Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tài liệu Hệ tiêu hoá Bò sát (Reptilia) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.21 KB, 13 trang )

Hệ tiêu hố Bị sát
(Reptilia)

1. Khoang miệng hầu
Khoang miệng hầu của bị sát
phân hóa hơn lưỡng cư: Khoang
miệng có xương hàm rất phát triển,
hàm dưới khớp động với sọ, tạo khả
năng há miệng rộng để bắt mồi lớn.
Răng nói chung kèm phát triển, đồng
hình có thể thay thế, phân hóa thành
răng độc, chức năng giữ mồi và tê liệt


mồi (rắn). Trong khoang miệng có
nhiều tuyến tiết chất nhầy, tuyến
nước bọt phát triển giúp việc tẩm
ướt mồi phát triển hơn so với
lưỡng thê trừ cá sấu và nhóm rùa biển
bắt mồi ở nước nên có tuyến nước bọt
khơng phát triển. Ở rắn tuyến nọc độc
do tuyến nước bọt biến đổi.
Lưỡi rùa và cá sấu ẩn trong miệng,
một số nhóm như bộ Có vảy (thằn lằn,
rắn) có lưỡi phát triển, thị được ra
ngồi miệng. Rắn có một khe nhỏ ở
mơi trên nên có thể thị lưỡi qua khe
mà khơng cần mở miệng. Lưỡi rắn dài
và chẻ đôi.



Khoang miệng rắn có răng độc (theo
Hickman)
1. Răng độc; 2. Lỗ phóng chất độc; 3.
Lỗ mũi; 4. Hố má; 5. Ống chứa chất
độc; 6. Tuyến độc; 7. Khe họng
Nhiều loài thằn lằn, tắc kè ... phóng
lưỡi ra để bắt mồi. Ðáng kể nhất là tắc
kè hoa (Chamaeleo) thường gặp ở
Madagascar, Châu Phi, Ấn Ðộ, Nam
Tây Ban Nha. Tắc kè hoa có chiều dài
thân từ 25 - 35cm, nhưng lưỡi có thể
dài bằng 1/2 chiều dài thân. Hai mắt
có cuống và có khả năng đảo độc lập


theo các hướng khác nhau. Khi phát
hiện được con mồi, tắc kè hoa mở
miệng, phóng nhanh lưỡi về phía con
mồi, đầu lưỡi dính chặt lấy mồi, sau
đó thu nhanh lưỡi có mồi vào miệng
(hình 19.9).
Cá sấu khi gặp mồi lớn thì dùng đơi
hàm ngoạm lấy con mồi, lắc cho con
mồi đến chết mới thôi. Trường hợp
mồi ngoan cố cự lại hoặc không chết
ngay, cá sấu dùng đuôi quật vào con
mồi hoặc lấy cả thân mình nặng nề đè
lấy con vật. Ở rùa, khi bắt được mồi
lớn thì khơng nuốt được, nên dùng mỏ
sừng ở trên hàm và vuốt nhọn, khỏe ở

đầu ngón chân để xé mồi. Có lồi rùa
trước khi ăn phải nghiền thức ăn bằng
bộ hàm phẳng có rãnh dọc xẻ răng
cưa.


Loài Chamaeleo chamaeleo đang bắt
mồi bằng lưỡi dài (theo Hickman)
Rùa biển miệng rộng bắt mồi bằng
cách mở miệng ra tạo thành một
dòng nước mang theo những con
mồi vào miệng rùa và bị rùa đưa vào
bụng.Một số lồi rắn khơng độc, sau
khi cắn được con mồi, trước hết nó
dùng nửa thân phía sau quấn lấy con
mồi mấy vịng làm cho nghẹt thở rồi
mới tiến hành động tác nuốt. Loài trăn
khi nuốt động vật lớn cũng thực hiện
như trên.


Các lồi rắn độc có móc độc ở phía
trước hàm. Khi cắn mồi thì lập tức
nọc độc theo ống hay rãnh mà tiết vào
cơ thể con mồi làm cho nó bị tê liệt,
ngừng phản ứng chống cự đến khi con
mồi chết hẳn thì mới chịu nuốt mồi.
Trong thành phần của nọc độc, ngoài
độc tố làm tê liệt thần kinh, phá hại hệ
tuần hồn, cịn có rất nhiều men tiêu

hóa quan trọng làm phân giải tổ chức
động vật.
Một số lồi có móc độc phía sau như
rắn ri cá, ri voi... khi đớp được mồi,
thì rắn phải dùng hàm cố đẩy con mồi
vào sâu trong miệng để móc độc phía
sau có thể đâm vào con mồi. Nọc độc
của những loài rắn này yếu, có khi
phải cần 5 - 7 phút mới giết chết con
mồi. Sau khi con mồi đã chểt, rắn mới


nhả mồi ra, tìm đầu con vật để nuốt.
Các rắn độc và trăn lúc bắt mồi
có thể ngoạm vào bất kỳ chỗ nào
của con mồi, nhưng khi nuốt bao
giờ cũng nuốt đầu con mồi trước. Sau
đó rắn dùng các răng dài, kết hợp với
xương hàm trên, xương hàm dưới
thay thế nhau đẩy thức ăn về phía sau
qua thực quản đến dạ dày.
2. Thực quản
Là một ống có thành mỏng, có nhiều
nếp gấp dọc nên rất đàn hồi, có thể
nuốt mồi lớn (rắn, thằn lằn...). Có độ
dài lớn hơn của Lưỡng cư. Riêng ở
rùa biển mặt trong của thực quản có
gai sừng, có đỉnh hướng về phía sau
nên có thể cho nước đi qua và giữ
thức ăn lại.



3. Dạ dày
Bị sát dạ dày có cơ khỏe phân hóa
tương đối rõ, biệt lập với ruột, màng
nhầy của dạ dày có nhiều tuyến vị
khác với tuyến màng nhày của thực
quản. Riêng ở cá sấu, dạ dày có một
phần biến đổi thành mề như ở chim,
bên trong có chứa các viên sỏi, đá
giúp cho q trình tiêu hố cơ học.
4. Ruột
Có sơ đồ cấu tạo chung. Sau dạ dày là
ruột trước (ruột non), chỗ chuyển tiếp
giữa dại dày và ruột trước có van hạ
vị. Tiếp theo là ruột giữa (ruột già),
trung gian có manh tràng (ruột bít).
Manh tàng phát triển mạnh ở rùa cạn
ăn thực vật và ở cá sấu có uốn khúc.
Ruột sau (ruột thẳng) đổ trực tiếp vào


huyệt. Chiều dài thay đổi theo thức
ăn.
5. Tuyến tiêu hoá
- Gan lớn, khơng phân thuỳ và dài (ở
bị sát dạng rắn), hay phân thuỳ ở các
lồi khác. có túi mật lớn.
- Tuỵ hình lá, dày nằm ngay ở khúc
ruột tá. Lá lách là một thể màu đỏ

nằm sau dạ dày .
- Sự tiêu hóa thức ăn của bị sát và đặc
biệt là rắn rất mạnh. Rắn có thể tiêu
hóa hết xương động vật, chỉ cịn lại
như lơng chim, lơng thú và móng
sừng các phần này sẽ được bài tiết
theo phân ra ngồi. Tốc độ tiêu hóa
rắn phụ thuộc vào con mồi lớn hay
nhỏ và tuỳ thuộc nhiệt độ môi trường.
Nhiệt độ thích hợp sẽ làm gia tăng


hoạt tính các dịch tiêu hóa. Nhiệt độ
gia tăng sẽ làm tốc độ tiêu hóa mau
cịn ngược lại khi nhiệt độ giảm
xuống thì tốc độ này sẽ chậm. Nhiệt
độ này cao hơn lưỡng cư vì thế trăn,
rắn khi nuốt được con mồi lớn thường
phải phơi nắng để sự tiêu hóa tiến
hành bình thường. Một con trăn (dài
4,2m trong 24 giờ nuốt 4 con dê, mỗi
con từ 5,5 - 8,5 kg) tiêu hóa hết các
con mồi lớn trên cần từ 8 - 10 ngày ở
mùa nóng và 1 tháng vào mùa lạnh.

Sơ đồ ống tiêu hoá của tắc kè (theo
Hickman)


1. Miệng; 2. Hầu; 3. Dạ dày; 4. Gan;

5. Tuỵ; 6. Ruột non; 7. Ruột già; 8.
Hậu môn
Ở rắn lục, để theo dõi khả năng tiêu
hóa thức ăn thì người ta cho rắn ăn
mỗi tuần 2 lần với lượng thức ăn như
nhau và quan sát sự thải phân của rắn.
Vào mùa hè chỉ sau 3 - 4 ngày thì rắn
đã thải phân cịn mùa đơng rắn thải
phân sau 1 tuần.
- Nhu cầu nước uống: Nói chung các
lồi bị sát đều cần uống nước để bù
đắp lại lượng nước của cơ thể đã bị
mất đi do q trình tiêu hóa thải ra
ngoài, do sự bốc hơi nước qua da và
do quá trình hơ hấp. Trăn nặng 25 kg
ở nhiệt độ 250C, sống trong khơng khí
khơ, mỗi ngày mất một lượng nước
0,1 - 0,3% trọng lượng cơ thể. Nhu


cầu về nước của chúng thay đổi tuỳ
theo môi trường khô hoặc ẩm. Thằn
lằn và rắn uống nước bằng cách liếm
các giọt sương. Rắn thích uống nước
và tắm, nhất là khi hạn hán, mưa ít rắn
thường đến ao, mương để uống nước
và tắm làm cho lớp vảy ngoài mềm ra
để giúp tiến hành lột xác bình thường.
Các lồi bị sát sống ở sa mạc hình
như khơng cần uống nước, có lẽ

lượng nước trong thức ăn đủ đáp ứng
nhu cầu nước của chúng. Một số rùa
cạn như rùa Gopherus ăn thực vật,
trong bàng quang có tích trữ nước nên
nhu cầu nước từ bên ngồi khơng
đáng kể.
Một số lồi thằn lằn sống ở vùng khơ
như thằn lằn độc (lồi thằn lằn duy
nhất có nọc độc làm chết người ở


châu Mỹ) các lồi tắc kè và thằn lằn
bóng đều có gốc đi nở to, bên trong
tích trữ mỡ. Khi cần nước những loài
này sẽ huy động mỡ vào việc giải
phóng nước để cung cấp những cho
cơ thể. Trong trứng các lồi bị sát
(rùa, cá sấu) đều có lịng đỏ và lịng
trắng chứa mỡ đó là kho dự trữ nước
cho phơi những lồi này.
Quỳnh Hoa



×