính sách, miễn là khơng làm thay đổi
mục tiêu chính sách và phải kiểm tra, theo dõi, đôn đốc thực thi theo quy định.
Bước 6: Đơn đốc, theo dõi kiểm tra việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững.
Kiểm tra thường xuyên giúp cho nhà quản lý nắm chắc đước tình hình thực hiện

chính sách kịp thời bổ sung, hồn thiện chính sách, chấn chỉnh cơng tác tổ chức thực
hiện chính sách, nâng cao hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách, phát hiện xử

15


lý kịp thời các vi phạm chính sách.
Như vậy, giúp cho nhà nước nắm bắt được tình hình thực hiện chính sách, từ đó đánh
giá được một cách khách quan về những điểm mạnh, điểm yếu của công tác tổ chức
thực hiện chính sách; giúp phát hiện những thiếu sót trong công tác lập kế hoạch tổ
chức thực hiện để điều chỉnh; tạo điều kiện phối hợp nhịp nhàng các hoạt động giữa các
cơ quan, đối tượng thực hiện chính sách; tạo ra sự tập trung thống nhất trong việc thực
hiện mục tiêu chính sách; kịp thời khuyến khích những mơ hình giảm nghèo phù hợp,
mang lại kết quả để tạo ra những phong trào thiết thực…. Việc kiểm tra vừa giúp chính
sách được từng bước hồn thiện và có mang tính dân chủ, khách quan.

Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững
Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm là khâu vô cùng quan trọng để đưa ra giải
pháp thiết thực để thực hiện, nhằm thực hiện chính sách bao gồm các đối tượng thụ
hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã
hội với tư cách là cơng dân.
Trong q trình thực hiện kế hoạch và những nội quy, quy chế đề ra để làm
cơ sở đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành, thực hiện chính sách; tổng kết
đánh giá, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách có thể đánh giá từng phần
hay tồn bộ (sơ kết, tổng kết) hoặc đánh giá giữa kỳ. Đây là bước đo lường kết quả
và hiệu quả của một chính sách trong thực tế sau khi đã đưa chính sách vào thực thi.
Với mục tiêu khả thi của chính sách là giảm nghèo bề vững.
*Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách giảm nghèo đối với
đồng bào Chăm

Nghèo là một hiện tượng có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con
người, xã hội và cộng đồng. Muốn giảm nghèo đạt kết quả cao nhất, bền vững cần
xác định đúng nguyên nhân nghèo của từng nhóm người, hộ mỗi địa phương, khu
vực trong quốc gia, từ đó có sự tác động trực tiếp vào nguyên nhân gây ra nghèo để
thực hiện có hiệu quả việc giảm nghèo. Các nguyên nhân dẫn đến nghèo như các
nguyên nhân thuộc về kinh tế, xã hội, thể chế, môi trường và địa lý…

16


Có nguyên nhân nghèo khách quan và nghèo chủ quan.
Nguyên nhân khách quan: được cho là do điều kiện tự nhiên như khí hậu,
thời tiết khơng thuận lợi, do đất đai cằn cỗi, địa hình dốc đồi hiểm trở khó canh tác,
do sinh sống ở vùng sâu vùng xa chưa có các tuyến đường giao thơng đi lại, do
thiên tai, dịch bệnh bất ngờ… Hoặc do xuất phát điểm nền kinh tế thấp hoặc nền
kinh tế kém phát triển. Cơ sở hạ tầng tối thiểu (giao thông thủy lợi thông tin điện
thắp sáng, nước sinh hoạt) chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, thiếu thị trường để
lưu thông hàng hóa.
Cịn nghèo có ngun nhân chủ quan là do bản thân người nghèo có trình độ
dân trí thấp, trình độ học vấn trình độ chun mơn kỹ thuật thấp, do thiếu kinh
nghiệm làm ăn hoặc không biết cách làm ăn, do lười biếng, nghiện ngập, do sức
khỏe do gia đình đông con cái, gặp phải rủi ro tai nạn ốm đau, do thiếu hoặc khơng
có khả năng lao động, do thiếu hoặc khơng có vốn… Ngồi ra cịn do một phần chủ
quan của các cấp chính quyền như thiếu năng lực trình độ chun mơn hiểu biết,
kinh nghiệm cũng như khả năng tài chính để có thể thường xun chăm lo quan tâm
giúp đỡ hỗ trợ người nghèo giảm thiểu khó khăn…
Ngun nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc khơng đồng bộ về
chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách
khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nơng, lâm,
ngư, chính sách trong giáo dục đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh định cư,

kinh tế mới và nguồn lực đầu tư cịn hạn chế. Trong có ngun nhân về kinh tế được
cho là quan trọng nhất, trình độ phát triển kinh tế của một nước, một vùng quyết
định đến mức sống của người dân nước đó, vùng đó… Tuy nhiên khơng chỉ một
nguyên nhân biệt lập riêng rẽ mà có thể dẫn tới nghèo lâu, nghèo trên diện rộng
được, mà nguyên nhân nghèo là có từ sự đan xen giữa chủ quan và khách quan.
Để đánh giá được tình trạng nghèo trước tiên cần phải hiểu các nhân tố tác động
đến kết quả giảm nghèo, các nhân tố ở đây không chỉ đơn thuần về nhân tố kinh tế,
thiên tai, địch họa gây ra mà tình trạng nghèo cịn có sự đan xen giữa cái tất yếu và cái
ngẫu nhiên của cả những nguyên nhân sâu xa, lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan
lẫn chủ quan, cả tự nhiên lẫn xã hội, nên phải đánh giá đúng các nhân tố

17


ảnh hưởng đến nghèo. Đối với người nghèo nhìn chung do các yếu tố ảnh hưởng
đến nghèo thường là: thiếu vốn; khơng có kinh nghiệm; thiếu việc làm; đất canh tác
ít; trình độ văn hóa thấp, trình độ chun mơn kém; sức khỏe kém… Đó là những
yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người nghèo. Có thể chia các nhân
tố ảnh hưởng đến kết quả giảm nghèo thành các nhóm nhân tố kinh tế/ phi kinh tế.
- Nhóm các nhân tố kinh tế bao gồm các yếu tố đầu vào hay còn gọi là nguồn
lực, như vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ và các yếu tố khác
như: quy mô sản xuất, các hình thức tổ chức kinh tế, mối quan hệ tác động qua lại giữa
các ngành nghề, quan hệ cung cầu và thị trường tiêu thụ…Cụ thể liên quan

đến vốn, lực lượng lao động, tài nguyên thiên nghiên và khoa học cơng nghệ.
- Nhóm các nhân tố phi kinh tế ảnh hưởng khơng nhỏ đối với kết quả giảm
nghèo, bởi vì các nhóm như dân tộc, tơn giáo, đặc điểm văn hóa mang tính vơ hình, khó
có thể lượng hóa. Tuy nhiên ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, thì nhóm nhân tố
này được thể hiện rõ nét, liên quan dân tộc, tơn giáo và văn hóa… Bởi, mỗi một dân tộc
có tập quán khác nhau, nên sẽ có nhu cầu văn hóa, kinh tế, sản xuất khác nhau. Muốn

giảm nghèo được thì cần phải biết huy động và khai thác tiềm năng kinh

tế, xã hội, của các dân tộc vào mục tiêu chung của xã hội để mỗi dân tộc đều được
hưởng lợi ích từ đóng góp đó. Nếu giảm nghèo mà chỉ đem lại lợi ích cho dân tộc
này mà gây ảnh hưởng tác hại đến dân tộc khác thì đó là ngun nhân dễ gây xung
đột giữa các dân tộc với nhau. Ở khía cạnh tơn giáo, mỗi tơn giáo đều có quan niệm,
triết lý, tư tưởng riêng và thường tạo ra một tâm lý xã hội biệt lập. Nếu chính sách
tơn trọng tín ngưỡng và phát triển tơn giáo đúng đắn thì sẽ tạo ra sự hịa hợp giữa
các tơn giáo để nó trở thành nhân tố ảnh hưởng tích cực đến kết quả phát triển KTXH và giảm nghèo bền vững. Trong quá trình phát triển thấy rõ: văn hóa văn minh
của một dân tộc tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Văn hóa dân
tộc và tơn giáo là ba yếu tố có mối quan hệ gắn bó với nhau. Và cuối cùng, thể chế
chính trị và đường lối phát triển KT-XH được coi là có mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, do đó ý chí của giai cấp lãnh đạo thể chế
chính trị thơng qua hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia sẽ thúc đẩy và kìm hãm sự
tăng trưởng và phát triển bền vững.

18


1.2.2. Thực hiện chính sách dân tộc ở vùng đồng bào Chăm
Đối với huyện An Phú, tỉnh An Giang, thực hiện Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg,
ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ, về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở
và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, giai
đoạn 2013-2015, có Quyết định số 261/QĐ-UBND ngày 09 tháng 2 năm 2014 của Ủy
ban nhân dân tỉnh An Giang, về việc phê duyệt Đề án thực hiện chính sách hỗ trợ giải
quyết đất ở và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn huyện An Phu, giai đoạn 2014 - 2015. Tiếp theo đó An Giang ban hành Quyết
định số 6611/QĐ-UBND ngày 31/12/2013, về việc thành lập Ban điều hành Đề án
“Thực hiện chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở và giải quyết việc làm cho đồng bào dân
tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn huyện An Phu, giai đoạn 2014 – 2015”. Từ năm

2014 đến nay tỉnh An Giang tổ chức khảo sát, bình xét tại ấp đồng thời thơng qua Hội
đồng xét duyệt, lập danh sách, đề nghị được 19 hộ nghèo dân tộc Chăm được hỗ trợ về
đất và kết quả đã Hỗ trợ về đất ở cho 19 hộ dân tộc Chăm (Năm 2014 là: 12 hộ = 396
triệu đồng (NSTW 360 triệu đồng, NS tỉnh 36 triệu đồng); Năm 2015 là: 06 hộ = 198
triệu đồng (NSTW 180 triệu đồng, NS tỉnh 18 triệu đồng); Năm 2017 là: 01 hộ = 33
triệu đồng ( NSTW 30 triệu đồng, NS tỉnh 3 triệu đồng). Đến nay các hộ này trên vẫn
chưa được cấp giấy công nhận quyền sử dụng đất. Các hộ chuyển nhượng và nhận tiền
qua kho bạc huyện. Vể hỗ trợ vay vốn để tạo việc làm, phát triển sản xuất, tại địa
phương có đề nghị về trên là 65 hộ có nhu cầu hỗ trợ vay vốn chuyển đổi ngành nghề
đến nay vẫn chưa được duyệt. Về Chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt theo Quyết định số
755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ, tại Vĩnh Trường, An Phú An
Giang, phần lớn các hộ dân của đồng bào dân tộc Chăm đã được sử dụng điện, nước
máy sinh hoạt đến từng hộ dân. Thực hiện Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg, ngày
18/3/2011 (Quyết định số 56/2013/QĐ-TTg) của Thủ tướng Chính phủ, về chính sách
đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số từ năm 2016-2017. Thực hiện
chính sách này, tại Vĩnh Trường, hằng năm ban ấp rà soát, tổ chức hội nghị nhân dân
lấy ý kiến người dân và lập danh sách gửi về UBND xã, từ đó UBND xã tổng hợp và
phê duyệt danh sách các vị có uy tín gửi về Phịng dân tộc huyện đến nay được 01
người có uy tín. Các chính sách đối

19


với người có uy tín được quan tâm thực hiện tốt, được tham dự các lớp tập huấn về
kỹ năng tun truyền, vân động, triển khai các Chương trình, chính sách dân tộc,
các văn bản luật, được thơng tin tình hình kinh tế xã hội…Bên cạnh UBND xã phối
hợp với Phòng dân tộc huyện đến thăm hỏi trong các dịp tết Nguyên đán, tết dân tộc
Chăm. Hướng trước tiên thực hiện mục tiêu giảm nghèo đối với dân tộc Chăm, thể
hiện qua các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã kịp thời giải quyết
những vấn đề bức xúc về đất ở, nước sinh hoạt, đào tạo nghề,... tạo điều kiện cho

các hộ nghèo, hộ khó khăn được an tâm lao động sản xuất, vươn lên thốt nghèo
góp phần vào sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, đảm bảo an ninh quốc phịng, hệ
thống chính trị được củng cố vững chắc. Tuy nhiên, do một số chính sách còn bất
cập, chưa phù hợp với địa phương như: hỗ trợ vốn vay chuyển đổi ngành nghề, lao
động đi học nghề được hưởng các chính sách quy định tại Quyết định 1956/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 27/11/2009 về “ Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020” số lao động khi học xong thì khơng có việc làm.
Hiện nay đồng bào dân tộc Chăm khá nhiều người đi bn bán ngồi tỉnh, lao động
trong các Công ty về Củ Chi sinh sống. Về hỗ trợ đất ở địa phương đã được hỗ trợ
19 hộ, đến nay số hộ cất nhà trên nền được 10 hộ, 01 hộ chết còn lại 08 hộ chưa cất
nhà với lý do chưa có tiền di dời và một số đi lao động ngoài tỉnh…đang nhờ sự hỗ
trợ của nhà nước và các nhà mạnh thường quân.
Nghiên cứu để có những đánh giá khoa học, có hành động phù hợp thiết thực
giảm nghèo đối với người Chăm ở Vĩnh Trường và người Chăm ở An Phú, An
Giang tiếp tục địi hỏi nghiên cứu khoa học chun ngành chính sách cơng có những
phân tích làm rõ sẽ là nhiệm vụ nghiên cứu đề tài luận văn, để luận văn đi vào cuộc
sống của đồng bào Chăm.
Xóa nghèo, vượt nghèo đối với đồng bào Chăm ở Vĩnh Trường là một vấn đề
quan trọng trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế xã hội ở địa phương An Phú
An Giang. Hiện nay, với chiến lược “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch họ
đang tìm cách khống chế, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng vấn đề dân tộc
tơn giáo để cơng kích, tun truyền, xuyên tạc lịch sử vùng đất Tây Nam Bộ Việt
Nam, để đòi ly khai, tự trị gây chia rẻ Khối đại đoàn kết dân tộc. Các tổ chức phản

20


động lưu vong ở nước ngồi, họ tìm cách phát tán tài liệu, băng đĩa ghi âm, ghi hình,
kích động các phần tử q khích trong dân, đồng bào có đạo, và các đối tượng đội lốt
chức sắc tôn giáo tăng cường hoạt động truyền đạo trái phép, dùng vật chất lơi kéo tín
đồ, hoặc lợi dụng những sơ hở, yếu kém của chính quyền địa phương trong quản lý

Nhà nước để vu khống Đảng, Nhà nước ta vi phạm nhân quyền dân tộc, tôn giáo.

Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW/1990 của Bộ Chính
trị “về cơng tác tơn giáo trong tình hình mới”; Chỉ thị số 68 của Ban bí thư ngày
18/04/1991: “về cơng tác nhà ở vùng đồng bào dân tộc Khmer”, Chỉ thị 37CT/TW/1998; các văn kiện của các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi
mới… Để thực hiện công tác dân tộc tơn giáo có hiệu quả đối với đồng bào dân tộc
thiểu số cả nước nói chung và tỉnh An Giang nói riêng. Tỉnh An Giang đã cụ thể hố
nội dung nghị quyết thành những chủ trương, chính sách, pháp luật xây dựng thành
chương trình hành động cụ thể, bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Song
đơi lúc đơi nơi vẫn cịn thiếu sót, đó là nhận thức về quan điểm, nguyên tắc, chủ
trương đổi mới của Đảng và Nhà nước trong một số cán bộ làm công tác dân tộc tơn
giáo vẫn cịn yếu, chưa đủ khả năng để giải quyết các vấn đề có liên quan đến tơn
giáo; cơng tác vận động đồng bào tín đồ Phật giáo Nam tơng Khmer cịn chưa thống
nhất, chưa phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ tỉnh, huyện đến
xã, đồng thời chất lượng các tổ chức cơ sở đồn thể cịn nhiều yếu kém.
Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách giảm nghèo đối
với đồng bào Chăm theo đạo Hồi giáo ở tỉnh An Giang, và phát huy những mặt tích
cực, hạn chế những mặt tiêu cực của nó; xây dựng niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, huy
động được đông đảo đồng bào Chăm vào thực hiện sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”, qua đó thể hiện được ước nguyện “sống tốt đời đẹp
đạo” của đông đảo đồng bào Chăm là vấn đề bức xúc hiện nay. Do đó, nghiên cứu việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng
và Nhà nước về công tác dân tộc, tơn giáo nhằm thực hiện tốt chính sách giảm nghèo
của tỉnh An Giang đối với đồng bào Chăm là vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp, tế nhị.
Nhưng với mong muốn có thể góp sức của mình vào công tác quan trọng của địa
phương, nên tôi đã chọn đề tài “Thực hiện Chính sách giảm nghèo

21



bên vững đối với đồng bào Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang huyện An Phú” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp cho mình, trên cơ sở đó để hiểu thêm việc thực hiện chính
sách cơng cụ thể tại địa phương trong việc giảm nghèo, nhằm phát huy thành tựu đã
đạt được, khắc phục những hạn chế của công tác giảm nghèo ở vùng dân tộc, biên
giới cụ thể trên địa bàn huyện An Phú, An Giang, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao công tác thực hiện chính sách tơn giáo đối với đồng bào Chăm trong
sự nghiệp đổi mới để thực hiện đúng với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
1.3. Vài nét về người Chăm ở An Phú, An Giang
Quá trình hình thành cộng đồng người Chăm ở An Phú, An Giang diễn ra
dưới tác động của nhiều nguyên nhân trong lịch sử, đặc biệt là từ thế kỷ XVIII đến
giữa thế kỷ XX. Theo các tài liệu lịch sử thì người Chăm ở vùng này có tổ tiên là
những người Chăm ở vùng Trung Bộ Việt Nam với nhiều đợt di cư khác nhau trong
khoảng thời gian từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế
kỷ XIX, một bộ phận người Chăm ở Campuchia đã theo các chúa Nguyễn và triều
Nguyễn trở về, lập nghiệp cùng với cộng đồng Chăm đã cư trú trước đó, dọc theo
sơng Hậu thuộc tỉnh An Giang.
Ở An Giang, người Chăm tụ cư trên các cù lao và hai bên bờ sông Hậu, phân bố
thành bảy làng là Katambong, Châu Giang, Phum Soài, Lama, Koh Goi, Koh Kia,

Sabâu, đoạn từ biên giới Việt Nam - Campuchia đến cù lao Katambong (xã Khánh
Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang).
Tất cả các ấp Chăm ở An Phú, An Giang đều là cộng đồng Hồi giáo (Islam), tạo
thành một đơn vị hành lễ gọi là “Jammaah” (tương tự cộng đồng làng của người Việt).
Mỗi làng hay mỗi Jammaah đều có một ngơi thánh đường để tín đồ Islam người Chăm
đến làm lễ và làm nơi sinh hoạt cộng đồng của làng. Tại một số làng có qui mơ lớn bao
gồm nhiều xóm (puk) thì mỗi xóm cũng có người đại diện cho cư dân trong xóm gọi là
ahly (trưởng xóm). Cư dân Chăm cùng Jammaah gắn bó với nhau thơng qua các sinh
hoạt tôn giáo, quan hệ huyết thống, quan hệ hơn nhân, quan hệ láng giềng, góp phần
cho sự bền vững của cộng đồng. Người Chăm ở An Phú, An Giang là cộng đồng người

Chăm Hồi giáo ở tỉnh, có quan hệ đồng tộc, đồng tôn giáo với

22


×