Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

LSDF Binh Thuan 1858 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.88 MB, 61 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÌNH THUẬN. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÌNH THUẬN TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH BÌNH THUẬN. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM HỌC 2008-2009. ĐỀ TÀI. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG BÌNH THUẬN CẬN HIỆN ĐẠI “Những nội dung chính về lịch sử địa phương Bình Thuận từ 1858 đến năm 2000 dùng cho học sinh THPT”. Người thực hiện LÊ MINH ĐẠO.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH BÌNH THUẬN. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM HỌC 2008-2009. ĐỀ TÀI. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG BÌNH THUẬN CẬN HIỆN ĐẠI “Những nội dung chính về lịch sử địa phương Bình Thuận từ 1858 đến năm 2000 dùng cho học sinh THPT” Người thực hiện LÊ MINH ĐẠO (Giáo viên Sử - Tổ trưởngchuyên môn) ĐỀ TÀI ĐƯỢC HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP NGÀNH XẾP LOẠI B. Mục lục A.Lý do chọn đề tài. B.Khảo sát thực trạng. C.Nội dung đề tài. I.Bình Thuận từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1930. 1.Thực dân Pháp xâm lược và phong trào Cần Vương..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> 2.Những chuyển biến mới trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. 3.Những phong trào đấu tranh đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng. II.Bình Thuận từ trước cách mạng tháng tám đến 1954: 1.Đảng lãnh đạo nhân dân Bình Thuận tiến tới cách mạng tháng tám 1945 2.Nhân dân Bình Thuận kháng chiến chống Pháp xâm lược lần 2. III.Bình Thuận từ 1954 đến 1975: 1.Chống chính sách khủng bố của Mỹ-Diệm tiến tới Đồng Khởi. 2.Nhân dân Bình Thuận phá tan các chiến lược chiến tranh của Mỹ-ngụy. 3.Tích cực tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam 1975. IV.Bình Thuận từ 1975 đến 2000: 1.Bình Thuận năm đầu sau giải phóng. 2.Bước đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên quê hương Bình Thuận (1975-1985). 3.Bình Thuận thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam (1986-2000). *Phụ lục ảnh. *Phụ lục sơ đồ-bản đồ. V.Giáo án lên lớp. VI.Bài tập thực hành. D.Biện pháp tiến hành. E.Hiệu quả về khả năng phổ biến của đề tài. F.Các đề nghị, kiến nghị.. A.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: - Trong sách giáo khoa lịch sử Trung học phổ thông đã cải cách hiện nay, rất chú trọng đến chương trình lịch sử địa phương. Lịch sử lớp 10 dành 2 tiết để tìm hiểu lịch sử địa phương giai đoạn Cổ - Trung đại, lịch sử lớp 11 và 12 giành 4 tiết để tìm hiểu về lịch sử địa phương giai đoạn Cận - Hiện đại đến năm 2000. - Lịch sử địa phương giai đoạn Cổ - Trung đại, trong năm học 2006-2007 tôi đã biên soạn dưới dạng “Lịch sử Văn hóa”, có giáo án, có tranh ảnh, có bài tập để phù hợp với đối tượng là học sinh phổ thông. Đề tài Sáng kiến kinh nghiệm này đã được Hội đồng khoa học cấp ngành công nhận xếp loại A. - Hiện nay, tư liệu về lịch sử địa phương giai đoạn Cận - Hiện đại khá nhiều và nhiều nội dung đã được một số tác giả biên soạn và in thành sách, Cấp trung học cở sở đã và.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> đang được học về lịch sử địa phương giai đoạn này. Tuy nhiên vẫn chưa có tài liệu nào biên soạn dành riêng cho đối tượng học sinh Trung học phổ thông (kiến thức sẽ đồng tâm), chính vì thế tôi biên soạn tài liệu này nhằm mục đích sau: + Đáp ứng được việc giảng dạy 4 tiết lịch sử địa phương Cận - Hiện đại ở lớp 11 và lớp 12 theo phân phối chương trình sách giáo khoa mới. +Giúp cho học sinh có cái nhìn khái quát về lịch sử, về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, xây dựng quê hương của nhân dân tỉnh Bình Thuận thời chống Pháp, chống Mỹ. Đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng Bộ Tỉnh Bình Thuận, vượt qua khó khăn thử thách trước và sau 1975 để tiến tới thực hiện công cuộc đổi mới đạt được nhiều thành tựu quan trọng. +Qua đó, học sinh tự hào về quê hương Bình Thuận, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, phấn đấu học tập góp phần đưa Bình Thuận đi lên. B.KHẢO SÁT THỰC TRẠNG: - Chất lượng tuyển sinh đầu vào lớp 10 của trường trong những năm qua còn thấp, tâm lý của đa số học sinh vẫn xem môn lịch sử là môn học phụ. Đây là khó khăn lớn nhất giúp học sinh học tốt. - Việc tìm tòi khám phá kiến thức, tiến tới tiếp thu lĩnh hội kiến thức phụ thuộc vào năng lực, khả năng tổng hợp và tâm tư tình cảm của học sinh. Trong khi đó khả năng tư duy phân tích của nhiều học sinh dân tộc thiểu số ở trường còn hạn chế. - Trong nội dung đề tài này, tôi không đi sâu phân tích, cũng như trình bày tất cả những vấn đề gì về lịch sử nói chung và lịch sử đấu tranh cách mạng nói riêng của giai đoạn Cận - Hiện đại đến 2000, vì với thời lượng phân phối chương trình và khả năng của học sinh phổ thông thì chưa thể làm được. Đối với giai đoạn lịch sử Cổ Trung đại, tôi nghiêng về lịch sử-văn hóa vì đây là giai đoạn phát triển của các tộc người, gắn liền với việc giao lưu tiếp thu văn hóa lẫn nhau, tất nhiên là có các cuộc chiến tranh nhưng đó không phải là nội dung trọng tâm. Trong giai đoạn lịch sử Cận Hiện đại thì khác, đây là giai đoạn nhân dân Việt Nam trong đó có Bình Thuận đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nên nội dung chính sẽ là các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh…và sau 1975 đề tài sẽ tập trung vào nội dung xây dựng quê hương, những thành tựu đạt được. Cũng nên thống nhất, dạy lịch sử địa phương là địa phương cấp tỉnh, không dạy lịch sử địa phương riêng của một huyện nào đó vì thực tế các sự kiện liên quan đến nhiều huyện và lan rộng trên địa bàn cả tỉnh. Do kiến thức đồng tâm nên đối với đối tượng là học sinh THPT, phải yêu cầu cao hơn, chủ yếu là đưa ra các sự kiện, các số liệu tiêu biểu để học sinh tự phân tích và rút ra kết luận. Kiến thức sẽ được xâu chuỗi, kèm theo các sơ đồ, bản đồ, tranh ảnh, các địa danh cũng phải đơn giản và chú giải với thực tế địa đồ hiện nay của Tỉnh để học sinh dễ nắm bắt. C.NỘI DUNG ĐỀ TÀI: I.BÌNH THUẬN TỪ GIỮA THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1930: 1.Thực dân Pháp xâm lược và Phong trào Cần Vương: Từ giữa thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản tăng cường mở rộng thuộc địa, hầu hết các nước Châu Á đều trở thành đối tượng để xâm lược. Năm 1858 lợi dụng tình hình kinh tế xã hội Việt Nam khủng hoảng suy yếu, Pháp đã tấn công Đà Nẵng nhưng đã vấp phải sự kháng cự kiên cường của nhân dân ta, đành phải lui vào chiếm Gia Định. Năm 1865 Miền Đông Nam Kỳ bị Pháp chiếm, Phan Trung, quê ở Phan Thiết, lúc.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> này là Tùy phái ở Gia Định đã chỉ huy nghĩa quân của mình vào Biên Hòa, Định Tường, đánh giặc. Ông Nguyễn Thông cùng một số sỹ phu Nam Kỳ không chịu hợp tác với Pháp đã “tị địa” ra Phan thiết lập “Đồng Châu xã” và với chức “Doanh điền sứ Bình Thuận”, 1873 Nguyễn Thông đã lập cơ sở dinh điền gần chân núi Tà Dôn (gọi là Trại Núi) và có ý định đưa dân khẩn hoang tính kế tích trữ lương thực, xây dựng lực lượng chống Pháp lâu dài…nhưng không thành công. Bên cạnh đó ông còn mở trường dạy học, sáng tác thơ văn khơi dậy truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, giành độc lập cho nước nhà. Nghĩa quân Trương Định sau khi thất thủ ở Nam Kỳ cũng đã chọn Hàm Tân để lui về náu mình. 1885 Pháp nhấn mạnh “…Bình Thuận lộ ra sắc thái kỳ lạ của một vùng biên cương ẩn náu tất cả những kẻ đã xa lánh xứ sở quê hương vì mục đích chính trị, những kẻ đó đang tìm cách tạo ra một xã hội hỗn tạp chắc chắn để lợi dụng làm việc trái phép…” Năm 1885, khi nước ta đã bị thực dân Pháp xâm lược hoàn toàn, Vua Hàm Nghi xuống Chiếu Cần Vương, Chánh tổng Lại An là ông Ung Chiếm đã chiêu mộ nghĩa quân đứng lên chống Pháp. Căn cứ chính ở làng Khánh Tường, Tân Xuân, Thiện Mỹ, Long Thạnh, Kim Ngọc (nay là Hàm Thắng, Phú Long). Nghĩa quân đã nhiều lần vây đánh Phủ thành Hàm Thuận (ở Phan Thiết) và tấn công địch ở cầu Bến Lội, Phú Long và cửa biển Phú Hài….Ngoài ra, hưởng ứng chiếu Cần Vương còn có lực lượng của lãnh binh Nguyễn Văn Luận cùng với nghĩa quân của Phùng Hàn, Phùng Tố xây dựng căn cứ ở núi Kênh Kênh (La Bá – xã Phong Phú) được các dân tộc Kinh, Chăm, Rắclây tham gia rất mạnh mẽ với khí thế “Bình Tây sát tả”, phò vua, cứu nước. Nghĩa quân của ông Phạm Đoan ở Tuy Phong, đã lập cơ binh (đại đội) trang bị giáo mác, đóng căn cứ tại vùng Bàu Vua, Bàu Khoai. Năm 1886, nghĩa quân đã tấn công chiếm huyện lỵ Tuy Phong, thừa thắng tấn công vào Duồng (nay là xã Chí Công) và phối hợp với nghĩa quân của Phùng Hàn, Bùi Đảng ở Hòa Đa (Phan Rí) đánh chiếm tỉnh lỵ Bình Thuận (Chợ Lầu), bắt quan lại, làm chủ tỉnh đường. Ngày 3 tháng 7 năm 1886, Pháp đưa quân bằng đường biển, đổ bộ lên Phan Rí và chiếm thành Bình Thuận. Chúng tiến hành tàn sát nhân dân quanh vùng để lùng bắt và tiêu diệt nghĩa quân. Ngày 28/07/1886 quân Pháp và tay sai đánh chiếm Hàm Thuận, Phan Thiết, Ông Ung Chiếm cho quân dàn trận từ Bến Lội đến Lại An đánh trả. Sau ba ngày chiến đấu, nghĩa quân bị tổn thất nặng nên rút về Dương Xuân, Phước Môn, ông Ung Chiếm bị địch bắn tại cây me làng Thiện Mỹ và bêu đầu ở chợ Dinh (nay thuộc Phú Hài). Tháng 08/1886 các thủ lĩnh Phạm Đoan, Phùng Hàn, Phùng Tố và đến tháng 09/1886 Nguyễn Văn Luận, Cao Hành (một thủ lĩnh của nghĩa quân Bùi Đảng) bị Pháp bắt và đã hy sinh. Tháng 9/1886 ngọn cờ Cần Vương kháng Pháp của nhân dân Bình Thuận chấm dứt, tỉnh thành Bình Thuận và các phủ, huyện rơi vào tay giặc. Năm 1887 thực dân Pháp đặt các cơ quan đại lý tại Bình Thuận, quản lý toàn bộ kinh tế xã hội với các luật lệ khắt khe trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất. 2.Những chuyển biến mới trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp: Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp chia nước ta làm ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau. Bình Thuận thuộc Trung Kỳ là “Xứ tự trị” nên chính quyền triều đình nhà Nguyễn vẫn được Pháp duy trì. Ở huyện có tri huyện, dưới huyện có chánh tổng và cấp xã có Ban lý hương. Đa số dân cư vẫn chịu ảnh hưởng của tư tưởng Khổng Mạnh.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> và gắn bó với Phật giáo. Năm 1885 nhà thờ Tân Lý được thành lập (thuộc giáo phận Quy Nhơn) từ đó đạo Thiên Chúa chính thức thiết lập tại Bình Thuận. Một số trường học Pháp-Việt cũng được xây dựng để truyền bá tư tưởng văn hóa Pháp và đào tạo tay sai. Cơ quan đại lý (Délégue) của Pháp có bộ máy giúp việc chuyên môn ở các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội và có cả quân đội (lính khố xanh) để dùng khi đàn áp…thực chất đây là bộ máy chính quyền. Cường hào, địa chủ dựa vào Pháp cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Riêng địa chủ ở Phan Thiết chiếm hơn 40% diện tích ruộng đất của Hàm Thuận như: Lục Thị Đậu, Trần Gia Hòa. Địa chủ Trần Huỳnh Kỳ có gần 200 mẫu ruộng ở Tam Tân, Bàu Dòi. Toàn bộ ruộng đất vùng Bắc Hàm Tân đều nằm trong tay những địa chủ Hộ Cang, Cửu Dương. Hàng trăm, hàng nghàn mẫu ruộng đất với những giấy phép “khai khẩn đồn điền” các sĩ quan, cố đạo, viên chức Pháp lần lượt kéo đến Bình Thuận. Demonestrol lập đồn điền Tà Mon, Casset lập đồn điền ở Cây số 13-14 (Hàm Thuận Nam). Nhà thờ Kim Ngọc cũng chiếm trên 100 ha ruộng đất, phát canh thu tô bóc lột giáo dân. Thực dân Pháp giữ độc quyền trong mua bán muối, nấu bán rượu, thuốc phiện, bông vải và thuốc lá. Pháp đặt các đồn thuế quan tại các trung tâm buôn bán và các làng có sản xuất “hàng cấm” nhằm quản lý, kiểm soát chặt chẽ các loại lâm thổ sản khác. Nếu ai bao che chúng bắt được, sẽ bị đánh đập tàn nhẫn và lâm vào cảnh tù tội. Cảnh sưu thuế nặng nề càng làm cho đời sống của nhân dân Bình Thuận cực khổ. Ngoài các thứ thuế phải nộp đủ và nộp đúng thời hạn như thuế ruộng đất, thuế muối, thuế ghe thuyền, thuế chợ…còn có thuế thân đánh vào tráng đinh và hàng năm người nông dân phải nộp một xuất sưu (gọi là làm xâu) để đi xây đắp cầu đường, dinh thự, nhà tù…cho Pháp. Lợi dụng ruộng đất trong vùng thường bị hạn hán, bọn thực dân Pháp còn cậy quyền thế độc chiếm khai thác nguồn nước, nông dân khi muốn sử dụng phải nộp một khoản tô gọi là “tô nước”. (ví dụ : chủ đập Đồng Mới – Bắc Bình) Ngay từ năm 1890, đã có một con đường Cái quan nối liền Phan Thiết với Bà Rịa. Để phục vụ cho việc khai thác bóc lột, thực dân Pháp làm thêm đường thuộc địa số 1 (nay là quốc lộ 1). Năm 1898, Vua Thành Thái có chỉ dụ đặt Phan Thiết thành thị xã và năm 1899 đường tỉnh lộ 8 (nay là quốc lộ 28) từ Phan Thiết đi Di Linh được mở. Năm 1903, Pháp cho xây dựng nhà ga xe lửa Phan Thiết và đến 1910, Phan Thiết đã trở thành một đô thị khá sầm uất, các đường phố được đặt tên và hai bên đường là các công sở, các ngôi nhà được xây dựng mang kiến trúc Pháp thuộc. Các xí nghiệp công nghiệp lần lượt ra đời như nhà máy điện, xưởng cơ khí sửa chữa, nhà máy xay xát, sở khai thác muối và năm 1915 xí nghiệp nước suối khoáng Vĩnh Hảo chính thức đi vào khai thác, sản phẩm được lưu hành trên cả nước. Những thay đổi về kinh tế đã tác động đến việc phân hóa xã hội tại Bình Thuận. Đông đảo nhất, nghèo khổ nhất là tầng lớp nông dân với cảnh mất mùa đói kém và sưu thuế nặng nề. Những người theo nghề biển làm công cho các Hàm hộ (chủ thuyền, chủ lều nước mắm) tuy lao động luôn cực khổ, nguy hiểm nhưng cuộc sống lúc nào cũng khó khăn. Tầng lớp công nhân phát triển ngày càng đông và làm việc tập trung ở nhà máy nước suối Vĩnh Hảo, các nhà ga xe lửa. Các hoạt động của công nhân có nhiều ảnh hưởng đến các tầng lớp nhân dân. Các chủ xưởng, chủ hiệu.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> buôn, Hàm hộ hoặc những người có học thức ở Bình Thuận đã hình thành tầng lớp Tư sản-Tiểu tư sản, phần lớn họ chưa có địa vị ổn định nhưng có ý thức độc lập dân tộc. Sau các phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp theo xu hướng Cần Vương thất bại, tinh thần yêu nước của nhân dân Bình Thuận vẫn tiếp tục phát triển nhưng chịu ảnh hưởng của tư tưởng mới dân chủ tư sản. Cụ nghè Trương Gia Mô người xã Chí Công, khi còn làm quan ở Huế đã đưa ra 5 điều trần dâng lên Vua, nhằm canh tân đất nước nhưng không được chấp nhận nên cáo quan về quê bốc thuốc chữa bệnh. Năm 1905 Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp là những người đề xướng cuộc vận động Duy Tân đã có mặt tại Bình Thuận để tìm những người cùng chí hướng, bàn tính việc thành lập các công ty, hiệp hội nhằm chấn hưng công nghiệp bản xứ, tuyên truyền tư tưởng yêu nước, mở mang dân trí cho nhân dân. Cụ Trương Gia Mô và hai người con của cụ Nguyễn Thông là Nguyễn Quý Anh, Nguyễn Trọng Lội là những người rất sớm tán thành tư tưởng này. Từ 1906 đến 1908 Liên thành thương quán (công ty Liên Thành), Liên thành thư xã, Dục Thanh học hiệu (Trường Dục Thanh) được thành lập tại Phan Thiết và lần lượt có cơ sở chi nhánh ở Phan Rí – Hòa Đa và các địa phương khác trong cả tỉnh. Phong trào học chữ quốc ngữ, đọc các sách báo tiến bộ diễn ra sôi nổi trong nhân dân làm thực dân Pháp lo sợ. Năm 1909, Nguyễn Tất Thành từ Quy Nhơn vào làng Hà Thủy gặp cụ Trương Gia Mô. Anh Thành được sắp xếp cho ở tại chùa Phước An (thuộc xã Chí Công) một thời gian, sau đó cụ đưa anh Thành vào dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết). Ngày 19/09/1910 cụ Trương Gia Mô cùng với anh Thành vào Sài Gòn và từ đây Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. 3.Những phong trào đấu tranh đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng: Năm 1925, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên được Nguyễn Ái Quốc thành lập tại Quảng Châu (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ, tổ chức tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê-nin vào trong nước. Năm 1928, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên có chủ trương đưa hội viên vào các nhà máy, đồn điền,…cùng lao động với công nhân để vận động cách mạng. Tân Việt cách mạng Đảng một tổ chức yêu nước hoạt động theo xu hướng cộng sản đã tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước của tỉnh Bình Thuận. Năm 1928, đồng chí Lê Trọng Mâu từ Gia Định ra và 1930 đồng chí Dương Chước từ Khánh Hòa vào đã đến làng Đại Nẫm (Phan Thiết) để tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản và kết nạp được một số Đảng viên mới (trong đó có thầy giáo Ngô Đức Tốn). Tháng 3/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc (tức thầy giáo Nguyễn Tất Thành). Cuối năm 1930, từ tổ chức “phản đế Đồng minh Hội” đồng chí Ngô Đức Tốn đã thành lập chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Thuận tại dốc Ông Bằng, làng Tam Tân (nay thuộc La Gi). Cũng trong thời gian này đồng chí Hồ Quang Cảnh, đồng chí Nghệ từ Sài Gòn ra làng Tùy Hòa (Hàm Đức) kết nạp đồng chí Nguyễn Thắng vào Đảng Cộng sản. Từ đồng chí Nguyễn Thắng các tổ Nông hội được thành lập và nhiều đồng chí khác ở một số làng nay thuộc khu vực Hàm Đức, Hàm Chính, Hàm Thắng lần lượt được đứng vào hàng ngũ của Đảng như: Nguyễn Gia Tú, Nguyễn Tương, Trần Hoành….Từ đó tổ chức Đảng Cộng sản ở Bình Thuận không ngừng lớn mạnh và các phong trào quần chúng đều được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đêm 12 rạng.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> 13/07/1930 hàng trăm truyền đơn được rải nhiều nơi trên đường phố Phan Thiết. Nội dung có đoạn: “Hỡi anh chị em thợ thuyền, dân cày, học sinh, binh lính ! Hỡi người lao khổ ! nay mai bọn đế quốc Pháp sẽ lấy tiền của chúng ta đặng mà xài phí làm lễ kỷ niệm 14/07…Chúng nó ghi nhớ ngày cách mạng Pháp phá khám lớn Baxti năm 1789 mà ở Đông Dương thì nó xây thành, đắp lũy, khám lớn, khám nhỏ nhiều hơn trường học”. Dưới tờ truyền đơn ký tên: “Đảng Cộng sản Nam Kỳ lâm thời chấp hành ủy viên Hội” Từ thực tiễn của phong trào đấu tranh cách mạng, nhiều quần chúng ưu tú đã được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Bên cạnh việc xây dựng các tổ chức Đảng, Đảng còn chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh sẽ phải nổ ra không bao lâu nữa. Đồng chí Nguyễn Gia Tú được phân công cùng với một số hội viên Nông hội các làng Tùy Hòa (Hàm Đức), Kim Ngọc (Hàm Thắng), Thiện Mỹ (nay thuộc Phú Long) tổ chức thành lập các đội tự vệ vũ trang, trước mắt để bảo vệ các cuộc hội họp của Đảng. Phong trào cách mạng đang trên đà phát triển, rất cần có tờ báo để cổ vũ và hướng dẫn. Chính vì thế tổ chức Đảng ở Bình Thuận đã phát hành nội bộ tờ Báo “Nhân Đạo” và những tài liệu nói về Cách mạng Tháng Mười Nga, Công xã Pari, Công xã Quảng Châu… Cơ sở in ấn được đặt tại làng Tùy Hòa (Hàm Đức). Cơ sở này còn đảm nhận việc in những truyền đơn phục vụ cho các cuộc đấu tranh bằng hình thức tuyên truyền, phát động rộng rãi. Để kỷ niệm ngày 01/08 hàng năm, ngày “Nhân dân thế giới chống chiến tranh đế quốc”, đêm 14 rạng 15/08/1931, giữa trời mưa gió các tổ chức Đảng trong tỉnh nhất loạt hành động theo kế hoạch đã định. Từ Phan Thiết đến Đại Nẫm, Phú Hội, Rạng, Mũi Né, trên quốc lộ 1, trên đường số 8 (QL 28) từ Phan Thiết đến Ma Lâm và các làng Dân Thạnh, Vĩnh Hòa, Long Thạnh…, truyền đơn rải đầy các ngã và băng ngữ treo ở một số nơi…trên cây me gần ga Ma Lâm, cây lim làng Dân Thạnh, trước cổng đồn lính khố xanh Phan Thiết, nóc đình làng Thiện Khánh…cờ đỏ búa liềm tung bay trong gió. Ngay trong ngăn kéo của viên công sứ Bình Thuận, viên tri phủ Hàm Thuận cũng có truyền đơn cách mạng. Lý hương các phường, các làng hoảng hốt, nổi trống mõ liên hồi về hoạt động của Cộng sản. Khí thế cách mạng sôi động cả một vùng rộng lớn của tỉnh Bình Thuận. Công sứ Pháp tại Bình Thuận gọi điện báo khẩn cấp ra Huế. Ngô Đình Diệm lập tức được thăng chức Tuần Vũ Bình Thuận và ra lệnh lùng sục bắt bớ những người bị nghi ngờ là yêu nước, tiến hành nhiều thủ đoạn thâm hiểm, khốc liệt… Nhiều đồng chí lãnh đạo của các tổ chức Đảng trong tỉnh bị bắt, bị kết án tù khổ sai, trong đó có các đồng chí Hồ Quang Cảnh, Nguyễn Thắng, Nguyễn Gia Tú, Nguyễn Tương, Trần Hoành…Cuộc đấu tranh của Đảng gặp nhiều khó khăn, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. II.BÌNH THUẬN TỪ TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN 1954: 1.Đảng lãnh đạo nhân dân Bình Thuận tiến tới cách mạng tháng Tám 1945: Sau thời gian bị khủng bố trắng, quần chúng cách mạng trong tỉnh cũng dần dần ổn định trở lại. Năm 1934 – 1935 đồng chí Nguyễn Gia Tú, Trần Hoành Nguyễn Tương và một số đồng chí khác ra khỏi tù, tiếp tục hoạt động. Tháng 07/1936 Ban chấp hành trung ương Đảng chỉ đạo “Cách mạng Đông Dương chưa thể trực tiếp.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> đánh đổ thực dân Pháp và làm cách mạng ruộng đất; chỉ đấu tranh chống Phát xít và chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”. Đảng chủ trương thành lập Mặt trận để đoàn kết rộng rãi các tầng lớp trong cuộc đấu tranh này. Tháng 08/1936 phong trào Đông Dương đại hội được khởi xướng, đồng chí Nguyễn Gia Tú thành lập ủy ban vận động Đông Dương đại hội tại Phan Thiết gồm 3 người: Nguyễn Gia Tú – cựu chính trị phạm, Lâm Đình Trúc – trí thức, Tống Ngọc Cang – nhà kinh doanh nước mắm. Ủy ban phân phát truyền đơn đến từng gia đình để giác ngộ tinh thần yêu nước của nhân dân và có thêm kinh nghiệm đấu tranh công khai. Năm 1937 tiểu thương Chợ Phan Thiết đấu tranh bãi thị và giành thắng lợi. Đảng cũng công khai ủng hộ người có cảm tình với Đảng ra ứng cử vào cơ quan Viện dân biểu Trung Kỳ và ông Huỳnh Văn Dậu đã trúng cử. Phong trào đòi dân chủ dân sinh cũng đã thắng lợi như phong trào của công nhân nhà máy đèn Phan Thiết, nông dân Ngã Hai, người làm muối ở Duồng, ở Trinh Tường, những người làm nghề xe kéo, xe ngựa tại Phan Thiết, Phú Long,…Năm 1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Pháp ra lệnh giải tán Đảng Cộng sản, đàn áp phong trào cách mạng, các tổ chức Đảng ở Bình Thuận rút vào hoạt động bí mật chấm dứt thời kỳ dân chủ công khai. Năm 1940, xứ ủy Trung Kỳ cử đồng chí Trần Hữu Dực vào chỉ đạo các tỉnh Nam Trung Kỳ và ở Bình Thuận đồng chí Dực đã móc nối liên lạc với đồng chí Nguyễn Tương. Năm 1941, Nhật – Pháp cấu kết đàn áp nhân dân ta, nhiều nhóm Việt Minh tại Bình Thuận được thành lập. Khi Nhật chiếm Đông Dương, một mặt Pháp hợp tác với Nhật, một mặt Pháp lôi kéo người Đông Dương chống Nhật. Nhật cho công ty Mít-su-bi-shi chiếm hãng “Cá Bạc” ở Bình Hưng và lập nhà băng ở Phan Thiết để tiến hành khai thác về mặt kinh tế. Pháp cho thành lập trường Cao Đẳng thể dục Đông Dương, trường Cao Đẳng thanh niên Đông Dương ở Đức Long (Phan Thiết) nhằm ru ngủ tầng lớp thanh niên Bình Thuận quên đi nhiệm vụ cứu nước. Dân ta đang sống trong cảnh “một cổ hai tròng”, nhiệm vụ cứu nước ngày càng trở nên cấp bách. Năm 1943, Mỹ mở mặt trận Thái Bình Dương, đã trút bom nhiều lần vào đảo Phú Quý giết dân thường vô tội. Máy bay Mỹ thường xuyên bắn phá vào ga xe lửa, các đoàn tàu, đoàn xe của Nhật và cả khu chế biến hải sản của công ty Mít-su-bishi tại Phan Thiết. Đêm 09/03/1945, Nhật tiến hành đảo chính lật đổ chính quyền Pháp, đưa Huỳnh Dư, một giáo học ở Quảng Nam lên làm tỉnh trưởng Bình Thuận và thiết lập bộ máy tay sai thân Nhật ở các cấp. Tháng 04/1945 một số Đảng viên Nguyễn Sắc Kim, Nguyễn Nhơn, Nguyễn Chúc,…về Bình Thuận hoạt động cùng với đồng chí Nguyễn Tương. Ban vận động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận được thành lập. Ngày 15/8/1945 Nhật đầu hàng Đồng minh, chính phủ tay sai của Nhật ở Việt Nam vô cùng hoang mang tạo điều kiện khách quan có lợi cho tổng khởi nghĩa đã đến. Từ 16 – 17/8/1945 Đại hội quốc dân Tân Trào tán thành chủ trương khởi nghĩa, cử Hồ Chí Minh làm chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng. Tại Bình Thuận, ngày 17/08/1945 cờ đỏ sao vàng được treo trước tòa Sứ của Pháp, trại lính bảo an và biểu ngữ được treo trên cầu gỗ sông Cà Ty (Phan Thiết) với nội dung: - Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Tước vũ khí quân đội phát xít Nhật ở Đông Dương. - Dựng chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời. - Việt Nam hoàn toàn độc lập. Ngày 19/8 Hà Nội giành được chính quyền. 23/8 Huế giành được chính quyền. Tin các tỉnh đã khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân dồn dập báo về. Nhận thấy thời cơ đã đến, ngày 23/08/1945 Ban Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận họp mở rộng tại phường Đức Nghĩa-Phan Thiết bàn việc tiếp quản các công sở của địch. Sáng 24/08/1945 Tỉnh trưởng Huỳnh Dư trao ấn tín cho cách mạng. Ngày 25/08/1945 chính quyền cấp tỉnh đã hoàn toàn về tay nhân dân. Một bộ phận lính bảo an tự nguyện tham gia Việt Minh và đứng vào hàng ngũ cách mạng. Tất cả các thứ thuế bất công do chế độ thực dân đặt ra được tuyên bố xóa bỏ. Ngày 02/09/1945 trên sân vận động Phan Thiết và các huyện, nhân dân trong tỉnh tổ chức mít tinh, diễu hành mừng ngày Hồ Chủ Tịch đọc tuyên ngôn độc lập, tuyến bố thành lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. 2.Nhân dân Bình Thuận kháng chiến chống Pháp xâm lược lần 2: Tháng 09/1945 Mặt trận Việt Minh của tỉnh chính thức được thành lập do đồng chí Nguyễn Tương làm chủ tịch. Tổ chức Đảng của tỉnh do đồng chí Nguyễn Sắc Kim phụ trách. Lực lượng vũ trang của tỉnh và Ty Công An tỉnh cũng được thành lập. Thực hiện chủ trương của Đảng, Bác Hồ về “kháng chiến, kiến quốc” chính quyền mới của tỉnh đã vận động nhân dân chống giặc đói, giặc dốt với phong trào tăng gia sản xuất và tham gia các lớp bình dân học vụ ở khắp mọi nơi trong tỉnh. Phong trào “Tuần lễ vàng” được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Đặc biệt có bà Nguyễn Thị Thềm, công chúa Hoàng tộc Chăm đã ủng hộ Mão đội đầu và một số đồ thờ cúng bằng vàng của các Vua Chăm trước kia. Đó là một nghĩa cử đáng quý của đồng bào dân tộc đối với niềm tin vào sự thắng lợi chính nghĩa của cách mạng. Tháng 01/1946 Bác sỹ Huỳnh Tấn Đối và đồng chí Nguyễn Tương được bầu và trúng cử đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tuy nhiên hòa bình không lâu, nhân dân Bình Thuận lại phải chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến lâu dài. Ngay từ ngày 28/08/1945 Pháp đã thực hiện âm mưu chống phá cách mạng, chúng cho biệt kích nhảy dù xuống nhà thờ Tân Lý (nay thuộc La Gi) và vùng Suối Kiết (Tánh Linh). Ngày 23/09/1945 quân Pháp được sự giúp đỡ của quân Anh đã đánh chiếm Sài Gòn – Chợ Lớn và tiến đánh các tỉnh Đông Nam bộ, Nam Trung bộ. Các đoàn quân Nam tiến từ Miền Bắc, Miền Trung hành quân vào Nam đánh Pháp lần lượt tụ hội tại Bình Thuận. Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Trung ương “không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải đánh Pháp”, ngày 13/01/1946 tại Phan Rang đại diện Việt Minh và Ủy ban hành chính 4 tỉnh: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Lâm Viên và Bình Thuận đã họp bàn thống nhất hành động, chuẩn bị kháng chiến chống Pháp. Ngày 28/01/1946 Pháp từ Di Linh theo đường 8 (QL 28) đánh xuống Phan Thiết. Ngày 30/01/1946 có thiết giáp, xe tăng yểm trợ Pháp đưa quân từ Phan Rang vào Phan Thiết. Ta chặn đánh địch tại Vĩnh Hảo và bố trí chướng ngại vật, đào hầm hào phục kích tại dốc Hồi Long (Tuy Phong). Hơn một giờ chiến đấu trong ngày 31/01/1946, 11 chiến sĩ của ta đã hy sinh. Đây là trận chiến đấu đầu tiên của tự vệ Bình Thuận trong kháng chiến chống Pháp. Trưa 31/01/1946 tại cầu Phú Long chúng.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> lại bị ta chặn đánh. Các trận đánh còn diễn ra ở ga xe lửa Phan Thiết, cầu Quan (nay là cầu Lê Hồng Phong). Đến tháng 02, Pháp mới chiếm xong Ma Lâm và Hàm Tân. Các cơ quan lãnh đạo của tỉnh rút về căn cứ Tam Giác (Hàm Thuận Bắc). Sau ngày 06/03/1946 địch chủ động gặp ta để bàn ký Hiệp định Sơ bộ ở địa phương. Tuy nhiên Pháp đã bội ước và tiến hành tấn công chúng ta ở nhiều nơi. Để phù hợp với tình hình mới ngày 25/06/1946 tỉnh thành lập trung đoàn 82. Ngày 20/12/1946 Hồ Chủ Tịch ra lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”, trung ương Đảng cử đồng chí Phạm Văn Đồng về Nam Trung Bộ để chỉ đạo, đối phó với địch trong tình hình mới. Quân dân Bình Thuận liên tục tấn công địch, đánh 98 trận thu nhiều vũ khí đạn dược. Tiêu biểu là trận đánh vào đồn Lầu Ông Hoàng ngày 14/06/1947. Ngoài ra còn có các trận đánh khác ở Cầu Trại (Hàm Thuận), Xóm Lụa (Phú Long), Bàu Đá (Tuy Phong), Thái An (Hòa Đa). Đây là thời điểm phong trào chiến tranh du kích của tỉnh phát triển mạnh nhất, tiêu biểu là những chiến công của Cảm tử đội “Nguyễn Thái Học” làm cho địch vô cùng khiếp sợ, cung cấp nhiều bài học cho những chặng đường kháng chiến tiếp theo. Năm 1948, ta thành lập trung đoàn 812. Năm 1949, Mặt trận Liên Việt, tỉnh Đoàn thanh niên và hội phụ nữ Cứu Quốc được thành lập. Tháng 08/1949, đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ nhất được khai mạc, đồng chí Nguyễn Diêu được bầu làm Bí thư tỉnh ủy. Trong hai ngày 2021/01/1951 địch huy động cả tiểu đoàn đánh vào La Gàn, Cát Bay (Tuy Phong) giết hại 178 người, bị thương 50 người, đốt 200 nóc nhà và giết hàng trăm trâu bò. Đây là trận tàn sát dã man nhất Nam Trung Bộ. Ở Tam Giác (Hàm Thuận Bắc) chúng đánh phá với cường độ chưa từng thấy, dân chúng phải sơ tán khắp nơi và có lúc dân số 4.000 người chỉ còn dưới 500 người. Địch chà đi xát lại ác liệt như vậy phong trào có tổn thất, nhưng lực lượng ta vẫn đứng vững. Căng Esepic từ năm 1946 là trường đào tạo sĩ quan ngụy, là căn cứ quân sự khống chế Tây Nam Phan Thiết và vùng kháng chiến của Hàm Thuận. Ngày 28/12/1951 trung đoàn 812 đã bất ngờ tấn công diệt hơn 150 địch (trong đó có 1 tên quan năm Pháp) thu 150 súng trường, 5 trung liên, 20 tiểu liên, 1 vô truyến điện, hàng trăm thùng đạn, phá hủy 2 khẩu pháo và nhiều kho nguyên liệu. Ta phải huy động 500 dân công mới mang hết số chiến lợi phẩm này về căn cứ. Tháng 08/1952 tại căn cứ Lê Hồng Phong, đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ II được tổ chức. Năm 1952 ta tấn công vào nhà hàng Xêrauy (Phan Thiết), 1953 ta tấn công vào tiểu khu Mương Mán, Ngã hai, Sông Quao, Mũi Né gây được tiếng vang lớn trên chiến trường Bình Thuận. Đêm 07/04/1954 ta nhất loạt nổ súng trên toàn mặt trận miền Tây của tỉnh, giải phóng Tánh Linh và một phần tỉnh Lâm Đồng. Tháng 05/1954 ta giải phóng Hòa Đa, Tuy Phong, Hàm Thuận và đêm 31/07/1954 ta tấn công đồn Sông Dinh và đây là trận đánh cuối cùng của quân dân Bình Thuận trong chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (07/05/1954) Pháp chấp nhận lập lại hòa bình ở Đông Dương, nhân dân Bình Thuận tập kết chuyển quân ra Bắc và cùng nhân dân cả nước tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. III.BÌNH THUẬN TỪ 1954 ĐẾN 1975:.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> 1.Chống chính sách khủng bố của Mỹ-Diệm tiến tới Đồng Khởi: Tháng 10/1955, bằng “trưng cầu dân ý” phế truất Bảo Đại, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống. Chúng xây dựng ngụy quyền, cải tổ lại ngụy quân, lập đội ngũ Hội tề để làm tay sai ở các địa phương. Sau 1954, chúng đưa 65.000 người phần lớn là binh lính và các gia đình theo đạo Thiên Chúa từ Bắc vào Bình Thuận. Các tỉnh Tây Nguyên và Cực Nam Trung Bộ chúng mở chiến dịch “tố Cộng đợt I” từ 1955-1956 và “tố Cộng đợt II” từ 1956-1958. Từ 1957, chúng còn mở chiến dịch “Thượng du vận” tập trung đánh phá phong trào cách mạng ở miền núi các tỉnh. Cuối 1954 đầu 1955 phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-nevơ của quần chúng diễn ra nhiều nơi trong tỉnh. Tiêu biểu là lực lượng nhân sỹ trí thức trong tổ chức “bảo vệ hòa bình” của Phan Thiết, Hàm Thuận đã đưa bản kiến nghị với 2000 chữ ký và một bản kiến nghị với 600 chữ ký của nhân dân Xã Hàm Thắng (trong đó có 28 chữ ký của đại biểu theo đạo Thiên Chúa) lên tên tỉnh trưởng Bình Thuận. Ngày 01/08/1954 hơn một vạn dân các xã Hàm Liêm, Hàm Chính, Hàm Phong, Hàm Hiệp tập trung dự mít tinh mừng ngày hòa bình, sau đó kéo về Phan Thiết được nhân dân Hàm Thắng và vùng ven thị xã tham gia. Địch dùng lựu đạn cay và gây thép gai để dàn áp nhưng đoàn người vẫn vào được Phan Thiết, cuộc biểu dương lực lượng của ta đã kết thúc thắng lợi. Tiếp tục đêm 02/08/1954 hơn 300 quần chúng các xã Hàm Hiệp, Hàm Cường, Hàm Mỹ, Hàm Kiệm kéo về đồn Ngã Hai (Hàm Mỹ) đưa kiến nghị đòi thi hành Hiệp định, địch bắn vào đoàn biểu tình làm 50 người chết và bị thương. Các nơi khác như Tánh Linh, Hòa Đa, Phan Lý, Hàm Tân phong trào đấu tranh biểu tình của quần chúng cũng bị địch đàn áp, khủng bố. Tháng 02/1955, Ngô Đình Diệm đề ra chính sách “Tố Cộng” nhằm tiêu diệt tận gốc phong trào cách mạng ở miền Nam. Nhiều cán bộ kháng chiến và nhân dân Bình Thuận bị tù đày, bị giết hại. Một số tên đầu hàng giặc (như Võ Xuân Viên) làm tay sai chỉ điểm cho Diệm, gây tổn thất cho cách mạng. Biết Mỹ-Diệm không thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, tháng 06/1955 tỉnh ủy Bình Thuận chuyển về khu Lê Hồng Phong (Bắc Bình) để chỉ đạo phong trào. Tháng 12/1955, Tỉnh ủy Bình Thuận mở Hội nghị tại Rừng Lớn (khu Lê Hồng Phong) và đã nhận định: “Ta chưa hướng phong trào giữ đúng phương châm: có lý lẽ, có mức độ, đã để bộc lộ lực lượng”. Hội nghị chủ trương: “tập hợp quần chúng bằng mọi hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp. Lãnh đạo quần chúng đòi dân sinh dân chủ là chính, đồng thời chống địch khủng bố trả thù những người kháng chiến cũ, đòi lập quan hệ bình thường giữa hai Miền và tuyên truyền về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Một số tổ chức đoàn thể của ta như Hội Phụ Nữ Việt Nam tỉnh Bình Thuận, Thanh Niên Lao Động, chuyển ra hoạt động hợp pháp và tạo được nhiều cơ sở ở Bắc Bình, Hàm Thuận, Phan Thiết. Tháng 04/1957, địch triển khai thực hiện chính sách dinh điền, lập khu trù mật, gom dân tại chỗ ở miền núi và chúng đưa dân các tỉnh miền Trung lên khu vực Sông La Ngà lập các “khu dinh điền” nhằm đánh phá phong trào cách mạng ở các tỉnh miền núi và Tây Nguyên. Nhiều thôn có đồng bào dân tộc đã bỏ ra rừng, sống bất hợp tác với giặc làm cho âm mưu của chúng không thực hiện được. Ngày 30/09/1957, 131 đồng chí của ta bị địch bắt ở Bình Thuận, đã bị đày ra giam giữ tại Côn Đảo. Đây là chuyến tàu đầu tiên chở những người yêu nước Bình Thuận bị địch kết án trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Tháng 02/1959 nhân dân các dân tộc vùng núi Bác Ái (tỉnh Ninh Thuận) nổi dậy tấn công địch, không khí “Đồng Khởi” đã bắt đầu lan rộng ra toàn miền Nam. Tháng 07/1959, tỉnh ủy Bình Thuận mở Hội nghị tại Ra Pú (Di Linh) bàn biện pháp xây dựng lực lượng vũ trang, sản xuất tự túc và công tác diệt ác. Ngày 02/09/1959 tỉnh ủy thành lập đơn vị vũ trang tập trung của tỉnh lấy phiên hiệu là 2/9 do đồng chí Phạm Hoài Chương và Nguyễn Hội chỉ huy. Ngày 17/01/1960 từ huyện Mỏ Cày, phong trào Đồng Khởi đã lan ra toàn tỉnh Bến Tre đã tác động đến nhiều nơi ở Miền Nam. Tháng 03/1960 đồng chí Nguyễn Gia Tú được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận, đã triệu tập Hội nghị và hội nghị nhất trí dùng lực lượng vũ trang tiêu diệt quận lỵ Chi khu Hoài Đức-Bắc Ruộng, giải phóng khu tập trung Bắc Ruộng đưa dân về xây dựng căn cứ. Đồng chí Phạm Hoài Chương được giao làm chỉ huy trưởng. Ngày 18/07/1960 lực lượng tham gia chiến đấu đã tổ chức triển khai. Ta dùng chiến thuật đánh đặc công, bí mật tiếp cận mục tiêu bất ngờ nổ súng tiêu diệt chúng. Không giờ ngày 31/07/1960 ta tấn công vào chi khu quận lỵ và kêu gọi quần chúng nổi dậy. Sau 2 giờ chiến đấu ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ và khu tập trung Bắc Ruộng, diệt và bắt sống trên 300 tên địch, thu nhiều súng đạn, hơn 4.000 dân được giải phóng khỏi khu tập trung trở về quê cũ. Chiến thắng Hoài Đức-Bắc Ruộng “là một trong các cuộc chiến thắng mở đầu cho bước ngoặc lịch sử của phong trào chống Mỹ-Ngụy, cứu nước ở miền Nam” (phát biểu của Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh, nhân dịp kỷ niệm 33 năm chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng) Ngày 20/12/1960 Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, từ ngày 05 đến 12/10/1962 Hội nghị tỉnh ủy Bình Thuận đã họp bàn thành lập Mặt trận giải phóng Miền Nam của tỉnh (có 2466 hội viên) và cũng cố các đoàn thể (Đoàn Thanh niên tỉnh có 553 đoàn viên). 2.Nhân dân Bình Thuận phá tan các chiến lược chiến tranh của Mỹ-Ngụy: Tháng 11/1946 Mỹ-Ngụy bắt đầu thực hiện “kế hoạch Stalay – Taylo” của “Chiến lược chiến tranh đặc biệt” tại Bình Thuận. Chúng tiến hành lập các “Ấp chiến lược”, trên quốc lộ I và quốc lộ 28 chúng tiến hành gom dân về các khu tập trung như Lương Sơn, Phú Long, Bình Lâm, Bình An, Tân Điền,…nhằm ngăn chặn sự chi viện của nhân dân cho cách mạng và đánh bật lực lượng của ta ra khỏi địa bàn Tam Giác. Nhiều nơi đồng bào vẫn kiên quyết bám trụ, bám đất sản xuất và tìm cách liên lạc với cách mạng. Năm 1962 tỉnh ủy Bình Thuận chỉ đạo: “nhiệm vụ trung tâm là phá Ấp chiến lược,…làm chủ vùng tranh chấp ở đồng bằng,…xây dựng căn cứ ở vùng miền núi”. Ở Thuận Phong quần chúng phá trên 5000 mét rào ấp chiến lược. Tại Phan Thiết, Hàm Thuận phong trào cũng nổi dậy mạnh mẽ, buộc địch phải co lại. Ngày 04/08/1962 ta đánh Chi khu Hàm Tân, địch chết và bị thương 136 tên, bắt sống 11 tên, thu toàn bộ vũ khí. Ngày 05/08 một đại đội bảo an của địch chi viện cho Chi khu Hàm Tân, cũng bị ta phục kích tấn công thiệt hại nặng. Đến cuối năm 1962, ta giữ vững 9 xã căn cứ miền núi, 12 xã đồng bằng với hơn 9.000 dân. Phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh tại Phan Thiết. Ngày 04/08/1962 hàng ngàn phật tử, học sinh, giáo chức,… biểu tình kéo đến dinh tỉnh trưởng. Hòa Thượng Thích Minh Hương đã tự thiêu trước dinh tỉnh trưởng Bình Thuận để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp phật tử. Tháng 11/1963 học sinh trường Phan Bội Châu và trường trung học Bồ Đề (nay là Trường Tuyên Quang).

<span class='text_page_counter'>(14)</span> đã đập phá tượng Ngô Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình Diệm) và đòi chính quyền địch sửa đổi chương trình giáo dục, thực hiện dân chủ trong nhà trường, không được bắt học sinh đi quân dịch. Năm 1964 địch lập “Biệt khu Bình Lâm” đóng tại Phan Thiết để điều hành các cuộc hành quân càn quét từ Bình Thuận đến Lâm Đồng. Từ tháng 01 đến tháng 04/1964 địch mở 29 cuộc càn quét suốt dọc giáp ranh Bình Thuận-Lâm Đồng và cả các xã giải phóng của Hàm Thuận. Địch dùng máy bay rải chất độc hóa học, bỏ thuốc độc vào nguồn nước, thức ăn để giết hại đồng bào, chiến sỹ ta…làm cho ta gặp nhiều khó khăn. Cuối năm 1965, ta vừa xây dựng lực lượng, vừa tiếp tục tấn công địch, phá tan nhiều ấp chiến lược. Vùng giải phóng được mở rộng nối liền căn cứ Hoài ĐứcTánh Linh với Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. “Chiến tranh đặc biệt” với âm mưu “Dùng người Việt trị người Việt” thất bại, Mỹ chuyển sang “Chiến lược chiến tranh cục bộ” với lực lượng quân Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường Việt Nam. Tháng 11/1965 bộ phận tiền trạm Thủy quân lục chiến của Mỹ đã đến Bình Thuận. Chúng thực hiện kế hoạch “Mùa khô lần I” mở các đợt đánh phá vào Hoài Đức, Thuận Phong, Hàm Thuận, vùng ven Phan Thiết nhằm đánh chiếm vùng giải phóng, tiếp tục dồn dân lập Ấp chiến lược. Cuối 1965 bộ đội địa phương, dân quân du kích 2 huyện Hoài Đức, Tánh Linh đánh trả cuộc càn quét của Mỹ-Ngụy. Diệt hơn 200 tên, bắn rơi 5 máy bay, 1 xe bọc thép, thu 31 súng các loại. Đây là trận đánh Mỹ đầu tiên trên chiến trường Bình Thuận. Ngày 21/02/1966 tiểu đoàn 482 phục kích trên quốc lộ 28 đánh vào đoàn xe tiếp tế của địch đang từ Phan Thiết lên Ma Lâm, diệt gọn đại đội 888 bảo an và gần hết 6 trung đội dân vệ, diệt tại chỗ 87 tên, bắt sống 90 tên, thu 2 xe và toàn bộ lương thực phẩm đưa về căn cứ. Lực lượng địch từ phan Thiết lên ứng cứu cũng bị ta tiêu diệt 72 tên, bị thương 27 tên. Địch phải cho máy bay ném bom bắn phá. Đây là trận đánh lớn giữa ban ngày, địa hình trống trải, diệt nhiều sinh lực địch, làm chủ trục đường 28 (Hàm Thuận Bắc) nhân dân vô cùng phấn khởi tin tưởng vào một ngày tất thắng. Tiếp đó, trong năm 1966 tiểu đoàn 482 mở nhiều trận tập kích địch ở Tầm Hưng, Bình An, Tân Điền, Đại Nẫm, Phú Hội, đồi Đất Đỏ. Trên các hướng Thuận Phong, Hàm Tân, Hoài Đức, Hòa Đa, Tánh Linh nhân dân phối hợp với bộ đội đánh trả nhiều cuộc càn quét của địch…gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng. Tại Phan Thiết phong trào đấu tranh chính trị trong giới thanh niên, học sinh tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Trường Phan Bội Châu, Bồ Đề, Tiến Đức nhiều lần tổ chức các cuộc biểu tình tuần hành trên đường phố Phan Thiết chống Mỹ-Thiệu. Tại chùa Phật Học đã thành lập “lực lượng thanh niên, học sinh Bình Thuận tranh thủ hòa bình, độc lập, tự do” và tổ chức cuộc biểu tình có hơn 5000 người tham gia. Ngày 12/02/1966 có 500 lính ngụy và 80 cảnh sát tham gia biểu tình chống Mỹ-Thiệu. Công tác binh vận còn thành công khi hàng loạt các làng Vĩnh Hảo, Tuy Tịnh, Phú Điền, Phước Thể, Bình Thạnh đều có binh lính ngụy trở về tham gia cách mạng. Cuối năm 1966 Mỹ tăng cường những binh đoàn thiện chiến với những loại vũ khí hiện đại vào Bình Thuận. Chúng tấn công ào ạt vào các khu vực của ta ở Hàm Thuận, Đức Linh, Tánh Linh, Hòa Đa, Tuy Phong. Tỉnh ủy Bình Thuận chỉ đạo: “kiên quyết đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm của địch” “Phải bám chắc lưng địch mà đánh”. Đêm 07/01/1967 tiểu đoàn 480 tập kích vào Chi khu Duồng và đến.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> 20/02/1967 tấn công địch ở Tuy Tịnh (Tuy Phong) đều giành thắng lợi. Ngày 17/02/1967 tiểu đoàn 482 tấn công đoàn xe bọc thép của Mỹ, bắn cháy 14 chiếc, diệt gần 100 tên. Tại Thuận Phong, Hòa Đa liên tục tấn công địch, diệt 280 lính Mỹ và chư hầu, bắn cháy 5 xe, bảo vệ được dân và các cơ quan của ta. Tại Bàu Ốc, ngày 08/11/1967 ta cũng diệt gần 700 tên, phá hủy 47 xe quân sự và bắn rơi 4 máy bay. Tháng 12/1967 Quân ủy khu VI hạ quyết tâm: “ phối hợp chung với toàn miền trong cuộc tấn công và nổi dậy sắp đến, Quân khu tập trung đánh dứt điểm hai thị xã lớn là Phan Thiết và Đà Lạt”. Tại Phan Thiết cơ quan chỉ huy tiền phương được thành lập, hơn 70 tấn vũ khí, thuốc men, lương thực, thực phẩm được đưa vào ém sát vùng ven thị xã. Đêm 30 tết Mậu Thân 1968 quân ta đã làm chủ nhiều đô thị ở miền Nam. Ở Bình Thuận do nhận nhiệm vụ chậm nên yếu tố bất ngờ không còn, mùng 3 tết (01/02/1968) ta bắt đầu nổ súng tấn công Phan Thiết. Sau một ngày chiến đấu ta làm chủ 2/3 đồn địch, trong đó có những địa điểm trọng yếu của địch như: đồn Trinh Tường, Chi khu Châu Thành, Căng ESEPIC, Cổng chữ Y. Sau 3 đợt tấn công ta đã làm chủ được nhiều khu vực và giải thoát cho hơn 700 cán bộ, đồng bào ta bị giam giữ tại Lao Xá. Nhiều tấm gương hy sinh anh dũng, tiêu biểu là Trung đội trưởng Từ Văn Tư, mặc dù bị gãy hai chân, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu, động viên anh em cho đến lúc hy sinh: “Nếu có chết hãy quay đầu về hướng giặc mà chết”, trở thành tấm gương sáng cho đồng đội noi theo. Trong năm 1968, ta đã đánh 1.026 trận, tấn công hầu hết các mục tiêu quân sự quan trọng của địch, tiêu diệt 14.276 địch (có nhiều tên Mỹ), phá hủy 175 xe quân sự, 5 khẩu pháo, bắn hạ 77 máy bay, thu 250 súng các loại. Không thắng ta sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, Mỹ chấp nhận đàm phán với ta ở PaRi. Nhưng với bản chất ngoan cố Mỹ tiếp tục tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” với chương trình bình định nông thôn là “trụ cột” là “xương sống”. Địch tăng cường hệ thống phòng thủ các thị trấn, thị xã, các trụ lộ giao thông với hệ thống lô cốt, đồn bót (vành đai bao quanh Phan Thiết dài trên 5.000 mét). Chúng còn tăng cường cho Bình Thuận một Chiến đoàn thiết giáp gồm có 120 xe tăng và xe bọc thép, đưa Sư đoàn 23 của ngụy về đứng chân và hoạt động tại Sông Mao. Ngày 22/02/1969 ta tấn công vào Căng ESEPIC phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ, quân tiếp viện từ Sông Mao vào cũng bị ta chặn đánh. Địch dùng máy bay bắn phá. Du kích xã Cà Lon (nay là Phan Sơn) là ngọn cờ đầu cho phong trào bắn rơi máy bay Mỹ (từ 1969 đến 1975 đã bắn rơi 26 máy bay, Riêng ba anh em Mang Đa, Mang Đang, Mang Kha đã bắn rơi 15 chiếc). Phong trào săn diệt xe cơ giới bằng vũ khí tự tạo cũng phát triển mạnh. Đồng bào ở Hàm Thuận, Hàm Tân, Tuy Phong đẩy mạnh đấu tranh chính trị, không cho con em mình bị địch cưỡng bức vào lực lượng phòng vệ dân sự của địch. Tháng 09/1969 Bác Hồ mất, nhiều nơi làm lễ truy điệu, ngay trong vùng địch kiểm soát nhiều gia đình vẫn tự lập bàn thờ và để tang Bác. Tính đến 1970 ta vẫn giữ vững quyền làm chủ 50 Ấp trong 31 xã trên 3 vạn dân. Chịu ảnh hưởng của phong trào chống Mỹ Ngụy của học sinh Sài Gòn, Quy Nhơn, học sinh trường Phan Bội Châu và trường Bồ Đề (Phan Thiết) đã phát động phong trào “Một tuần chống Mỹ” lôi kéo được cả Phật tử tham gia biểu tình: “Đã đảo Mỹ giết hại người Việt Nam”; đêm 21/05/1971 đã tổ chức sinh hoạt chính.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> trị-văn nghệ “Hát cho đồng bào tôi nghe” với những bài hát sôi nổi hào hùng, khơi dậy ý thức chống Mỹ trong tầng lớp thanh niên học sinh Bình Thuận. Cuối tháng 03/1972 quân Mỹ rút khỏi địa bàn Bình Thuận, Bình Tuy. Địch tăng cường bắt lính bổ sung cho lực lượng lính cộng hòa và bảo an, chúng ra sức đối phó với công tác binh vận của ta. Qua giáo dục giác ngộ, ta đã vận động được 1.296 binh lính bỏ súng về nhà làm ăn. Ngày 27/01/1973 Hiệp định Pa Ri được ký kết, quân Mỹ buộc phải rút khỏi Việt Nam. 3.Tích cực tiến lên giải phóng hoàn toàn Miền Nam 1975: Sau Hiệp định Pari địch đã không thực hiện lệnh ngừng bắn mà ra sức giành giật quyết liệt với ta ở nhiều xã, ấp trên những trục lộ giao thông quan trọng. Chúng đưa hơn 14.000 dân từ Quảng Trị, Quảng Nam đến “khai hoang” từ km 30 đến 58 trên quốc lộ I, vùng Láng Gòn và tây nam Lagi. Chúng còn tăng cường bắt lính để xây dựng ngụy quân. Tính đến cuối năm 1973 lực lượng địch ở Bình Thuận lên đến 10.075 thuộc nhiều binh chủng khác nhau. Ở các xã phường, bọn ác ôn từ quân đội được đưa sang bộ máy Hội tề để tiến hành kìm kẹp đàn áp nhân dân ta cùng với việc cướp lại ruộng đất, vơ vét lúa gạo và tăng thuế để bù vào các khoản viện trợ ngày càng giảm dần từ phía Mỹ. Năm 1973 Ban Liên Hiệp Quân Sự bốn bên và Ủy ban Quốc tế có về Bình Thuận để giám sát việc thực hiện Hiệp định PaRi. Tuy nhiên địch vẫn tiếp tục đánh phá vào các vùng giải phóng của ta. Trong năm 1973, ta đánh 800 trận, loại khỏi vòng chiến 2.472 tên địch, thu nhiều vũ khí. Năm 1974, ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị. Ở Tuy Phong 100% học sinh bãi khóa không đến trường. Công tác binh vận đạt nhiều kết quả vì hầu hết anh em đều bị cưỡng bức vào binh lính chống lại cách mạng. Nhờ thông qua tuyên truyền về chính sách của ta, một số binh lính giác ngộ tốt đã trở thành cơ sở nội tuyến phục vụ đắc lực cho nhiều trận đánh đồn, diệt ác có kết quả. Ở vùng giải phóng ta còn tăng gia sản xuất và chú trọng phát triền văn hóa, giáo dục, y tế. Đối với địch chúng tiếp tục di dân ở miền Trung vào, tiến hành lấn chiếm bình định (san ủi ruộng đất của bà con địa phương) nhiều vùng ở Hoài Đức, Tánh Linh, Hàm Tân. Hoài Đức, Tánh Linh là địa bàn có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với cả ta và địch, vì ai làm chủ được vùng này sẽ chia cắt được Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, xác lập bàn đạp tấn công Sài Gòn từ hướng Đông. Chính vì thế đêm ngày 09 rạng sáng ngày 10/12/1974 ta nổ súng đồng loạt tấn công giải phóng Hoài Đức-Tánh Linh. Sau 3 tiếng chiến đấu, tiểu đoàn 200C của ta đã làm chủ cao điểm Lồ Ồ, chi khu Tánh Linh rơi vào tình thế bị uy hiếp hết sức nghiêm trọng. Cùng thời gian này tiểu đoàn 812 đã chiếm hết các mục tiêu quan trọng như: Đồi Giang, Xã Dú, Huy Khiêm bao quanh Chi khu Quận lỵ Hoài Đức, đồng thời ta diệt luôn Chi khu Sùng Nhơn hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy làm chủ. 12 giờ trưa ngày 24/12/1974 Chi khu Tánh Linh được giải phóng. Từ ngày 03 đến ngày 09/01/1975 ta bao vây và tấn công Chi khu Hoài Đức nhưng do địch còn mạnh nên ta chưa giải phóng được, tuy nhiên toàn bộ vùng nông thôn đã được giải phóng. Chiến thắng này góp phần vào chuyển biến tình hình, tạo tiền đề cho cuộc tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn quê hương. Ngày 16/03/1975 trung đoàn 812 cùng bộ đội địa phương tiếp tục tấn công Chi khu Hoài Đức. Sau 3 ngày chiến đấu ta đã chiếm được một số mục tiêu.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> vòng ngoài. Sáng 20/03/1975 có sự hỗ trợ của pháo binh, ta đã giải phóng Chi khu Hoài Đức và ngày 23/03/1975 huyện Hoài Đức được hoàn toàn giải phóng. Ngày 24/03/1975 Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng, 27/03/1975 ta giải phóng Lâm Đồng và ngày 01/04 bọn địch ở Đà Lạt đã tháo chạy về Phan Rang. Ngày 05/04/1975 Tỉnh ủy Bình Thuận họp cùng bộ đội tiền phương tại thôn Phú Minh (Hàm Phú) đã hạ quyết tâm: “giải Phóng Chi khu Thiện Giáo (Ma Lâm), quốc lộ 28 và quốc lộ I, sau đó phối hợp với các lực lượng của trên giải phóng thị xã Phan Thiết và toàn tỉnh”. Ngày 08/04/1975 ta giải phóng Chi khu Thiện giáo và toàn bộ thị trấn Ma Lâm, ngày 09 và 10/04 các thôn xã dọc quốc lộ I và quốc lộ 28 được giải phóng tạo thành một vành đai áp sát thị xã Phan Thiết. Cùng ngày ta nã pháo vào tiểu khu địch ở Phan Thiết và Sân bay Căng ESEPIC, đẩy địch vào tình thế rối loạn. Chiều 17/04/1975 quân đoàn II của Bộ tiến quân từ Phan Rang vào giải phóng Tuy Phong và đến sáng 18/04/1975 đã giải phóng hoàn toàn các huyện Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh. Chiều 18/04/1975 lữ đoàn tăng và trung đoàn 18 bộ binh (của quân đoàn II) vượt cầu Phú Long tấn công vào Phan Thiết. Tiểu đoàn 130 pháo binh (của Quân khu VI) từ Tam Giác phối hợp nã pháo vào các kho hậu cần, kho xăng, kho đạn của địch ở Căng ESEPIC và trung tâm Phan Thiết làm địch không kịp trở tay. 22 giờ ngày 18/04/1975 ta chiếm được Sở chỉ huy của địch, Tòa hành chánh tỉnh và khu vực Thương Chánh. Sáng 19/04/1975 ta phá nhà lao, giải thoát cho hơn 400 chiến sỹ, đồng bào đang bị giam giữ, đồng thời giải phóng khu vực Mũi Né, Ngã Hai (Hàm Thuận). 09 giờ sáng 19/04/1975 Ủy ban quân quản vào tiếp quản Thị Xã Phan Thiết. Ngày 23/04/1975 ta giải phóng Bình Tuy và làm chủ LaGi. Ngày 27/04/1975 ta bất ngờ đổ bộ lên đảo Phú Quý, chỉ sau 1 giờ chiến đấu, phần đất cuối cùng của tỉnh Bình Thuận được hoàn toàn giải phóng. Như vậy từ ngày 16/03/1975 đến 27/04/1975 quân và dân Bình Thuận đã giải phóng hoàn toàn quê hương, góp phần cùng cả nước đại thắng Mùa Xuân 1975 thống nhất đất nước. IV.BÌNH THUẬN TỪ 1975 ĐẾN 2000: 1.Bình Thuận năm đầu sau giải phóng: Hậu quả 21 năm xâm lược của đế quốc Mỹ để lại hết sực nặng nề. Từ đồng bằng đến rừng núi nơi nào cũng xơ xác tiêu điều, trong lòng đất đầy những vết bom, vết đạn. Cầu cống, đường giao thông hư hỏng nặng. Lương thực và những hàng hóa thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân đều thiếu thốn nghiêm trọng. Hơn 300.000 đồng bào từ các khu tập trung, Ấp chiến lược trở về làng cũ thiếu nơi ăn, chốn ở, việc làm. Các đảng phái phản động, ngụy quân, ngụy quyền vẫn ngấm ngầm hoạt động chống phá cách mạng. Trước những khó khăn đó Trung ương đã chi viện cho Bình Thuận một khối lượng lớn nguyên vật liệu, nhu yếu phẩm và cán bộ khoa học kỹ thuật để ta nhanh chóng ổn định tình hình. Ta tiến hành cải tạo những ngụy quân, ngụy quyền đã ra trình diện và phần đông đã được cho về quê cũ làm ăn sinh sống. Đối với nông dân ta thực hiện “người cày có ruộng”, tịch thu ruộng đất của số điền chủ, tư sản mại bản, cầm đầu ngụy quân ngụy quyền chia cho nông dân nghèo. Chỉ tính 4 huyện: Hàm Thuận, Thuận Phong, Phan Lý, Hòa Đa ta đã thu hồi 4.693 ha ruộng đất chia cho.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> 8.090 hộ nông dân với 58.574 nhân khẩu. Các đập nước Đá Dựng (Hàm Tân), Cây Xoài (Tánh Linh), Trà Tân (Hoài Đức), Cà Tót (Hàm Thuận), Vĩnh Hảo (Tuy Phong) đều được sửa chữa nâng cấp để phục vụ nước tưới cho những vùng khô hạn. Các làng nghề đánh cá, các cơ sở tiểu thủ công nghiệp cũng được khôi phục giúp cho nhân dân nhiều nơi vượt qua cảnh thiếu đói, thất nghiệp, thiếu việc làm. Từ ngày 10/09 đến 30/10/1975 ta tiến hành hai đợt cải tạo XHCN tấn công vào giai cấp tư sản mại bản có quyền lợi gắn chặt với đế quốc. Nhà nước thu giữ một số cơ sở sản xuất kinh doanh, nhà hàng, kho tàng, phương tiện lưu thông, vàng bạc, kim loại quý. Các nhu yếu phẩm đều do nhà nước thống nhất quản lý và phân phối. Những ngày lễ lớn ta tổ chức triển lãm hình ảnh tuyên truyền về cuộc đời hoạt động của Bác Hồ, thành tích xây dựng XHCN ở miền Bắc, thành tích kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, đông đảo quần chúng đến xem và hưởng ứng. Văn hóa của chế độ cũ, các hủ tục lạc hậu bị ngăn cấm, xóa bỏ. Các trường học được mở cửa, tạo điều kiện cho con em sớm được đến trường. năm học mới đầu tiên 1975-1976 cấp I có 38.619 học sinh, cấp II có 5.382 học sinh. Công tác chữa bệnh ở các cơ sở y tế cũng đã được khôi phục. Nhìn chung Bình Thuận, Bình Tuy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp quản, ổn định kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng sau giải phóng. 2. Bước đầu xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội trên quê hương Bình Thuận (19751985): Ngày 20/12/1975 các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải. Đồng chí Lê Văn Hiền làm Bí thư tỉnh ủy, đồng chí Trần Ngọc Trác được bầu làm chủ tịch tỉnh. Ngày 25/04/1976 cử tri cả nước đi bỏ phiếu bầu đại biểu quốc hội khóa VI, Bình Thuận có 9 đại biểu trúng cử vào quốc hội. Các tổ chức đoàn thể, các Sở ban ngành của tỉnh và chính quyền địa phương các cấp cũng được thành lập và bắt tay vào xây dựng chế độ mới. Đế quốc Mỹ sau khi thất bại ở Việt Nam đã tiến hành cấm vận kinh tế Chính trị - ngoại giao nước ta. Chúng lôi kéo những người làm tay sai trước đây tổ chức chống đối chính quyền cách mạng và vượt biên trái phép làm cho đời sống nhân dân không ổn định. Mặt khác bọn phản động Pôn Pốt mở cuộc tấn công ta ở biên giới Tây Nam (1978) và Trung Quốc mở cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (1979), ta còn phải làm nghĩa vụ quốc tế với nước bạn Campuchia, cùng với hạn hán, lũ lụt mất mùa khiến cho công cuộc khôi phục sau chiến tranh rất khó khăn. Để thoát khỏi khủng hoảng, tỉnh đã coi trọng đẩy mạnh sản xuất lương thực. Các giống lúa có năng xuất cao được áp dụng rộng rãi. 101 máy kéo, hơn 1.000 trâu bò, 26.000 tấn phân đạm được đầu tư cho sản xuất nông nghiệp. Cuộc vận động nông dân làm ăn tập thể, xây dựng Hợp tác xã được phát động. Đức Linh và Hàm Thuận là hai huyện đầu tiên hoàn thành Hợp tác hóa nông nghiệp. Tính đến tháng 07/1979 đã có 216 Hợp tác xã nông nghiệp, 362 tập đoàn sản xuất, chiếm 73,7% số hộ nông dân và 64,3% tổng diện tích canh tác. Ta đã chuyển hơn 4 vạn dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, chuyển gần 4.000 dân đảo Phú Quý vào đất liền làm ăn và định canh định cư cho 2 vạn đồng bào miền núi. Về xây dựng cơ bản ta đã tập trung hơn 70% vốn đầu tư cho ngành công nghiệp và thủy lợi. Từ 12 xí nghiệp năm 1976 đến 1978 tăng lên hơn 50 xí nghiệp.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> công nghiệp (tiêu biểu là Xi măng Phương Hải, gạch ngói Trinh Tường, cơ khí Hàm Tân, các nhà máy đông lạnh ở Phan Thiết, Phan Rí Cửa…). Trồng bông vải, khai thác hải sản và đánh bắt cá cũng được coi trọng. Năm 1978 đã đưa được 75% ngư dân vào làm ăn tập thể. Nhờ đó sản lượng đánh bắt và thu mua tăng lên rõ rệt. Về giáo dục, ta ưu tiên xóa nạn mù chữ nên phong trào học bổ túc văn hóa trong các cơ quan, đơn vị vũ trang phát triển mạnh. Các huyện thị đã có trường cấp III, một số nơi có trường Mẫu giáo. Toàn tỉnh trung bình cứ 4 người dân thì có 1 người đi học. Trong lúc ta đẩy mạnh cải tạo XHCN một cách toàn diện và triệt để thì các thế lực phản động phản ứng ngày càng gay gắt quyết liệt. Bọn phản động trong người Hoa, trong Thiên Chúa giáo và phản động Fulro… lập các tổ chức chống phá cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị thời cơ lật đổ chính quyền. Ta đã tổ chức nhiều đợt truy quét, xóa sổ tiểu đoàn Fulro do Huỳnh Ngọc Sắng cầm đầu, xóa sổ “Mặt trận phục quốc cứu nguy dân tộc” ở Lương Sơn và một số tổ chức phản động khác ở Phan Thiết, Hàm Tân…an ninh chính trị được giữ vững, nhân dân tin theo chính quyền cách mạng. Từ ngày 16 đến 23/10/1979 Đại hội Đảng Bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ II được triệu tập, đề ra phương hướng nhiệm vụ trong hai năm 1980-1981 “giải quyết vững chắc vấn đề lương thực thực phẩm, Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ngành kinh tế, bảo đảm trật tự an ninh quốc phòng”. Từ ngày 03 đến 07/03/1983 Đại hội Đảng Bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ III được tổ chức. Trong năm 1985 hàng hóa khan hiếm, đồng tiền mất giá trị sử dụng, thị trường rối loạn, phân phối lưu thông và xuất nhập khẩu không được quản lý làm ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của nhân dân. Kinh tế quan liêu bao cấp trở nên không phù hợp nữa, đổi mới trở thành một yêu cầu bức thiết để vượt qua khó khăn, xây dựng xã hội phồn vinh hạnh phúc. 3.Bình Thuận thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam 1986-2000: Từ ngày 13 đến 18/10/1986 Đại hội Đảng Bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ IV đã khẳng định “…nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện ba chương trình kinh tế nhằm giải quyết một cách căn bản nhu cầu lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu,..tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu…”. Triển khai thực hiện nghị quyết 10 của Bộ chính trị và nghị quyết 05 của tỉnh ủy, từ 1988 ta đã thực hiện cơ chế khoán mới (khoán 10) giao ruộng đất cho từng hộ nông dân. Khi hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, bộ máy quản lý hợp tác xã nhiều nơi giảm mạnh. Đầu năm 1988 tỉnh đã giải thể các trạm kiển soát trên các trục lộ giao thông, xóa bỏ ngăn sông cấm chợ, mở rộng giao lưu hàng hóa giữa các địa phương; cho phép mở rộng giao lưu hàng hóa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, trong lúc tư nhân bung ra cạnh tranh gay gắt, thì hoạt động thương nghiệp của quốc doanh tỏ ra lúng túng, thua lỗ, mất thị trường dẫn đến vỡ nợ phải phá sản. Tỉnh dành 63% tổng vốn ngân sách đề đầu tư các công trình trọng điểm như xây dựng đường điện, thủy lợi, giao thông, trường học, bệnh viện. Hồ sông Quao là một công trình trọng điểm được Trung ương đầu tư, để cấp nước tưới cho địa bàn Hàm Thuận Bắc và nước sinh hoạt cho Phan Thiết được hoàn thành vào năm 1991..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Tuy nhiên thiên tai xảy ra liên tiếp, nắng hạn kéo dài nhiều nơi lâm vào cảnh thiếu ăn. Hàm Thuận Bắc là nơi mà tỉnh phải thường xuyên trợ cấp 70-80 tấn gạo hàng năm để cứu đói. Do giá cả biến động mạnh, thu nhập thực tế của người làm công ăn lương (công chức và cán bộ hưu trí) đều giảm sút. Xã hội xuất hiện phân hóa giàu nghèo. Ngày 26/12/1991 Thuận Hải được chia thành hai tỉnh mới là Ninh Thuận và Bình Thuận (bao gồm cả Bình Tuy). Từ 24 đến 27/06/1991 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII được tiến hành đã khẳng định “tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Dù cuối năm 1992 mưa nhiều gây lũ lụt, nhiều vùng bị mất trắng nhưng sản lượng lương thực vẫn đạt 220.000 tấn, tăng 20% so với 1990. Vùng lúa Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Tánh Linh, Đức Linh chiếm 77% về diện tích và 82,5% về sản lượng lúa toàn tỉnh. Các công trình thủy lợi Cà Giây (Bắc Bình), Đá Bạc (Tuy Phong), Ba Bàu (Hàm Thuận Nam) được hoàn thành phát huy tác dụng. Nông-lâm-hải sản tăng trưởng bình quân hàng năm là 11,87%. Cây cao su, cây điều, cây tiêu phát triển mạnh ở Đức Linh, Tánh Linh. Cây thanh long trồng tập trung ở Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Trong thương nghiệp hàng hóa luân chuyển thuận lợi, không ngừng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Hoạt động kinh tế đối ngoại bước đầu có chuyển biến, nhất là trên lĩnh vực gọi vốn đầu tư nước ngoài. Năm 1996 Bình Thuận có 10 dự án với tổng số vốn là 44,31 triệu USD. Văn hóa-Giáo dục-Y tế được tiếp tục phát triển theo hướng xã hội hóa. Trường Dân Tộc Nội trú được thành lập vào năm 1993 tạo nhiều cơ hội cho con em các đồng bào dân tộc thiểu số có điều kiện đến trường, góp phần nâng cao trình độ dân trí, phát triển kinh tế xã hội ở vùng sâu vùng xa. Diện đói nghèo thu hẹp dần, giảm từ 32,4% xuống còn 25,6%, số hộ giàu tăng lên. Cuộc vận động đền ơn đáp nghĩa, xây nhà tình nghĩa, tình thương, phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, các hoạt động nhân đạo từ thiện… được toàn dân hưởng ứng đem lại hiệu quả thiết thực. Các công trình văn hóa (tháp PôShanInu, Dinh vạn thủy tú,…) được trùng tu tôn tạo. Các lễ hội của đồng bào Chăm, đồng bào Hoa được sưu tầm bảo tồn. Bước vào đầu thế kỷ XXI, Bình Thuận trở thành “thủ đô” ReSort của Việt Nam. Mũi Né Phan Thiết có tên trên bản đồ du lịch thế giới, giúp cho ngành “công nghiệp không khói” của Bình Thuận phát triển mạnh, thu hút số lượng lớn nhân công lao động. Khu công nghiệp Phan Thiết ngày càng phát triển. Thủy điện Hàm Thuận-Đa Mi, thủy điện Đại Ninh liên tiếp được xây dựng. Ngành công nghiệp khai thác dầu khí như mỏ Sư tử vàng, Sư tử đen ngoài khơi Bình Thuận bước đầu đem lại nguồn thu ngân sách lớn cho tỉnh. Cây thanh long Bình Thuận xuất khẩu qua Mỹ và thị trường Châu Âu tạo cơ hội cho Bình Thuận vươn xa, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. *****.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Nguyễn Thông (1827-1884). Căn cứ La Bá (Tuy Phong). Mộ Lãnh binh Nguyễn Văn Luận (Trái), Mộ Phạm Đoan (Phải).

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Ga xe lửa Phan Thiết năm 1903. Cầu Quan và tháp nước Phan Thiết thời Pháp thuộc. Trường tiểu học Việt-Pháp Phan Thiết năm 1937.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Trường Dục Thanh Phan Thiết 1907. Các cổ đông của Công ty nước mắm Liên Thành. Một ngôi nhà cổ thời Pháp thuộc tại Phan Thiết.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Nguyễn Tương Nguyễn Gia Tú. Lễ đài buổi mít tinh mừng ngày Độc lập 02-09-1945 tại Phan Thiết.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Nhân dân Bình Thuận tiếp tế ủng hộ bộ đội trong kháng chiến chống Pháp. Súng Vít-ke ta thu được trong trận đánh Lầu Ông Hoàng 14-06-1947. Quan hai Pháp bị ta bắt tại Long Hương (Tuy Phong). Du kích Hồng Sơn chống Pháp bảo vệ xóm làng.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Bộ đội trung đoàn 812 với khẩu pháo 94 mm thu được trong trận Thạch Long – Mũi Né ngày 13-04-1953 (2 ảnh trên). Xe lửa quân sự Pháp bị ta đánh lật trên đoạn đường Phan Thiết-Mương Mán năm 1953.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Quân dân Hàm Thuận phá Ấp chiến lược làm chủ quê hương.. Nhân dân Phan Thiết biểu tình đòi dân sinh dân chủ..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Cờ của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam tặng cho lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận năm 1965.. Thanh niênhọc sinh Phan Thiết biểu tình chống Mỹ-Thiệu 1965. Chùa Từ Quang Phan Thiết tuyệt thực chống Mỹ-Thiệu 1966.. Nhân dân Thuận Phong lập bàn thờ Bác Hồ năm 1969..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Xe thiết giáp của Mỹ bị ta bắn hỏng tại Tam Giác, HàmThuận.. Đấu tranh chống Mỹ-Thiệu tại La Gi, Hàm Tân 1970..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Học sinh cấp I xã Hồng Thanh (khu Lê Hồng Phong), do thầy Hứng phụ trách từ 1969-1975.. Bình dân học vụ thời chống Mỹ tại huyện Thuận Phong..

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Trung đoàn 812 (ảnh trên) làm lễ xuất quân trong chiến dịch Hoài Đức-Tánh Linh ngày 09-12-1974 và tiểu đoàn 482 (hai ảnh dưới) trước giờ ra trận 1975..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Quân ta tấn công tiêu diệt Chi khu quận lỵ Thiện Giáo, giải phóng Ma lâm ngày 08-04-1975 (hai ảnh trên)..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Quân giải phóng tiến vào thị xã Phan Thiết ngày 19-04-1975.. Trước dinh tỉnh trưởng ngụy quyền Bình Thuận ngày 19-04-1975, máy bay địch đã không kịp tháo chạy..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Nhân dân Bình Thuận mít tinh tại sân vận động Phan Thiết ngày 30-04-1975 mừng giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.. Xác xe địch bỏ lại khi tháo chạy trên bãi biển Hàm Tân năm 1975..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Một số hình ảnh về Hợp Tác xã giai đoạn 1975-1985. Trụ sở Hợp tác xã nông nghiệp Hàm Nhơn 4 (ảnh trên), Hợp Tác xã đang thu hoạch lúa tại Đức Linh (ảnh giữa), Hợp tác xã mua bán tem phiếu tại Ma Lâm (ảnh dưới)..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Cán bộ khuyến nông tỉnh hướng dẫn bà con Đông Tiến làm vụ lúa nước đầu tiên.. Nhân dân Hàm Thuận làm thủy lợi chống hạn sau hòa bình lập lại 1975..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> Hồ Sông Quao – Hàm Thuận Bắc. Hồ thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Bàu Trắng – thuộc khu căn cứ Lê Hồng Phong trước kia nay là một thắng cảnh du lịch nổi tiếng của tỉnh.. Mũi Né – Phan Thiết, nhiều năm qua trở thành trung tâm du lịch nổi tiếng của Việt Nam..

<span class='text_page_counter'>(39)</span>

<span class='text_page_counter'>(40)</span>

<span class='text_page_counter'>(41)</span>

<span class='text_page_counter'>(42)</span>

<span class='text_page_counter'>(43)</span> V.GIÁO ÁN LÊN LỚP: Hai tiết dùng giảng dạy năm học lớp 11 I). Mục tiêu bài học: Sau khi học xong bài học, yêu cầu học sinh phải nắm và hiểu được những vấn đề sau:.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> 1. Về kiến thức: - Những phong trào đấu tranh chống Pháp thời Cần Vương. - Sự thiết lập chính quyền cai trị của Pháp trên đất Bình Thuận và những chuyển biến mới trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. - Những phong trào đấu tranh đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và phong trào cách mạng tiến tới giành chính quyền, kháng chiến chống Pháp thành công. 2. Về tư tưởng, tình cảm: - Giáo dục tình cảm gắn bó đoàn kết thương yêu nhau. - Tự hào về truyền thống lịch sử của địa phương Bình Thuận. - Thái độ trân trọng, gìn giữ, noi gương để phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng tốt đẹp hơn. 3. Về kỹ năng: - Ghi nhớ các sự kiện chính. - Phân tích, đánh giá, tổng hợp các sự kiện. II). Thiết bị, tài liệu Dạy - Học: - Sơ đồ tỉnh Bình Thuận, bản đồ các cuộc kháng chiến. - Tranh ảnh những nhân vật tiêu biểu qua các thời kỳ, tranh ảnh gốc về các sự kiện tiêu biểu. III). Tiến trình tổ chức dạy học: 1.Dẫn dắt vào bài mới: Bình Thuận một dải đất hiền hòa nhưng do vị trí địa lý là cửa ngõ của miền Nam và miền Trung, nên đã trải qua các cuộc chiến tranh ác liệt nhưng cũng rất đỗi tự hào. Vậy khi thực dân Pháp nổ tiếng súng xâm lược đầu tiên nhân dân Bình Thuận đã nổi dậy như thế nào? Kinh tế xã hội của Bình Thuận chuyển biến ra sao dưới sự khai thác của thực dân Pháp? Những hạt giống đỏ đầu tiên và sự lãnh đạo của Đảng đưa Bình Thuận kháng chiến chống Pháp thắng lợi hoàn toàn diễn ra như thế nào? Bài học hôm nay sẽ giúp các em nắm bắt được những vấn đề trên. 2.Tổ chức các hoạt động dạy và học trên lớp: Hoạt động của thầy và trò Nội dung học sinh cần nắm I.Bình Thuận từ giữa thế kỷ XIX đến năm *Hoạt động cá nhân: 1930: - Em hãy nhắc lại sự kiện thực dân 1.Thực dân Pháp Xâm lược và phong trào Pháp xâm lược Việt Nam? Nam Kỳ đã Cần Vương: mất vào tay thực dân Pháp như thế a.Khi Nam Kỳ bị Pháp chiếm: nào? - 1865, Phan Trung chỉ huy nghĩa quân vào - Nhân dân Bình Thuận tham gia Gia Định, Định Tường đánh giặc. chống Pháp cùng với nhân dân Nam - Nguyễn Thông không hợp tác với Pháp ra Kỳ như thế nào? Bình Thuận lập “Đồng Châu xã” và 1873 đưa dân khẩn hoang  chống Pháp. - Khi Nam Kỳ bị Pháp chiếm thì địa bàn Bình Thuận có vai trò gì? - Em biết gì về nhân vật Nguyễn Thông?. b.Khi Vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương: - Ở Hàm Thuận, Phan Thiết có nghĩa quân Ung Chiếm, nhiều lần tấn công phủ thành Hàm Thuận..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> - Ủng hộ chiếu Cần Vương, ở Bình Thuận có những nhóm nghĩa quân nào? Theo em hoạt động của nhóm nghĩa quân nào là tiêu biểu nhất? tại sao? - Em có nhận xét gì về phong trào Cần Vương ở Bình Thuận?. *Hoạt động nhóm: Chia lớp thành hai nhóm hoạt động theo bàn: - Nhóm 1: Nêu những chuyển biến mới về chính trị, ở Bình Thuận trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp? - Nhóm 2: Nêu những chuyển biến mới về kinh tế ở Bình Thuận trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp? +Về Nông nghiệp: +Về Thương mại: +Về Giao thông – đô thị: +Về Công nghiệp: - Nhóm 3: Trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp những tầng lớp giai cấp mới ở Bình Thuận đã xuất hiện như thế nào? - Nhóm 4: Chọn những sự kiện tiêu biểu trong giai đoạn này? Tại sao?. - Ở Tuy Phong, Hòa Đa có nghĩa quân của Nguyễn Văn Luận, Phùng Hàn, Phùng Tố lập căn cứ chống Pháp tại núi Kênh Kênh. - Còn có nghĩa quân của Phạm Đoan, Cao Hành lập căn cứ ở Phan Rí, Chí Công nhiều lần đánh chiếm phủ thành Bình Thuận. => Nghĩa quân chiến đấu kiên cường, dũng cảm nhưng đến tháng 09.1866 phong trào Cần Vương tại Bình Thuận bị dập tắt. 2.Những chuyển biến mới trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp: - Pháp duy trì chính quyền nhà Nguyễn bên cạnh cơ quan đại lý của Pháp, thực chất đây là bộ máy chính quyền thực dân. - Cường hào, địa chủ dựa vào Pháp chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân. - Pháp độc quyền buôn bán và thu thuế, dân ta phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng. - Để thuận lợi cho việc bóc lột, khai thác tài nguyên Pháp cho mở quốc lộ 1, quốc lộ 28 và quy hoạch Phan Thiết thành đô thị với nhà ga xe lửa và các ngôi nhà mang kiến trúc Pháp. - Công nghiệp có phát triển với các cơ sở chế biến và sửa chữa. - Xã hội có sự thay đổi, đặc biệt hình thành tầng lớp công nhân và tư sản-tiểu tư sản  ảnh hưởng đến phong trào cánh mạng tại Bình Thuận. +Từ 1906-1908 Liên thành thương quán, Liên thành thư xã, Dục Thanh học hiệu được thành lập tại Phan Thiết. +Từ 1909-1910, Nguyễn Tất Thành được cụ Trương Gia Mô đưa vào dạy học tại trường Dục Thanh trước khi ra đi tìm đường cứu nước.. 3.Những phong trào đấu tranh đầu tiên dưới *Hoạt động tập thể: sự lãnh đạo của Đảng: - Chủ nghĩa cộng sản đã đến với Bình a.Những Đảng viên cộng sản đầu tiên của Thuận như thế nào? Bình Thuận: - Từ 1928-1930, đ/c Lê Trọng Mâu, Dương - Chi bộ cộng sản đầu tiên của Bình Chước đến làng Đại Nẫm tuyên truyền chủ Thuận được thành lập vào thời gian nghĩa cộng sản và kết nạp Đảng viên mới..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> nào? Tại đâu? Và do ai thành lập? - 1930, đ/c Ngô Đức Tốn đã thành lập chi bộ - Em biết gì về nhân vật Ngô Đức cộng sản đầu tiên tại dốc Ông Bằng, làng Tốn? Tam Tân (La Gi). - 1930, đ/c Hồ Quang Cảnh, đ/c Nghệ ra làng - Những Đảng viên được kết nạp sớm Tùy Hòa phát triển Đảng cho các đ/c Nguyễn nhất tại Bình Thuận là những đồng chí Thắng, Nguyễn Gia Tú, Nguyễn Tương,… nào? b.Những phong trào cách mạng đầu tiên: - Em biết gì về nhân vật Nguyễn Gia - 13/07/1930, rãi truyền đơn tại Phan Thiết. Tú? Nhân vật Nguyễn Tương? - Từ tổ Nông hội thành lập đội tự vệ vũ trang. - Những phong trào cách mạng đầu - Phát hành tờ Báo “Nhân Đạo” để tuyên tiên do Đảng lãnh đạo tại Bình Thuận truyền và cổ vũ phong trào cách mạng. là những phong trào nào? Hình thức - 15/08/1931 rãi truyền đơn trên địa bàn hoạt động? Phan Thiết, Hàm Thuận. => Pháp tiến hành đàn áp, nhiều đ/c bị bắt, - Tại sao thực dân Pháp tiến hành đàn phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. áp, khủng bố phong trào và bắt các II.Bình Thuận từ trước cách mạng tháng đồng chí lãnh đạo Đảng của tỉnh? Tám đến năm 1954: 1.Đảng lãnh đạo nhân dân Bình Thuận tiến - Tỉnh Bình Thuận đã chấp hành chỉ tới cách mạng tháng Tám 1945: đạo tháng 07/1936 của trung ương - Tháng 08/1936, đ/c Nguyễn Gia Tú thành Đảng như thế nào? lập ủy ban vận động “Đông Dương đại hội” tại Phan Thiết. - Em hãy nêu những phong trào tiêu - 1937-1939, phong trào đấu tranh dân chủ biểu ở Bình Thuận trong giai đoạn đấu công khai diễn ra mạnh mẽ (đưa người ứng tranh dân chủ công khai 1936-1939? cử vào “Viện dân biểu”, tiểu thương chợ Phan Thiết bãi thị, công nhân nhà máy đèn bãi công, nông dân Ngã Hai biểu tình,…) - Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra - 1941 Nhật-Pháp cấu kết đàn áp nhân dân ta đã ảnh hưởng như thế nào đến tỉnh - 1943, Mỹ ném bom Nhật, giết chết nhiều Bình Thuận? thường dân vô tội  09/03/1945 Nhật đảo chính Pháp, lập chính quyền tay sai thân Nhật tại Bình Thuận. - Sự kiện Nhật đảo chính Pháp ở Bình - Tháng 04/1945 Ban vận động Việt Minh Thuận diễn ra như thế nào? lâm thời tỉnh Bình Thuận được thành lập. - Ngày 17/08/1945 cờ đỏ sao vàng được treo - Em hãy nêu những sự kiện tiêu biểu trước tòa sứ của Pháp, biểu ngữ treo trên cầu dẫn đến thành công của cách mạng gỗ sông Cà Ty  25/08/1945, chính quyền đã tháng Tám năm 1945 tại Bình Thuận? về tay nhân dân. - Ngày 02/09/1945, tổ chức mit tinh trên sân vận động Phan Thiết mừng ngày độc lập. - Sau khi giành được độc lập, nhân dân 2.Nhân dân Bình Thuận kháng chiến chống Bình Thuận đã làm những việc gì để Pháp xâm lược lần 2: củng cố chính quyền và chống giặc a.Củng cố chính quyền, chống giặc đói, giặc.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> đói, giặc dốt? - Em có nhận xét gì về nghĩa cử của Bà công chúa Nguyễn Thị Thềm, hiến đồ thờ cúng bằng vàng của Hoàng tộc Chăm cho Việt Minh trong “tuần lễ vàng”? - Ngay trong những ngày hòa bình ngắn ngủi thực dân Pháp đã chuẩn bị chống phá ta như thế nào? - Tại sao thực dân Pháp tiếp tục quay lại xâm lược? Trận đánh nào, ở đâu, mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp lần hai tại Bình Thuận? - Những sự kiện tiêu biểu ghi nhận chiến thắng của Bình Thuận trong giai đoạn 1946-1949? - Tại sao thực dân Pháp lại tiến hành cuộc tàn sát dã man nhất Nam Trung Bộ vào ngày 21/01/1951 tại Tuy Phong? - Em có nhận xét gì về những sự kiện diễn ra ở Bình Thuận từ 1951 đến 1953? - Bình Thuận đã thắng lợi trong chiến dịch Đông-Xuân 1953-1954 như thế nào?. dốt: - Tháng 09/1945, Mặt trận Việt Minh của tỉnh chính thức được thành lập do đ/c Nguyễn Tương làm chủ tịch. - Tháng 01/1946 Bác sỹ Huỳnh Tấn Đối và đ/c Nguyễn Tương được bầu và trúng cử đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận khóa đầu tiên của nước Việt Nam DCCH. - Vận động tăng gia sản xuất, bình dân học vụ và “tuần lễ vàng” được đông đảo nhân dân ủng hộ. b.Chống giặc ngoại xâm tiến tới thắng lợi: - Từ ngày 28 đến 30/01/1946 Pháp tiến quân tái chiếm Bình Thuận  Ngày 31/01 ta mở đầu tấn công địch tại dốc Hồi Long (Tuy Phong). - Từ 1946-1949 ta liên tiếp giành thắng lợi: +25/06/1946 thành lập trung đoàn 82 (sau sát nhập thành trung đoàn 812) +14/06/1947 tấn công đồn Lầu Ông Hoàng. +Hoạt động của Cảm tử đội “Nguyễn Thái Học”. +Tháng 08/1949, đại hội tỉnh Đảng bộ lần I. - 21/01/1951, Pháp giết hại 178 người, bị thương 50 người, đốt 200 nóc nhà của đồng bào ta tại La Gàn, Cát Bay (Tuy Phong). - Ngày 28/12/1951, trung đoàn 812 tấn công tiêu diệt địch tại Căng Esepic. - Đêm 07/04/1954, ta giải phóng Tánh Linh tháng 05/1954 giải phóng Hòa Đa, Tuy Phong, Hàm Thuận và đêm 31/07/1954 ta tấn công đồn Sông Dinh, là trận đánh cuối cùng trong chiến dịch Đông-Xuân 19531954 tại Bình Thuận. => Pháp ký hiệp định Gơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Đông Dương, ta tập kết chuyển quân ra Bắc, cùng cả nước tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.. 3. Củng cố: - Những phong trào đấu tranh chống Pháp thời Cần Vương. - Sự thiết lập chính quyền cai trị của Pháp trên đất Bình Thuận và những chuyển biến mới trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp..

<span class='text_page_counter'>(48)</span> - Những phong trào đấu tranh đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và phong trào cách mạng tiến tới giành chính quyền, kháng chiến chống Pháp thành công. 4.Dặn dò: Xem lại bài, ghi nhớ các kiến thức chính.. ***** *******. Hai tiết dùng giảng dạy năm học lớp 12 I). Mục tiêu bài học: Sau khi học xong bài học, yêu cầu học sinh phải nắm và hiểu được những vấn đề sau: 1. Về kiến thức: - Những phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Thuận chống Mỹ-Diệm tiến tới Đồng Khởi. - Đảng lãnh đạo nhân dân Bình Thuận phá tan các chiến lược chiến tranh của MỹNgụy, tiến tới giải phóng tỉnh nhà, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. - Những nét chính của công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng trên quê hương Bình Thuận. 2. Về tư tưởng, tình cảm: - Giáo dục tình cảm gắn bó đoàn kết thương yêu nhau. - Tự hào về truyền thống lịch sử của địa phương Bình Thuận. - Thái độ trân trọng, gìn giữ, noi gương để phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng tốt đẹp hơn. 3. Về kỹ năng: - Ghi nhớ các sự kiện chính. - Phân tích, đánh giá, tổng hợp các sự kiện. II). Thiết bị, tài liệu Dạy - Học: - Sơ đồ tỉnh Bình Thuận, bản đồ các cuộc kháng chiến. - Tranh ảnh những nhân vật tiêu biểu qua các thời kỳ, tranh ảnh gốc về các sự kiện tiêu biểu. III). Tiến trình tổ chức dạy học: 1.Dẫn dắt vào bài mới: Quê hương Bình Thuận vừa có biển vừa có núi, là cửa ngõ vào Nam bộ và lên Tây nguyên, nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc xây dựng CNXH, Đảng liên tục lãnh đạo nhân dân tỉnh nhà vượt qua mọi khó khăn gian khổ đạt được những thành công quan trọng. Vậy nhân dân Bình Thuận đã kháng chiến chống Mỹ như thế nào? Bình Thuận đã giải quyết những khó khăn ra sao trong bước đầu xây dựng CNXH? Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trên quê hương Bình Thuận? Bài học hôm nay sẽ giúp các em nắm bắt được những vấn đề trên..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> 2.Tổ chức các hoạt động dạy và học trên lớp:. Hoạt động của thầy và trò *Hoạt động cá nhân: - Em hãy nhắc lại việc Mỹ đã thiết lập chính quyền Ngô Đình Diệm làm tay sai ở miền Nam như thế nào? - Chính quyền Mỹ-Diệm được thiết lập ở Bình Thuận nhằm mục đích gì? - Em hãy cho biết tên gọi chiến dịch, thời gian, thủ đoạn mà Mỹ-Diệm đã tiến hành ở khu vực Bình Thuận trong thời gian này? - Nhân dân Bình Thuận đã đấu tranh chống Mỹ-Diệm như thế nào? Tiêu biểu là những phong trào đấu tranh nào? - Để tiến tới Đồng Khởi, quân dân Bình Thuận đã tham gia đấu tranh vũ trang như thế nào? Trận đánh nào tiêu biểu nhất? Vì sao? - Em biết gì về chiến dịch Hoài Đức – Bắc Ruộng tháng 07/1960? Tại sao thắng lợi của chiến dịch này có ý nghĩa bước ngoặc cho phong trào chống MỹNgụy ở miền Nam? *Hoạt động nhóm: - Nhóm 1: Âm mưu thủ đoạn của địch, thắng lợi của quân dân Bình Thuận trên lĩnh vực chính trị, trên lĩnh vực quân sự trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”?. Nội dung học sinh cần nắm III.Bình Thuận từ 1954 đến 1975: 1.Chống chính sách khủng bố của Mỹ-Diệm tiến tới Đồng Khởi: a.Chính sách khủng bố của Mỹ-Diệm ở Bình Thuận: - 1955, lập chính quyền tay sai thân Mỹ từ tỉnh đến các làng xã. - Mở chiến dịch “tố cộng” đợt 1 (1955-1956) đợt 2 (1956-1958) tăng cường tàn sát lùng bắt những người kháng chiến cũ. - 1957, thực hiện chính sách “Thượng du vận” địch tiến hành gom dân lập các “khu dinh điền”, “khu trù mật” nhằm đánh phá phong trào cách mạng ở vùng núi. - Ngày 30/09/1957 chúng đưa 131 đồng chí của Bình Thuận đày đi Côn Đảo. b.Quân dân Bình Thuận tiến tới Đồng Khởi: - 1954-1955, nhân sỹ, trí thức Bình Thuận đưa kiến nghị lên tỉnh trưởng đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. - Tháng 08/1954, nhân dân một số xã vùng ven biểu tình hòa bình kéo vào Phan Thiết bị địch tấn công đàn áp. - Tháng 12/1955, một số tổ chức đoàn thể của ta chuyển ra hoạt động hợp pháp. - Tháng 07/1960, ta mở chiến dịch Hoài Đức-Bắc Ruộng và thắng lợi có ý nghĩa bước ngoặc cho phong trào chống Mỹ-ngụy ở miền Nam. - Ngày 12/10/1962, hội nghị tỉnh ủy Bình Thuận đã họp bàn thành lập Mặt trận giải phóng miền Nam của tỉnh. 2.Nhân dân Bình Thuận phá tan các chiến lược chiến tranh của Mỹ-Ngụy: a.Trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”: - Địch gom dân trên quốc lộ 1 và quốc lộ 28, nhằm đánh bật lực lượng của ta ra khỏi Tam Giác  ta vẫn kiên quyết bám đất sản xuất, chi viện cho cách mạng. - Ngày 04/08/1962, ta đánh Chi khu Hàm Tân  căn cứ của ta vẫn được giữ vững. - 1962-1963 học sinh, thanh niên Phật tử đấu.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> - Nhóm 2: Âm mưu thủ đoạn của địch, thắng lợi của quân dân Bình Thuận trên lĩnh vực chính trị, trên lĩnh vực quân sự trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”?. - Nhóm 3: Âm mưu thủ đoạn của địch, thắng lợi của quân dân Bình Thuận trên lĩnh vực chính trị, trên lĩnh vực quân sự trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”?. - Nhóm 4: Chọn 4 sự kiện tiêu biểu nhất về thắng lợi của quân dân Bình Thuận trong việc phá tan các chiến lược chiến tranh của Mỹ-Ngụy?. *Hoạt động tập thể: - Lực lượng quân đội Mỹ cuối cùng rút khỏi Bình Thuận vào thời gian nào? Tình hình Bình Thuận sau Hiệp định Pari 1973?. tranh chính trị phản đối chính quyền Diệm. - 1964, địch lập “Biệt khu Bình Lâm”, rải chất độc hóa học,… nhiều ấp chiến lược bị ta phá, nối vùng giải phóng của Hoài Đức-Tánh Linh với ĐNB và Tây Nguyên. b.Trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”: - Tháng 11/1965, quân Mỹ đến Bình Thuận, chúng mở liên tục các đợt tấn công  ta tấn công tiêu diệt địch ở Hoài Đức-Tánh Linh, là trận đánh mở đầu thắng Mỹ tại Bình Thuận. - 1966, tiểu đoàn 482 tấn công tiêu diệt địch trên quốc lộ 28 và địa bàn Hàm Thuận gây cho chúng nhiều thiệt hại. - Phong trào đấu tranh chính trị và công tác binh vận đạt nhiều kết quả ở Phan Thiết, Tuy Phong. - Từ 1966 đến 1967, ta tổ chức nhiều đợt tấn công địch ở khắp các huyện trong tỉnh, tiêu biểu là trận tập kích vào Chi khu Duồng, Bàu Ốc (1967). - Mùng 3 tết Mậu Thân 1968, ta tấn công Phan Thiết và đã chiếm được nhiều vị trí quan trọng trong thành phố, giải thoát cho hơn 700 cán bộ, đồng bào bị địch giam giữ. c.Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”: - Mỹ-Thiệu thực hiện chương trình “Bình định nông thôn” tăng cường các hệ thống đồn bót, lô cốt… - Đấu tranh quân sự: +22/02/1969, ta tấn công Căng ESEPIC. +Phong trào bắn rơi máy bay Mỹ, săn diệt xe cơ giới. -Đấu tranh chính trị: +Để tang Bác Hồ, lập bàn thờ Bác ngay trong vùng địch tạm chiếm. +Học sinh và thanh niên Phật tử Phan Thiết biểu tình chống Mỹ-Thiệu, tổ chức sinh hoạt chính trị “Hát cho đồng bào tôi nghe”. 3.Tích cực tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam 1975: - Sau Hiệp định Pari 1973 địch vẫn tăng cường đánh phá vùng giải phóng của ta. - 1974, ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị đạt nhiều kết quả..

<span class='text_page_counter'>(51)</span> - Nêu diễn biến quá trình giải phóng các địa phương của tỉnh, tiến tới giải phóng Phan Thiết toàn bộ tỉnh Bình Thuận?. - Việc Bình Thuận được giải phóng đã góp phần như thế nào vào đại thắng Mùa Xuân 1975 thống nhất đất nước?. - Những khó khăn của năm đầu tiên sau giải phóng 1975 ở Bình Thuận là gì? Nhân dân Bình Thuận đã làm gì để vượt qua những khó khăn đó? Thắng lợi này có ý nghĩa như t. - Tỉnh Thuận Hải được thành lập trong hoàn cảnh nào? Chúng ta đã cũng cố chính quyền các cấp ra sao?. - Những khó khăn cơ bản trong giai đoạn đầu tiên đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của tỉnh Bình Thuận là gì?. - Ngày 10/12/1974, ta mở chiến dịch Hoài Đức-Tánh Linh  24/12, Tánh Linh là địa phương đầu tiên của Bình Thuận được giải phóng. - Ngày 16 đến 23/03/1975 huyện Hoài Đức được giải phóng. - Ngày 08/04/1975 ta tấn công Chi khu Thiện Giáo và giải phóng Ma Lâm. - Từ 17 đến 18/04/1975 ta giải phóng Tuy Phong, Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh và vượt cầu Phú Long tấn công vào Phan Thiết. - Ngày 19/04/1975, ta giải phóng Phan Thiết. - Ngày 23/04/1975, ta giải phóng Bình Tuy và làm chủ thị xã La Gi. - Ngày 27/04/1975, giải phóng đảo Phú Quý. => Từ 16/03 đến 27/04/1975 quân dân Bình Thuận đã giải phóng hoàn toàn quê hương, góp phần cùng cả nước đại thắng Mùa Xuân 1975 thống nhất đất nước. IV.Bình Thuận từ 1975 đến năm 2000: 1.Bình Thuận năm đầu sau giải phóng: - Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục cầu cống, đường giao thông, ổn định nơi ăn chốn ở cho nhân dân. - Thực hiện người cày có ruộng, khôi phục nghề cá và các cơ sở thủ công nghiệp. - Tiến hành cải tạo XHCN, nhà nước thống nhất quản lý và phân phối hàng hóa. - Văn hóa, giáo dục, y tế được khôi phục. => Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp quản, ổn định kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng sau giải phóng. 2.Bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương Bình Thuận (1975-1985): - Ngày 20/12/1975 Bình Thuận, Bình Tuy, Ninh Thuận hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải. - Ngày 25/04/1976 bầu quốc hội khóa VI, Bình Thuận có 9 đại biểu trúng cử. Chính quyền các cấp cũng được thành lập. - Khó khăn: +Mỹ cấm vận, lôi kéo vượt biên trái phép, các tổ chức phản động chống phá chính quyền cách mạng. +Chiến tranh biên giới, lũ lụt, hạn hán, mất.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> - Trước những khó khăn như vậy thì Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã lãnh đạo nhân dân tỉnh nhà khắc phục và giành thắng lợi như thế nào? - Dựa vào tài liệu và hiểu biết của em, em có thể nêu lên một số việc mà Bình Thuận chưa làm được trong giai đoạn này? Theo em hướng giải quyết mà Bình Thuận cần phải làm là gì?. - Bình Thuận đã thực hiện chỉ đạo của trung ương về đổi mới như thế nào? Trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế em thấy có gì khác giai đoạn 19751985? - Hãy tìm và nêu các công trình thủy lợi được tỉnh đầu tư xây dựng trong giai đoạn này? Tại sao tỉnh lại ưu tiên ngân sách để đầu tư các công trình trọng điểm? - Những thành tựu chính trên các lĩnh vực mà Bình Thuận đã đạt được từ 1986 đến 2000 là gì? - Theo em bước vào thế kỷ XXI, Bình Thuận sẽ hứa hẹn đạt được thành công trên những lĩnh vực, ngành nghề nào? Và tiềm năng của Bình Thuận có thể phát triển được ở những lĩnh vực nào? - Em sẽ làm gì để góp sức cho quê hương Bình Thuận ngày càng giàu. mùa đói kém. - Biện pháp khắc phục: +Coi trọng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, xây dựng hợp tác xã, di dân xây dựng vùng kinh tế mới. +Tập trung vốn đầu tư cho ngành công nghiệp và thủy lợi, đưa ngư dân vào làm ăn tập thể. +Ưu tiên xóa nạn mù chữ. +Mở nhiều đợt truy quét, xóa sổ các tổ chức phản động, giữ vững an ninh chính trị. - Từ 16 đến 23/10/1979 đại hội tỉnh Đảng bộ Thuận Hải lần thứ II được triệu tập. - Từ 03 đến 07/03/1983 đại hội tỉnh Đảng bộ Thuận Hải lần thứ III được triệu tập. 3.Bình Thuận thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn 1986-2000: - Từ 13 đến 18/10/1986 đại hội tỉnh Đảng bộ Thuận Hải lần thứ IV được triệu tập, cơ chế khoán 10 được triển khai, chuyển sang kinh tế thị trường. - Tỉnh dành 63% tổng vốn ngân sách để đầu tư các công trình trọng điểm, thủy lợi Sông Quao được đầu tư. - Ngày 26/12/1991 tái lập tỉnh Bình Thuận, các công trình thủy lợi được xây dựng thêm, nông-lâm-hải sản tăng bình quân 11,87%. - Cây công nghiệp và cây thanh long phát triển mạnh. Hoạt động kinh tế đối ngoại có chuyển biến. - Văn hóa, giáo dục, y tế phát triển. Năm 1993 thành lập trường dân tộc nội trú tỉnh. - Công tác xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa được coi trọng và toàn xã hội tham gia. - Bước vào thế kỷ XXI, Bình Thuận phát triển mạnh về du lịch, cây thanh long xuất khẩu cũng tạo được thương hiệu. Xuất hiện một số công trình mới như thủy điện, khai thác đầu khí,… => Từ khi đổi mới, Bình Thuận ngày càng phát triển và có cơ hội vươn xa, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> mạnh? 3. Củng cố: - Những phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Thuận chống Mỹ-Diệm tiến tới Đồng Khởi. - Đảng lãnh đạo nhân dân Bình Thuận phá tan các chiến lược chiến tranh của MỹNgụy, tiến tới giải phóng tỉnh nhà, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. - Những nét chính của công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng trên quê hương Bình Thuận. 4.Dặn dò: Xem lại bài, ghi nhớ các kiến thức chính.. VI.BÀI TẬP THỰC HÀNH: (Bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan) 1.Những thủ lĩnh lãnh đạo phong trào Cần Vương Bình Thuận là: a.Ung Chiếm, Nguyễn Thông, Nguyễn Văn Luận, Phạm Đoan. b.Ung Chiếm, Nguyễn Văn Luận, Phùng Hàn, Phạm Đoan, Cao Hành. c.Ung Chiếm, Nguyễn Văn Luận, Phạm Đoan, Cao Hành. d.Ung Chiếm, Nguyễn Văn Luận, Phùng Hàn, Phùng Tố, Phạm Đoan, Cao Hành. 2.Địa bàn hoạt động của nghĩa quân Ung Chiếm, nay thuộc địa bàn: a.Huyện Hàm Thuận Bắc và thành phố Phan Thiết. b.Huyện Hàm Thuận Bắc và huyện Bắc Bình. c.Huyện Hàm Thuận Nam và thành phố Phan Thiết. d.Huyện Bắc Bình và huyện Tuy Phong. 3.Thực dân Pháp thiết lập chế độ cai trị tại Bình Thuận từ: a. Năm 1885. b.Năm 1886..

<span class='text_page_counter'>(54)</span> c. Năm 1887. d.Năm 1888. 4.Ruộng đất Bình Thuận chủ yếu tập trung trong tay tầng lớp nào: a.Nông dân và người Pháp. b.Các địa chủ và nhà thờ. c.Cường hào địa chủ, sĩ quan, viên chức Pháp và nhà thờ. d.Nông dân, cường hào địa chủ và nhà thờ. 5.Có một thứ thuế mà thực dân Pháp đánh vào điều kiện tự nhiên Bình Thuận là: a.Thuế ghe thuyền. b.Thuế muối. c.Tô nước. d.Thuế thân. 6.Phan Thiết được Vua Thành Thái công nhận là thị xã thời gian nào: a.Năm 1890. b.Năm 1898. c.Năm 1903. d.Năm 1910. 7.Tầng lớp công nhân Bình Thuận khi mới hình thành chủ yếu làm việc tại: a.Các cơ sở chế biến nước mắm và các ghe thuyền. b.Các ga xe lửa và nhà máy nước suối Vĩnh Hảo. c.Các đồn điền Cao su ở Đức Linh và Tánh Linh. d.Các sở khai thác muối và các nhà máy xay xát. 8.Ủng hộ thu tưởng Duy tân rất sớm ở Bình Thuận, có những người yêu nước nào: a.Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp. b.Nguyễn Thông, Trương Gia Mô. c.Nguyễn Quý Anh, Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Tất Thành. d.Trương Gia Mô, Nguyễn Quý Anh, Nguyễn Trọng Lội. 9.Năm 1909, trước khi dạy học tại trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành đã đến địa phương nào của tỉnh Bình Thuận và gặp ai? a.Làng Hà Thủy – Tuy Phong, gặp cụ Nguyễn Thông. b.Làng Bình Thủy – Hòa Đa, gặp cụ Phan Châu Trinh. c.Làng Xuân Thủy – Hàm Thuận, gặp cụ Nguyễn Thông. d.Làng Hà Thủy – Tuy Phong, gặp cụ Trương Gia Mô. 10.Những đảng viên Cộng sản đầu tiên được kết nạp tại Bình Thuận là: a.Lê Trọng Mâu, Dương Chước, Hồ Quang Cảnh,… b.Lê Trọng Mâu, Ngô Đức Tốn, Nguyễn Thắng, Nguyễn Tương,… c.Hồ Quang Cảnh, Nguyễn Thắng, Nguyễn Gia Tú, Nguyễn Tương, Trần Hoành,… d.Ngô Đức Tốn, Nguyễn Thắng, Nguyễn Gia Tú, Nguyễn Tương, Trần Hoành,… 11.Chi bộ Cộng sản đầu tiên của Bình Thuận được thành lập tại đâu, do ai làm bí thư? a.Làng Tùy Hòa (Hàm Đức), đ/c Nguyễn Thắng làm bí thư. b.Làng Phong Nẫm (Phan Thiết), đ/c Lê Trọng Mâu làm bí thư. c.Làng Tam Tân (La Gi), đ/c Ngô Đức Tốn làm bí thư. d.Làng Bãi Rạng (Mũi Né), đ/c Hồ Quang Cảnh là bí thư. 12.Hình thức đấu tranh chủ yếu của nhân dân Bình Thuận giai đoạn 1930-1931 là: a.Rải truyền đơn - đấu tranh chính trị. b.Đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị. c.Lập đội tự vệ - đấu tranh vũ trang là chủ yếu. d.Chỉ đấu tranh cầm chừng, chủ yếu là xây dựng lực lượng. 13.Tháng 08/1936 tại Phan Thiết, đồng chí Nguyễn Gia Tú đã thành lập:.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> a.Ủy ban vận động Đông Dương đại hội. b.Trường Cao Đẳng thanh niên Đông Dương. c.Ủy ban vận động người ứng cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ. d.Tổ chức đấu tranh đòi dân sinh dân chủ. 14.Đêm 09/03/1945 tại Bình Thuận xảy ra sự kiện gì: a.Máy bay Mỹ thả bom vào đảo Phú Quý giết dân thường vô tội. b.Nhật tiến hành đảo chính lật đổ chính quyền Pháp tại Bình Thuận. c.Một số Đảng viên Nguyễn Sắc Kim, Nguyễn Nhơn, Nguyễn Chúc,… về Bình Thuận hoạt động. d.Ban vận động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận được thành lập. 15.Cách mạng tháng Tám 1945 ở Bình Thuận thành công vào ngày, tháng, năm nào: a.Ngày 23/08/1945. b.Ngày 24/08/1945. c.Ngày 25/08/1945. d.Ngày 26/08/1945. 16.Hai đại biểu của Bình Thuận được bầu và trúng cử Quốc hội khóa đầu tiên là ai: a.Nguyễn Tương và Nguyễn Gia Tú. b.Nguyễn Tương và Nguyễn Sắc Kim. c.Nguyễn Thị Thềm và Nguyễn Tương. d.Huỳnh Tấn Đối và Nguyễn Tương. 17.Năm 1946 Pháp xâm lược lần hai, trận đánh thắng Pháp đầu tiên là trận: a.Trận đánh tại dốc Hồi Long (Tuy Phong). b.Trận đánh vào Lầu Ông Hoàng (Phan Thiết). c.Trận đánh tại Cầu Phú Long (Hàm Thuận). d.Trận đánh tại Thái An (Hòa Đa). 18.Giai đoạn 1946 đến 1954 tại Bình Thuận có những trận đánh nào quan trọng? a.Dốc Hồi Long, Cầu Phú Long, Thái An, Sông Dinh. b.Cầu Phú Long, Thái An, Căn Esepic, Sông Dinh. c.Căn Esepic, Sông Dinh, Mương Mán, dốc Hồi Long. d.Dốc Hồi Long, Lầu Ông Hoàng, Căn Esepic, Sông Dinh. 19.Để đấu tranh chống Mỹ-Diệm lực lượng nhân sỹ trong tổ chức “bảo vệ hòa bình” của Phan Thiết, Hàm Thuận đã làm gì? a.Vận động 300 quần chúng biểu tình kéo về đồn Ngã hai (Hàm Mỹ) đưa kiến nghị đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. b.Đưa bản kiến nghị với 2000 chữ ký lên tên tỉnh trưởng Bình Thuận, đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Gơ-ne-vơ. c.Đưa một số tổ chức đoàn thể của ta ra hoạt động hợp pháp. d.Tổ chức đấu tranh tuyệt thực tại dinh Tỉnh trưởng Bình Thuận. 20.Nhằm đánh phá phong trào cách mạng miền núi, Mỹ-Diệm đã thực hiện chính sách gì: a.Dồn dân lập ấp chiến lược, chia ruộng đất cho nông dân. b.Chuyển đồng bào từ miền núi xuống ở đồng bằng. c.Gom dân tại chỗ, lập “khu trù mật”, “khu dinh điền”. d.Thả chất độc hóa học, tàn sát đồng bào. 21.Trận đánh thắng nào tại Bình Thuận được xem là “chiến thắng mở đầu cho bước ngoặc lịch sử của phong trào chống Mỹ-Ngụy, cứu nước ở miền Nam”?.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> a.Chiến thắng Hoài Đức-Tánh Linh. b.Chiến thắng Căn Esepic (Phan Thiết). c.Chiến thắng đường 8 (nay là Quốc lộ 28). d.Chiến thắng Hoài Đức-Bắc Ruộng. 22.Các cuộc đấu tranh chính trị ở Bình Thuận giai đoạn 1964-1973, lực lượng tham gia chủ yếu là: a.Học sinh trường Phan Bội Châu, trường Bồ Đề và thanh niên phật tử. b.Các giáo chức và các đoàn thể trong giới phật tử. c.Lực lượng trong giới trí thức và tiểu thương chợ Phan Thiết. d.Lực lượng binh lính có cảm tình với cách mạng. 23.Năm 1964 địch đã thành lập cơ quan nào để điều hành các cuộc hành quân càn quét từ Bình Thuận đến Lâm Đồng? a.Chi khu Bình Lâm. b.Biệt khu Bình Lâm. c.Chiến lược miền Tây. d.Chi khu Châu Thành-Phan Thiết. 24.Trận đánh Mỹ đầu tiên trên địa bàn Bình Thuận diễn ra tại địa phương nào? a.Hòa Đa, Thuận Phong. b.Hàm Thuận, Phan Thiết. c.Hoài Đức, Tánh Linh. d.Hàm Tân, Tuy Phong. 25.Tiểu đoàn 482 phục kích trên quốc lộ 28 đánh đoàn xe tiếp tế của địch từ Phan Thiết lên Ma Lâm vào ngày tháng năm nào? a.20/02/1966. b.21/03/1966. c.23/01/1966. d.21/02/1966. 26.Trong trận Mậu Thân 1968 tại Phan Thiết, có nhiều tấm gương hy sinh anh dũng nhưng có một người được phong anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là: a.Anh hùng Nguyễn Hội. b.Anh hùng Từ Văn Tư. c.Anh hùng Mang Đa. d.Anh hùng Nguyễn Thanh Mận. 27.Chiến thắng nào tại Bình Thuận, góp phần vào chuyển biến tình hình, tạo tiền đề cho cuộc tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn quê hương Bình Thuận? a.Giải phóng Chi khu Tánh Linh, ngày 24/12/1974. b.Giải phóng Chi khu Hoài Đức, ngày 12/12/1974. c.Giải phóng Chi khu Thiện Giáo, ngày 08/04/1975. d.Giải phóng Sân bay Căng ESEPIC, ngày 09/04/1975. 28.Đảo Phú Quý, phần đất cuối cùng của Bình Thuận được giải phóng vào ngày: a.Ngày 18/04/1975. b.Ngày 19/04/1975. c.Ngày 23/04/1975. d.Ngày 27/04/1975. 29.Những khó khăn mà năm đầu tiên mới giải phóng 1975, Bình Thuận gặp phải là gì? a.Cơ sở hạ tầng hư hỏng nặng, lực lượng chống phá chính quyền vẫn còn. b.Cầu cống hư hỏng, nhiều bom đạn vẫn nằm trong lòng đất. c.Các đảng phái phản động, ngụy quân, ngụy quyền vẫn ngấm ngầm hoạt động chống phá cách mạng. d.Thiếu thốn lương thực..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> 30.Đảng bộ và nhân dân Bình Thuận đã làm gì để vượt qua khó khăn trong bước đầu xây dựng CNXH, giai đoạn 1975-1985? a.Coi trọng sản xuất, lập các hợp tác xã nông nghiệp. b.Đầu tư hơn 70% vốn đầu tư cho ngành công nghiệp và thủy lợi. c.Ưu tiên xóa nạn mù chữ, truy quét các tổ chức phản động. d.Tất cả các việc làm trên. 31.Từ 1986, Bình Thuận đã thực hiện đường lối đổi mới của Đảng như thế nào? a.Thực hiện cơ chế khoán 10, chuyển sang kinh tế thị trường. b.Tăng cường xây thêm nhiều công trình thủy lợi để giải quyết vấn đề khô hạn. c.Tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại, sản xuất hàng xuất khẩu. d.Tất cả những vấn đề trên. 32.Bước vào thế kỷ XXI, kinh tế Bình Thuận đang hứa hẹn thành công ở những lĩnh vực nào? a.Công nghiệp dầu khí và công nghiệp nước mắm. b.Du lịch và xuất khẩu nông - lâm - thủy - sản. c.Xuất khẩu trái thanh long sang Mỹ và Châu Âu. d.Xuất hiện nhiều các khu công nghiệp.. D.BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH: 1.Giáo viên phát tài liệu cho học sinh sau khi thi xong học kỳ II. 2.Cho học sinh xem trang ảnh và các sơ đồ, bản đồ của tỉnh Bình Thuận qua các thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ và các trận đánh lớn, tiêu biểu (giáo viên chuẩn bị trước). 3.Dành thời gian cho học sinh nghiên cứu tài liệu và làm bài tập thực hành ở nhà. 4.Chia 4 tổ trên lớp thành 4 nhóm, hoàn thiện câu hỏi chia theo nhóm (giáo viên chuẩn bị câu hỏi trong giáo án, đọc cho học sinh về nhà chuẩn bị). 5.Giáo viên tổ chức hai tiết (mỗi khối) trên lớp theo giáo án đã soạn, chú ý đến giải đáp thắc mắc, kết luận các vấn đề, tổng kết hiệu quả đề tài. Nếu học sinh hứng thú và thời gian cho phép có thể tổ chức ngoại khóa. E.HIỆU QUẢ VỀ KHẢ NĂNG PHỔ BIẾN CỦA ĐỀ TÀI: 1.Đây là một đề tài mới, cần có thời gian khảo sát trên thực tế việc học của học sinh để sớm đưa vào giảng dạy trong nhà trường. 2.Việc sử dụng đề tài này là cần thiết để đáp ứng phân phối chương trình lịch sử địa phương ở cấp Trung học phổ thông (khối lớp 11 và 12)..

<span class='text_page_counter'>(58)</span> 3.Các em rất hứng thú và ham thích tìm hiểu về lịch sử, nhất là khi giáo viên đề cập đến những vấn đề lịch sử của địa phương. Tuy nhiên nếu có thời gian ngoại khóa, nội dung của đề tài sẽ được giải quyết trọn vẹn hơn. F.CÁC ĐỀ NGHỊ KIẾN NGHỊ: 1.Đề nghị Hội đồng Khoa học Sở Giáo dục – Đào tạo và Ban giám hiệu trường cho tôi được đưa vào giảng dạy thí điểm trong nhà trường trong năm học tới 2009-2010. 2.Tôi rất mong được sự góp ý chân tình của quý đồng nghiệp về những sai sót và khiếm khuyết của đề tài để tôi rút kinh nghiệm vận dụng cho năm học tới.. Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA TỔ CHUYÊN MÔN. Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Văn kiện Đảng toàn tập - Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 2.Hồ Chí Minh toàn tập - Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 3.Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thuận Hải (thời kỳ 1930-1945) – Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Thuận Hải, xuất bản năm 1984. 4.Báo cáo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên chiến trường quân khu VI, tập 3 – lưu hành nội bộ năm 1986. 5.Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1 (1930-1954) - Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bình Thuận, xuất bản năm 1994. 6.Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 2 (1954-1975) - Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bình Thuận, xuất bản năm 2000. 7.Tài liệu dự thảo: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 3 (1975-2005). 8.Bình Thuận 30 năm chiến tranh giải phóng, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, xuất bản năm 1992..

<span class='text_page_counter'>(60)</span> 9.Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Thuận (1945-2000) – Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, xuất bản năm 2004. 10.Bình Thuận 20 năm xây dựng và phát triển (1975-1995) – Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Bình Thuận, xuất bản năm 1995. 11.Bình Thuận 10 năm phát triển (1992-2002) – Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Bình Thuận, xuất bản năm 1995. 12.Hàm Thuận bất khuất kiên cường, tập 1 (1930-1954) – Huyện Đảng bộ Hàm Thuận, xuất bản 1988. 13.Hàm Thuận bất khuất kiên cường, tập 2 (1954-1975) – Huyện Đảng bộ Hàm Thuận Bắc, xuất bản 1994. 14.Bắc Bình truyền thống đấu tranh cách mạng (1930-1975) - Huyện Đảng bộ Bắc Bình, xuất bản 1993. 15.Bắc Bình lịch sử truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân (1945-1975) - Huyện Đảng bộ Bắc Bình, xuất bản 1999. 16.Lịch sử Tuy Phong, tập 1 (1930-1954) - Huyện Đảng bộ Tuy Phong, xuất bản 1993. 17.Hàm Tân 45 năm lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng (1930-1975) - Huyện Đảng bộ Hàm Tân, xuất bản 1993. 18.Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Huyện Đức Linh (19451975) - Huyện Đảng bộ Đức Linh, xuất bản 1990. 19.Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng 31-07-1960 – Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, xuất bản 1993. 20.Những trận đánh tiêu biểu trên đất Bắc Bình (1945-1975) – Huyện Đảng bộ Bắc Bình, xuất bản 1991. 21.Chí Công truyền thống yêu nước và cách mạng (1885-1975) – Đảng bộ xã Chí Công (Tuy Phong), xuất bản 1993. 22.Anh hùng lực lượng vũ trang các dân tộc thiểu số Việt Nam – Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, xuất bản 1996.. *Các ảnh dùng để giảng dạy trong chuyên đề này được chọn từ nguồn của: Ban tuyên giáo tỉnh ủy Bình Thuận, Sở Văn hóa-thể thao và du lịch, Bảo tàng lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận, Nhà truyền thống huyện Hàm Thuận Bắc, Nhà truyền thống Huyện Bắc Bình, Nhà truyền thống huyện Đức Linh và Sách “100 năm thị xã Phan Thiết” *Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của: - Ông Lê Khắc Thành, nguyên bí thư tỉnh ủy Bình Tuy, nguyên trưởng ban tổ chức tỉnh ủy Thuận Hải. - Ông Nguyễn Minh Cao, nguyên trưởng ban an ninh huyện Hàm Thuận thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nguyên phó giám đốc Công an tỉnh Thuận Hải..

<span class='text_page_counter'>(61)</span> - Bà Hồ Thị Dương, lão thành cách mạng, nguyên cán bộ dân vận huyện Bắc Bình thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. - Ông Mai văn Phương, cán bộ ban tổ chức tỉnh ủy Bình Thuận. - Ông Phạm Như Thuyết, cán bộ trường Chính trị tỉnh Bình Thuận. - Ông Nguyễn Quỳnh Hoan, cán bộ phòng văn hóa thông tin huyện Hàm Thuận Bắc. - Các thầy cô trong Ban giám hiệu, công đoàn, tổ chuyên môn Sử - Địa – GDCD của trường Dân Tộc Nội Trú, các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp bộ môn sử ngoài trường đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề này..

<span class='text_page_counter'>(62)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×