PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Sự cần thiết phải nghiên cứu hoàn thiện cơ chế cấp phát và kiểm
soát thanh toán NSNN theo dự toán:
Năm 1996 lần đầu tiên nước ta có Luật NSNN là văn bản pháp lý về
quản lý ngân sách cao nhất từ trước tới thời điểm lúc đó, nó mở ra cho việc
quản lý ngân sách được chặt chẽ hơn từ khâu xử lý các mối quan hệ về
quản lý ngân sách giữa Trung ương và các cấp chính quyền đòa phương;
thiết lập cơ chế điều hành ngân sách từ khâu lập dự toán, chấp hành dự
toán đến quyết toán ngân sách. Tuy nhiên, Luật NSNN ra đời trong điều
kiện nước ta đang trong quá trình chuyển đổi đặc biệt là đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo
cơ chế thò trường đònh hướng XHCN, cũng từ đó quá trình hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới ngày càng được mở rộng, vì vậy trong quản lý tài
chính, ngân sách đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
NSNN, do đó đến năm 1998 Luật NSNN được sửa đổi, bổ sung lần thứ
nhất và đến năm 2003 Luật NSNN được sửa đổi, bổ sung lần thứ hai; khác
với lần trước việc sửa đổi lần này mang tính toàn diện và có bước đột phá.
Trong đó, những nội dung đổi mới đáng chú ý là:
- Tăng cường quyền hạn, trách nhiệm của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp trong việc quyết đònh dự toán ngân sách, phân bổ ngân
sách và phê chuẩn quyết toán ngân sách.
- Đổi mới phân cấp quản lý tài chính, ngân sách trên cơ sở đảm bảo
sự thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của
NSNN, tăng khả năng tự cân đối của ngân sách đòa phương.
- Tăng cường quyền chủ động sáng tạo của các bộ, đòa phương, đơn
vò sử dụng ngân sách, các tổ chức, cá nhân được ngân sách hỗ trợ trong
việc quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản được giao, thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí. Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện công khai, minh
bạch về ngân sách (thể hiện qua việc quy đònh rõ NSNN các cấp, các đơn
vò dự toán, các tổ chức, cá nhân được NSNN hỗ trợ phải công khai dự toán
và quyết toán ngân sách; cơ quan Tài chính, Kho bạc nhà nước, các cơ
quan thu của Nhà nước phải niêm yết công khai quy trình, thủ tục tại nơi
giao dòch).
Với các nội dung đổi mới nói trên, tại kỳ họp thứ 4 (Quốc hội khóa
XI), lần đầu tiên Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước thực
hiện trực tiếp phân bổ ngân sách, mở đầu cho việc thực hiện ngân sách
công khai, minh bạch, là dấu mốc quan trọng của tiến trình đổi mới nền tài
chính quốc gia, làm tiền đề xóa bỏ cơ chế “xin-cho”, phát huy cao độ
quyền hạn và trách nhiệm của các Bộ, ngành, đòa phương trong việc quản
lý ngân sách.
Trong đổi mới của Luật NS lần này, một trong những nội dung đổi
mới khá mạnh mẽ về cơ chế cấp phát ngân sách đó là bỏ phương thức cấp
phát bằng hạn mức kinh phí để chuyển sang cấp phát theo dự toán được
giao là mô hình cấp phát tiên tiến, nó gắn liền với vai trò kiểm soát chi
NSNN qua KBNN để đảm bảo tất cả các khoản chi ngân sách phải có đủ
các điều kiện như: có dự toán được cơ quan có thẩm quyền giao, đúng chế
độ, tiêu chuẩn, đònh mức, được thủ trưởng đơn vò sử dụng ngân sách quyết
đònh chi có như thế việc sử dụng NSNN mới đạt được mục tiêu đúng mục
đích, tiết kiệm, có hiệu quả.
Việc chuyển đổi từ phương thức quản lý này sang phương thức quản
lý khác trong lúc ban đầu đều phải có bước kiểm nghiệm nhất đònh trong
thực tế và những vướng mắc phát sinh, những mối quan hệ thiếu đồng bộ
cả về cơ sở pháp lý và cả về nhận thức của các chủ thể có liên quan là
không tránh khỏi, vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện cơ chế
2
cấp phát và kiểm soát thanh toán NSNN theo dự toán là hết sức thiết thực
trong giai đoạn hiện nay.
2/ Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về quản lý NSNN, các cơ sở pháp
lý hiện hành trong quản lý ngân sách ở nước ta theo Luật NSNN mới sửa
đổi áp dụng từ 01/01/2004 và đặc biệt là quá trình triển khai, áp dụng Luật
NSNN trong thực tiễn từ đầu năm 2004 đến nay về cấp phát ngân sách
theo dự toán được giao qua kiểm soát thanh toán của KBNN để rút ra
những mặt tích cực cũng như những tồn tại trong cơ chế, trong nhận thức
để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế cấp phát và kiểm soát
thanh toán qua KBNN theo dự toán được giao.
3/ Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Quản lý chi NSNN có nội dung rất rộng, đứng trên nhiều tiêu thức
khác nhau người ta phân các khoản chi NSNN thành các loại như sau:
- Căn cứ vào nội dung chi NSNN, các khoản chi NSNN được chia
ra: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi đảm bảo an ninh quốc
phòng và các khoản chi khác.
- Căn cứ phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp chính quyền,
các khoản chi NSNN được chia ra: chi ngân sách trung ương, chi ngân sách
cấp tỉnh, chi ngân sách cấp huyện và chi ngân sách cấp xã.
- Căn cứ theo phương thức cấp phát người ta chia các khoản chi
ngân sách ra thành: chi theo dự toán được giao, chi bằng lệnh chi tiền, chi
bằng mức vốn đầu tư, ghi thu ghi chi.
Trong luận văn này không đi vào nghiên cứu tất cả các nội dung, các
phương thức về chi ngân sách mà đi vào nghiên cứu trong giới hạn của các
khoản chi ngân sách thường xuyên được cấp phát bằng dự toán qua KBNN
qua đó gắn liền với công tác kiểm soát chi của KBNN đối với các khoản
chi này.
3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
Trong lòch sử xã hội loài người của các chế độ xã hội có phân chia
giai cấp tất yếu tồn tại bộ máy nhà nước để quản lý kinh tế- xã hội. Để
Nhà nước tồn tại và phát triển thì trong tay Nhà nước phải có nguồn lực về
tài chính, quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ các khoản đóng góp của các
cá thể, chủ thể kinh tế thuộc tất cả các thành phần kinh tế trong nước cũng
như các nguồn thu viện trợ ngoài nước làm cơ sở về tài chính để chi tiêu
cho bộ máy quản lý nhà nước, đầu tư phát triển, quản lý trật tự an toàn xã
hội, phòng thủ quốc gia...đó là ngân sách nhà nước.
Nhà nước là người đại diện cho lợi ích của giai cấp thống trò, phục vụ
cho lợi quyền của giai cấp mà nó đại diện, vì vậy Nhà nước bao giờ cũng
là Nhà nước của giai cấp thống trò trong xã hội để cai trò xã hội, không thể
có Nhà nước của mọi giai cấp. Ngân sách nhà nước là cơ sở vật chất cho
sự tồn tại và phát triển của Nhà nước do Nhà nước xây dựng tập trung các
nguồn thu vào ngân sách để trang trải cho chi tiêu của bộ máy nhà nước và
các khoản chi tiêu về an ninh, quốc phòng cũng như các khoản chi cho
phúc lợi công cộng khác, từ đó NSNN cũng mang tính giai cấp của chính
Nhà nước đó. Khác với các Nhà nước tư bản, Nhà nước ta là nhà nước của
dân, do dân và vì dân thì bản chất của NSNN của nước ta cũng là ngân
sách của dân, do dân và vì nhân dân thể hiện ở nguồn thu chủ lực chủ yếu
từ nền kinh tế qua các sắc thuế, phí, lệ phí để chi cho mục tiêu phát triển
4
kinh tế- xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng toàn vẹn lãnh thổ, chi cho
các chính sách xã hội, các nhu cầu chi công cộng, an sinh cộng đồng.
1.1/ Khái lược về NSNN và quản lý chi NSNN:
1.1.1/ Bản chất của NSNN:
Đứng trên nhiều giác độ khác nhau người ta có những quan niệm
khác nhau về NSNN, song chúng đều thể hiện điểm chung ở chỗ đó là quỹ
tiền tệ tập trung lớn nhất nằm trong tay của Nhà nước, nó có phần thu và
phần chi.
Đứng trên quan niệm chung tổng quát nhất và phổ biến nhất để thực
hiện điều hành NSNN trong thực tiễn thì NSNN được hiểu là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết đònh và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Như vậy, hàng năm đều phải xây dựng dự toán NSNN đó là dự toán
thu và dự toán chi được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ
phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng
cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải
nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu chi ngân sách.
Quỹ NSNN là toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay,
có trên tài khoản của NSNN các cấp. Quỹ NSNN được quản lý tại KBNN.
1.1.2/ Nội dung chi của NSNN:
a/ Ngân sách Trung ương: gồm:
_ Chi đầu tư phát triển:
+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế- xã
hội không có khả năng thu hồi vốn do Trung ương quản lý;
+ Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế,
các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các
5
doanh nghiệp thuộc lónh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo
quy đònh của pháp luật;
+ Chi hỗ trợ tài chính, bổ sung vốn, hỗ trợ và thưởng xuất
khẩu cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế theo quy đònh của pháp luật;
+ Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình mục tiêu
quốc gia, dự án nhà nước do các cơ quan Trung ương thực hiện;
+ Chi hỗ trợ các tổ chức tài chính của Nhà nước do Trung
ương quản lý;
+ Chi bổ sung dự trữ nhà nước;
+ Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy đònh của pháp
luật.
_ Chi thường xuyên:
+ Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế,
xã hội, văn hóa thông tin văn học nghệ thuật, thể dục và thể thao, khoa
học và công nghệ, môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do các cơ
quan Trung ương quản lý;
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các cơ quan Trung ương
quản lý;
+ Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã
hội do ngân sách Trung ương bảo đảm theo quy đònh của Chính phủ;
+ Hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng Cộng
sản Việt Nam và các tổ chức chính trò- xã hội;
+ Hỗ trợ cho các tổ chức chính trò xã hội- nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp theo quy đònh của pháp luật;
+ Phần chi thường xuyên trong các chương trình quốc gia, dự
án nhà nước do cơ quan Trung ương thực hiện;
6
+ Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng;
+ Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
+ Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội theo quy đònh của Chính phủ;
+ Các khoản chi thường xuyên khác theo quy đònh của pháp
luật.
_ Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.
_ Chi viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài.
_ Chi cho vay theo quy đònh của pháp luật.
_ Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của Trung ương.
_ Chi bổ sung cho ngân sách đòa phương.
_ Chi chuyển nguồn từ ngân sách Trung ương năm trước sang
ngân sách Trung ương năm sau.
b/ Ngân sách đòa phương: gồm:
_ Chi đầu tư phát triển:
+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế- xã
hội không có khả năng thu hồi vốn do đòa phương quản lý;
+ Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước theo quy đònh của pháp luật;
+ Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình quốc gia
do các cơ quan đòa phương thực hiện;
+ Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy đònh của
pháp luật.
_ Chi thường xuyên:
+ Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y
tế, xã hội, văn hóa thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa
học và công nghệ, môi trường, các sự nghiệp khác do đòa phương quản lý;
7
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do đòa phương quản lý;
+ Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã
hội do ngân sách đòa phương thực hiện theo quy đònh của Chính phủ;
+ Hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng Cộng
sản Việt Nam và các tổ chức chính trò- xã hội ở đòa phương;
+ Hỗ trợ cho các tổ chức chính trò xã hội- nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp ở đòa phương theo quy đònh của
pháp luật;
+ Phần chi thường xuyên trong các chương trình quốc gia, dự
án nhà nước do các cơ quan đòa phương thực hiện;
+ Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do
đòa phương quản lý ;
+ Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
+ Các khoản chi thường xuyên khác theo quy đònh của pháp
luật.
_ Chi trả nợ gốc và lãi tiền huy động cho đầu tư theo quy đònh
tại Khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN (chỉ quy đònh cho ngân sách cấp tỉnh,
không áp dụng cho ngân sách cấp huyện và cấp xã) .
_ Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh ( chỉ quy đònh
cho ngân sách cấp tỉnh, không áp dụng cho ngân sách cấp huyện và cấp
xã).
_ Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
_ Chi chuyển nguồn từ ngân sách đòa phương năm trước sang
ngân sách đòa phương năm sau.
8
1.1.3/ Những nguyên tắc cơ bản quản lý chi NSNN:
Chi NSNN chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
_ Đã có trong dự toán NSNN được giao, trừ các trường hợp sau:
+ Dự toán NSNN và phân bổ dự toán ngân sách chưa được cơ
quan có thẩm quyền quyết đònh;
+ Chi từ nguồn tăng thu so dự toán được giao và từ nguồn dự
phòng ngân sách theo quyết đònh của cấp có thẩm quyền.
_ Đúng chế độ, tiêu chuẩn, đònh mức do cấp có thẩm quyền quy
đònh;
_ Đã được Thủ trưởng đơn vò sử dụng ngân sách hoặc người được
ủy quyền quyết đònh chi;
_ Ngoài các điều kiện quy đònh trên; trường hợp sử dụng vốn,
kinh phí NSNN đề đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bò, phương
tiện làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm đònh giá
thì còn phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm đònh giá theo quy đònh của pháp
luật;
_ Các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong
năm để chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một
số thời điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các
khoản chi có tính chất không thường xuyên khác phải thực hiện theo dự
toán quý được đơn vò cấp I giao cùng với giao dự toán năm.
1.2/ Mối quan hệ giữa cơ quan Tài chính và Kho bạc trong quản lý chi
NSNN:
1.2.1/ Cơ quan Tài chính:
- Có trách nhiệm thẩm tra việc phân bổ dự toán ngân sách cho các
đơn vò sử dụng ngân sách đảm bảo tổng số dự toán giao cho các đơn vò trực
thuộc không vượt quá dự toán được cấp có thẩm quyền giao cả về tổng
9
mức và chi tiết và việc giao dự toán này phải chi tiết đến 4 nhóm mục chi
chủ
yếu; thẩm tra để thống nhất với đơn vò dự toán cấp I trong việc điều chỉnh
dự toán giữa các đơn vò trực thuộc của đơn vò dự toán cấp I theo nguyên tắc
không làm thay đổi tổng mức và chi tiết dự toán đã giao cho đơn vò dự toán
cấp I;
- Bố trí nguồn để đáp ứng các nhu cầu chi, trường hợp các đơn vò
sử dụng ngân sách chi vượt quá khả năng thu và huy động của quỹ ngân
sách thì cơ quan Tài chính phải chủ động thực hiện các biện pháp vay tạm
thời theo quy đònh để đảm bảo nguồn;
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi tiêu và sử dụng ngân sách ở
các cơ quan, đơn vò sử dụng ngân sách. Trường hợp phát hiện các khoản
chi vượt nguồn cho phép, sai chính sách, chế độ hoặc đơn vò không chấp
hành chế độ báo cáo thì có quyền yêu cầu KBNN tạm dừng thanh toán.
1.2.2/ Cơ quan KBNN:
- Thực hiện việc thanh toán, chi trả các khoản chi NSNN căn cứ
vào dự toán được giao, quyết đònh chi của Thủ trưởng đơn vò sử dụng ngân
sách và tính hợp pháp của chứng từ, các tài liệu cần thiết khác theo từng
nội dung;
- Thực hiện quyền từ chối các khoản chi ngân sách không đủ điều
kiện chi như: không có trong dự toán đựơc giao; quyết đònh chi không đảm
bảo tính hợp pháp, hợp lệ; không có đủ chứng từ, hồ sơ, tài liệu thanh toán
hoặc có nhưng không đúng chế độ, tiêu chuẩn, đònh mức quy đònh hoặc
tạm dừng thanh toán theo yêu cầu của cơ quan Tài chính;
- Xét về trách nhiệm thì Thủ trưởng cơ quan KBNN chòu trách
nhiệm về các quyết đònh thanh toán, chi ngân sách hoặc từ chối thanh toán
chi ngân sách của đơn vò dự toán.
10
1.3/ Vai trò của KBNN trong quản lý chi NSNN:
1.3.1/ Khái niệm về KBNN:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về KBNN nhưng tựu chung lại
KBNN là cơ quan tài chính thực hiện quản lý tài chính nhà nước.
Thời sơ khai khi tài chính nhà nướùc gần như đồng nghóa với tài
chính trực tiếp của bộ máy nhà nước thì KBNN quản lý kho quỹ của bộ
máy nhà nước này. Theo đà phát triển, tài chính nhà nước ngày càng lớn
mạnh và ngày nay cấu thành nên tài chính nhà nước bao gồm các bộ phận:
- Tài chính chung của nhà nước: hoạt động gắn liền với việc tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ chung của nhà nước (NSNN, tín dụng nhà
nước, dự trữ nhà nước);
- Tài chính của các đơn vò hành chính nhà nước;
- Tài chính của các đơn vò sự nghiệp nhà nước;
- Tài chính của các doanh nghiệp nhà nước.
Cùng với sự phát triển chung của lòch sử tài chính nhà nước, nhiệm
vụ của KBNN cũng ngày một chuyên sâu hơn và chủ yếu là quản lý kho
quỹ thuộc tài chính chung của nhà nước. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ
mà KBNN thực hiện, KBNN ngày nay được hiểu là một hệ thống tổ chức
có nhiệm vụ chấp hành, đôn đốc việc chấp hành các hoạt động tài chính
của nhà nước, giúp chính quyền quản lý các quỹ tiền tệ, tài sản của nhà
nước trong đó quỹ ngân sách nhà nước là bộ phận chủ yếu và có giá trò lớn
nhất; chòu trách nhiệm giải quyết các chi tiêu công, tập trung các khoản
thu thuế và thu khác về quỹ NSNN; huy động vốn dưới hình thức phát
hành trái phiếu nhà nước nhằm bù đắp các khoản bội chi của NSNN và
cho đầu tư phát triển. KBNN là công cụ chủ yếu và quan trọng để quản lý
điều hành NSNN. KBNN hoạt động trong phạm vi quản lý tài sản quốc gia
11
về mặt giá trò và hiện vật, trực tiếp giao dòch về thu chi NSNN với các đơn
vò kinh tế, hành chính, sự nghiệp thuộc các cấp NSNN.
1.3.2/ Chức năng của KBNN:
KBNN là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính, có 3 chức năng chủ yếu:
•
Một là, chức năng quản lý nhà nước về quỹ NSNN, các quỹ tài
chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước được giao theo quy đònh của
pháp luật.
Quản lý quỹ NSNN và các quỹ tài chính khác của Nhà nước là chức
năng cơ bản của KBNN. KBNN quản lý và điều hành quỹ NSNN bằng
luật, chính sách tài chính và các công cụ nghiệp vụ. Quản lý và điều hành
NSNN phải tuân thủ nghiêm ngặt các giai đoạn kế hoạch hóa NSNN: từ
khâu lập, chấp hành và quyết toán ngân sách.
Ở khâu lập dự toán NSNN với tư cách là cơ quan tham gia quản lý
nhà nước về quỹ NSNN, KBNN cung cấp thông tin về tình hình thực hiện
dự toán NSNN năm trước, giúp cho Chính phủ và các cấp chính quyền có
thêm cơ sở cùng với các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh để lập và phân phối nguồn lực tài chính có hiệu quả.
Ở khâu chấp hành NSNN, KBNN đóng vai trò quan trọng trong cả
khâu hạch toán kế toán, kiểm soát và thanh toán. Đối với các khoản thu
NSNN, KBNN có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với cơ quan Thuế, Hải quan
và các Bộ, ngành tập trung nhanh và kòp thời mọi nguồn thu vào KBNN
cho NSNN, đồng thời KBNN kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành kỷ luật
thu nộp và phân chia các khoản thu theo tỷ lệ % giữa các cấp ngân sách
theo đúng quy đònh của pháp luật. Đối với các khoản chi NSNN, KBNN
vừa là người kiểm tra, kiểm soát nhằm làm cho mọi khoản chi tiêu công
đúng mục đích, đúng chế độ, tiêu chuẩn, đònh mức và có hiệu quả nhằm
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
12
Ở khâu quyết toán NSNN, KBNN thực hiện hạch toán kế toán
NSNN, đònh kỳ báo cáo việc thực hiện dự toán cho cơ quan Tài chính và cơ
quan nhà nước hữu quan. Các số liệu báo cáo thu, chi về NSNN được
KBNN đối chiếu xác nhận. Như vậy, KBNN là đơn vò thực hiện báo cáo
quyết toán NSNN nhằm giúp cho Chính phủ điều hành NSNN.
Bên cạnh nhiệm vụ trọng tâm là quản lý nhà nước về quỹ NSNN,
KBNN được giao nhiệm vụ tổ chức quản lý quỹ ngoại tệ tập trung và các
quỹ dự trữ tài chính nhà nước. Thông qua nghiệp vụ quản lý đề xuất những
biện pháp, chính sách quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ dự trữ, phục vụ
mục đích chính trò, kinh tế, xã hội và an ninh quốc gia. Ngoài ra KBNN
còn quản lý tiền gửi, tài sản của các đơn vò, cơ quan nhà nước, các tổ chức
kinh tế, cá nhân trong nước có tài khoản giao dòch tại Kho bạc; tiền, tài sản
thế chấp, ký cược của các đơn vò, tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước.
• Hai là, chức năng thực hiện việc huy động vốn cho NSNN, cho
đầu tư phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu.
Với chức năng này đòi hỏi KBNN phải chủ động trong việc tổ
chức các phương thức huy động vốn cũng như các công cụ phát hành phù
hợp với từng thời kỳ, từng đối tượng nhằm đạt yêu cầu huy động nguồn
vốn cho NSNN, cho đầu tư phát triển. Hiện nay, cũng như trong nhiều
năm tới việc huy động nguồn vốn cho NSNN, cho đầu tư phát triển không
còn là công việc đột xuất theo chỉ đònh của Chính phủ mà đã trở thành
nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của hệ thống KBNN, huy động vốn
cho NSNN và cho đầu tư phát triển không chỉ là nhu cầu đáp ứng nguồn
vốn trong thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà cả trong thời
kỳ có nền kinh tế phát triển.
• Ba là, chức năng kế toán công.
Thực hiện chức năng này, nhiệm vụ kế toán công của KBNN
bao gồm:
13
- Kế toán quỹ NSNN: phản ánh, tổng hợp và kiểm tra từng
khoản thu và chi NSNN bằng tiền.
- Kếá toán tài sản công và các quỹ nhà nước: phản ánh sự
tăng, giảm của các tài sản quốc gia cả về mặt giá trò và hiện vật; phản ánh
sự tăng, giảm và các nguồn hình thành quỹ tài chính nhà nước trong các tài
khoản tương ứng.
- Kế toán công nợ của nhà nước: KBNN có nhiệm vụ hạch
toán đầy đủ các khoản nợ của nhà nước, bao gồm nợ trong nước dưới các
hình thức vay bằng công trái, trái phiếu… và nợ nước ngoài.
Trong điều kiện hiện nay, cần xác đònh chức năng đúng đắn kế
toán công của KBNN. Phải tách chức năng kế toán khỏi chức năng chuẩn
chi. Nâng cao khả năng thu thập, xử lý và tổng hợp thông tin tại chỗ theo
hệ thống dọc. KBNN đảm bảo công việc lập và thuyết trình báo cáo kế
toán về NSNN và quỹ NSNN. Thông qua kế toán, KBNN phản ánh đầy
đủ, trung thực tình hình thu- chi, biến động các nguồn vốn tài chính; thu
thập, xử lý và cung cấp các thông tin cần thiết về tình hình tài chính quốc
gia giúp cho Chính phủ và Hội đồng nhân dân các cấp điều hành ngân
sách.
1.3.3/ Vai trò quản lý chi NSNN của KBNN:
Chi NSNN là tổng thể các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trò
phát sinh trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ quản lý kinh tế- xã hội mà Nhà nước
đảm nhận.
Đứng trên giác độ trong thực tiễn xuất quỹ ngân sách thì chi NSNN
là việc sử dụng quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của bộ máy
nhà nước, phát triển kinh tế- xã hội, cho an ninh quốc phòng, cho phúc lợi
công cộng, cho an sinh theo các nhiệm vụ mà NSNN phải trang trải bằng
14
các hình thức tổ chức chi thích hợp nhằm qua đó đảm bảo cho các khoản
chi ngân sách đáp ứng yêu cầu đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả.
Trước khi có Luật NSNN mới sửa đổi áp dụng từ đầu năm 2004 thì
việc chi NSNN thực hiện qua hai phương thức chủ yếu đó là phương thức
chi bằng lệnh chi tiền và phương thức chi bằng hạn mức kinh phí:
° Quản lý cấp phát theo lệnh chi tiền:
KBNN có trách nhiệm thực hiện kiểm tra tính hợp lệ, hợp
pháp của lệnh chi tiền, căn cứ nội dung trên lệnh chi tiền thực hiện xuất
quỹ NSNN chuyển tiền vào tài khoản hoặc cấp tiền mặt theo chế độ quy
đònh để chi trả, thanh toán cho các tổ chức cá nhân được hưởng ngân sách
trong phạm vi thời gian chế độ quy đònh. Trường hợp không hợp lệ thì
thông báo cho cơ quan Tài chính biết ngay sau 1 ngày kể từ ngày nhận
chứng từ. Cơ quan Tài chính là người chòu trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát
nội dung, tính chất của từng khoản chi bảo đảm các điều kiện cấp phát
NSNN theo chế độ quy đònh đối với toàn bộ các khoản chi bằng lệnh chi
tiền.
° Quản lý cấp phát theo hạn mức kinh phí:
Phương thức cấp phát này tồn tại lâu dài ở nước ta được
dùng để cấp phát cho các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vò sự nghiệp ở
những nội dung chi thường xuyên theo dự toán được duyệt hàng năm. Hạn
mức kinh phí là giới hạn chi tối đa trong kỳ (tháng, quý, năm) mà đơn vò sử
dụng NSNN được sử dụng.
Để được cấp hạn mức kinh phí trước hết đơn vò phải có dự toán năm
được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Căn cứ dự toán năm được duyệt,
khả năng thu ngân sách trong từng thời kỳ cũng như nhu cầu chi của các
đơn vò sử dụng ngân sách mà cơ quan Tài chính ấn đònh mức giới hạn tối
15
đa cho đơn vò được sử dụng trong kỳ. KBNN quản lý hạn mức để kiểm soát
các điều kiện chi của đơn vò trước, trong và sau khi xuất quỹ NSNN.
Với phương thức cấp phát này đã khắc phục được tình trạng tồn
quỹ ngân sách không giảm ngay khi cơ quan Tài chính ra thông báo hạn
mức kinh phí mà chỉ giảm khi đơn vò sử dụng ngân sách thực rút ngân sách
để chi tiêu. Cũng cần thấy rằng bản thân của phương thức này không phải
là tự nó giữ được tồn quỹ NSNûN không bò phân tán ở các cơ quan đơn vò
mà bản thân nó và kết hợp với nó là sự kiểm soát chi của KBNN mới có
đủ khả năng giữ được tiền của Nhà nước khi chưa sử dụng còn trong túi
Nhà nước và như thế số thực rút ngân sách ra khỏi KBNN tương đồng với
số thực chi.
Với quyết tâm cải cách hành chính của Bộ Tài chính, đặc biệt là
xem xét để xóa bỏ những thủ tục mang tính xin – cho, những thủ tục rườm
rà; từ đầu năm 2004 thực hiện Luật NSNN mới sửa đổi thì phương thức cấp
phát hạn mức kinh phí được bãi bỏ thay vào đó là phương thức cấp phát
tiên tiến hơn với đầy đủ những ưu điểm, đồng thời bản thân nó cũng đã
khắc phục được những tồn tại của phương thức cấp phát bằng hạn mức
kinh phí.
° Quản lý cấp phát theo dự toán:
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ , KBNN thể hiện vai trò của
mình trong cơ chế cấp phát và kiểm soát thanh toán bằng dự toán qua
KBNN như sau: § Quản lý quá trình chấp hành ngân sách của các đơn vò
dự toán trong chu trình ngân sách:
Chu trình ngân sách là một chuỗi nối tiếp các giai đọan lập dự toán
đến chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách. Chu trình ngân sách có
thời gian thực hiện dài hơn một niên độ ngân sách.
16
Điểm đầu tiên của giai đoạn lập dự toán là chỉ thò của Thủ tướng
Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự
toán ngân sách năm sau ở thời điểm trước ngày 31 tháng 5 và kết thúc giai
đoạn này là quyết đònh giao dự toán của cấp có thẩm quyền ở thời điểm
trước ngày 31 tháng 12 trước khi bước vào năm ngân sách. Trong giai đọan
này vai trò của KBNN khá mờ nhạt, chưa được tham gia vào quá trình lập
dự toán ngân sách với tư cách của cơ quan quản lý ngân sách.
Giai đoạn chấp hành ngân sách là giai đoạn thực hiện dự toán được
giao bằng những nội dung chi cụ thể, trong đó KBNN đóng vai trò rất quan
trọng trong cả khâu hạch toán kế toán, kiểm soát và thanh toán. Vò thế của
KBNN được nâng lên hay giảm xuống được quyết đònh trong việc tổ chức
thực hiện tốt hay không tốt công việc xuất quỹ ngân sách; NSNN có bò
lãng phí hay tiết kiệm cũng phụ thuộc lớn vào hiệu quả quản lý ngân sách
của KBNN trong giai đoạn này.
Giai đoạn quyết toán ngân sách là giai đoạn cuối cùng nối tiếp hai
giai đoạn trước được hoàn tất khi quyết toán ngân sách được cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt. Về phương diện lý thuyết thì số liệu quyết toán
ngân sách phù hợp với số liệu trên báo cáo quyết toán ngân sách của
KBNN, đó mới là số liệu thực thu, thực chi ngân sách, là căn cứ tin cậy cho
các cấp có thẩm quyền phê duyệt ngân sách. Trong thực tế, việc xử lý và
thực hiện quyết đònh xử lý quyết toán ngân sách của từng đơn vò sử dụng
ngân sách không đúng trình tự, không kòp thời gian nên có sự sai lệch về
số liệu quyết toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt với số liệu trên báo
cáo quyết toán ngân sách của KBNN.
Để thực hiện được quyết đònh chi tiêu ngân sách từ dự toán được
giao, tất cả các đơn vò dự toán đều phải mở tài khoản tại KBNN. KBNN
lúc này vừa là cơ quan quản lý ngân sách, cụ thể là quản lý dự toán được
giao đến từng nhóm mục chi của từng đơn vò một theo nguyên tắc không
17
được vượt dự toán được giao đến từng nhóm, theo dõi kiểm soát việc tạm
ứng cũng như thanh toán thực chi của đơn vò đến từng mục trong mục lục
NSNN; ngoài ra với chức năng quản lý tài khoản tổ chức thanh toán theo
yêu cầu của chủ tài khoản lúc này KBNN lại vừa là cơ quan giao dòch như
một Ngân hàng thông qua các phương tiện trong thanh toán bằng tiền mặt,
chuyển khoản.
Vậy, KBNN có đủ điều kiện để quản lý, kiểm soát việc thanh toán
của tất cả các đơn vò sử dụng ngân sách theo nguyên tắc thanh toán trực
tiếp từ KBNN cho người hưởng lương, trợ cấp xã hội và người cung cấp
hàng hóa, dòch vụ, điều này giúp cho đồng vốn ngân sách được sử dụng
tiết kiệm, có hiệu quả, không phải lãng phí khi nằm đọng tại két của các
đơn vò sử dụng ngân sách quá lớn gây căng thẳng về tồn quỹ ngân sách
trong việc đáp ứng các nhu cầu chi của ngân sách. § Thực hiện kiểm soát
thanh toán các khoản chi NSNN đảm bảo đúng các điều kiện thanh toán
ngân sách:
Kiểm soát chi là công việc kiểm tra, kiểm soát, xem xét, đối
chiếu các nội dung chi tiêu để thực hiện đúng quy đònh của pháp luật.
Kiểm soát chi được thực hiện chủ yếu trong giai đoạn chấp hành ngân sách
ở thời điểm trước, trong và sau khi khoản chi được thực hiện bởi nhiều chủ
thể như: bản thân đơn vò sử dụng ngân sách, cơ quan quản lý cấp trên của
đơn vò sử dụng ngân sách, cơ quan KBNN và cơ quan Tài chính. Tuy với
nhiều chủ thể tham gia kiểm soát chi song cũng dễ thấy rằng KBNN đóng
vai trò rất quan trọng trong quá trình kiểm soát, là cổng gát tin cậy và hữu
hiệu để đảm bảo các khoản chi ngân sách đúng và đủ các điều kiện chi
theo luật đònh. Kết quả kiểm soát chi đã được tổng kết qua các năm thực
hiện cũng đã minh chứng rằng KBNN thực hiện nhiệm vụ kiểm soát chi
NSNN thực sự có hiệu quả.
18
§ Tổ chức hạch toán kế toán NSNN đúng theo mục lục NSNN:
Một trong những nhiệm vụ mới mà KBNN phải gánh vác đó là “KBNN tổ
chức thực hiện hạch toán kế toán NSNN, đònh kỳ báo cáo việc thực hiện
dự toán thu, chi cho cơ quan Tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước hữu
quan”.
Hạch toán kế toán NSNN là nhiệm vụ khá nặng nề đòi hỏi phải có
tiến trình thực hiện theo từng thời kỳ. Kế toán ngân sách không chỉ là kế
toán của cơ quan tổng hợp ngân sách mà kế toán ngân sách phải được hiểu
ở phạm vi rộng hơn đó là kế toán của các đơn vò dự toán, kế toán thuế, kế
toán hải quan, kế toán quỹ NSNN. Tuy nhiên, trong điều kiện về tổ chức
hiện nay thì đó là kế toán phần xuất quỹ ngân sách đang thực hiện trong
hệ thống KBNN theo chế độ kế toán NSNN và hoạt động KBNN, việc kế
toán này còn được tổ chức hạch toán chi tiết đến mục lục NSNN.
Mục lục NSNN là bảng phân loại tất cả các nội dung thu- chi
NSNN theo từng tiêu thức nhất đònh nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý qua
lập dự toán, chấp hành ngân sách, quyết toán ngân sách và phân tích ngân
sách. Mỗi đơn vò ngân sách được đònh vò theo mã số chương, loại, khoản
quy đònh trong mục lục ngân sách; mỗi khoản thu, nội dung chi cũng được
mã hóa theo từng mục, tiểu mục riêng. Việc đònh vò chính xác nội dung thu
ngân sách cũng như chi ngân sách là việc rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng
đến việc phân cấp ngân sách thông qua phân cấp nguồn thu của từng cấp
ngân sách trong hệ thống NSNN, ảnh hưởng đến việc quản lý và thực hiện
dự toán của từng cơ quan đơn vò sử dụng ngân sách, ảnh hưởng đến việc
phân tích đánh giá chính xác tình hình kinh tế- tài chính- ngân sách trong
niên độ để qua đó hoạch đònh chính sách tài chính- ngân sách nhằm phát
triển kinh tế- xã hội trong thời gian tới, với tầm quan trọng đó việc đảm
bảo hạch toán chính xác mục lục ngân sách là một yêu cầu đã được luật
hóa.
19
1.4/ Quan hệ giữa KBNN và các cơ quan hữu quan trong quản lý cấp
phát và kiểm soát chi NSNN qua KBNN:
Đầu năm 2004, với Luật NSNN sửa đổi, bổ sung lần này đã bỏ hẳn
hình thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí cho các khoản chi thường xuyên
mà thay vào đó là hình thức cấp phát thanh toán theo dự toán được giao từ
KBNN. Luật NSNN cũng đã xác đònh trách nhiệm và quyền hạn của từng
chủ thể trong sử dụng ngân sách khá rõ ràng, minh bạch. Cũng cần thấy
rằng trong kiểm soát chi ngân sách không phải chỉ có KBNN là cơ quan
duy nhất có nhiệm vụ thực hiện, mà phải thấy rằng với chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của từng chủ thể có liên quan đến khoản chi ngân sách đều
có nhiệm vụ quản lý chi song về mức độ, phạm vi, cách thức và thời điểm
có khác nhau.
- Đối với cơ quan Tài chính: có vai trò xuyên suốt từ khâu lập,
chấp hành và quyết toán ngân sách, trong đó nổi bật ở vai trò thẩm đònh dự
toán, có quyền ra lệnh cho KBNN tạm dừng chi trong những trường hợp
khả năng thu không đáp ứng kòp nhu cầu chi hoặc ưu tiên cho một số nội
dung cho cấp bách.
- Đối với cơ quan KBNN: hầu như mờ nhạt trong giai đoạn lập
dự toán song rất nổi bật và trách nhiệm rất lớn trong giai đoạn chấp hành
ngân sách thông qua công tác kiểm soát chi của mình, có quyền từ chối
thanh toán đối với những khoản chi không đủ hoặc không đúng điều kiện
chi theo quy đònh.
- Đối với cơ quan Nhà nước ở Trung ương và đòa phương: có
trách nhiệm hướng dẫn, theo dõi và hầu như chỉ chòu trách nhiệm liên đới
khi đơn vò trực thuộc có sai phạm.
- Đối với đơn vò sử dụng NSNN: chòu trách nhiệm toàn diện
trong việc quản lý và sử dụng ngân sách của mình sao cho đúng luật đònh.
20
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA CƠ CHẾ CẤP PHÁT VÀ KIỂM SOÁT
THANH TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC BÌNH THUẬN
2.1/ Thực trạng về cơ chế cấp phát và kiểm soát chi NSNN qua KBNN
trước khi có Luật NSNN:
Cho đến ngày 31/12/1996, trong khi cơ chế quản lý tài chính nhà
nước đã có nhiều thay đổi nhằm đáp ứng những yêu cầu thực tiễn khi nền
kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thò trường có sự điều
tiết của nhà nước thì cơ chế quản lý, cấp phát chi NSNN vẫn được thực
hiện theo tinh thần Nghò đònh số 168/ CP ngày 20/11/1961 của Hội đồng
Chính phủ ban hành trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu,
bao cấp. Do vậy, trong công tác quản lý điều hành chi NSNN còn bộc lộ
khá nhiều điểm bất hợp lý, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng kinh phí thuộc
NSNN, cụ thể là:
Thứ nhất, đối với cơ quan Tài chính, KBNN: thiếu cơ sở pháp lý
cần thiết để thực hiện kiểm tra, kiểm soát từng khoản chi NSNN. Do vậy,
cấp phát chi NSNN đối với cơ quan Tài chính thực chất chỉ mang tính chất
phân bổ ngân sách; còn đối với KBNN thực chất chỉ là xuất quỹ NSNN. Cơ
quan Tài chính căn cứ vào nhu cầu chi tiêu của các đơn vò thụ hưởng
NSNN để bố trí chi theo tổng số khoản chi, có phân chia theo một số mục
chi, nhưng chỉ là hình thức. Việc điều chỉnh mục chi do các đơn vò tự thực
hiện, nên dẫn đến tình trạng trong khi cơ cấu các khoản chi của NSNN đã
thay đổi nhưng việc kiểm tra, kiểm soát chứng từ chi tiêu của KBNN lại
rất hạn chế, đặc biệt đối với những khoản chi mua sắm trang thiết bò, sửa
chữa lớn, sửa chữa thường xuyên của các đơn vò thụ hưởng. Hơn nữa, trong
21
thời kỳ này, cơ chế đấu thầu chưa được triển khai thực hiện, nên tình trạng
sử dụng lãng phí, thất thoát kinh phí NSNN còn diễn ra tương đối phổ biến.
Thứ hai, trách nhiệm của các đơn vò thụ hưởng NSNN chưa cao
trong khâu phân bổ dự toán và quản lý chi tiêu có hiệu quả.
Thứ ba, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan Tài chính,
KBNN, các Bộ, ngành, đơn vò thụ hưởng NSNN chưa được phân đònh cụ
thể, rõ ràng, còn chồng chéo, song lại bò phân tán, chia cắt ở nhiều đầu
mối ( KBNN, cơ quan Tài chính, Ngân hàng đầu tư phát triển, cơ quan lao
động và thương binh xã hội…). Vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát của cơ
quan Tài chính và KBNN rất hạn chế.
Thứ tư, việc cấp phát NSNN bằng lệnh chi tiền được sử dụng
khá phổ biến ở các cấp ngân sách. Trong trường hợp này, tiền của NSNN
được chuyển thẳng vào tài khoản tiền gửi của đơn vò dự toán, làm tồn quỹ
NSNN giảm đi, trong khi đơn vò lại chưa sử dụng ngay số tiền được cấp đó.
Điều này một mặt gây căng thẳng giả tạo cho quỹ NSNN; mặt khác,
KBNN rất khó kiểm tra, kiểm soát quá trình chi tiêu của đơn vò dự toán.
TỔNG CHI NSNN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN TỪ 1992-1996
Đơn vò: Triệu đồng
NĂM SỐ TIỀN TĂNG SO VỚI NĂM TRƯỚC
1992 101.012
1993 143.989 43%
1994 198.600 38%
1995 279.960 41%
1996 328.350 17%
22
2.2/ Hiện trạng về cơ chế cấp phát và kiểm soát chi NSNN qua KBNN
sau khi có Luật NSNN:
2.2.1/ Cấp phát và kiểm soát chi NSNN bằng hạn mức kinh phí (giai
đoạn 1997- 2003):
2.2.1.1/ Cơ chế cấp phát theo hạn mức kinh phí:
Trước khi có Luật NSNN sửa đổi năm 2003, bên cạnh cơ chế cấp
phát bằng hình thức lệnh chi tiền thì cơ chế cấp phát thanh toán bằng hạn
mức kinh phí cũng tồn tại lâu dài ở nước ta. Cấp phát bằng hình thức hạn
mức kinh phí được sử dụng cho các khoản chi thường xuyên của các cơ
quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trò- xã hội, các tổ chức chính
trò- xã hội nghề nghiệp...Với hình thức này, hàng quý cơ quan Tài chính
căn cứ dự toán được duyệt của cơ quan, đơn vò sử dụng ngân sách, khả
năng thu ngân sách và nhu cầu chi tiêu của ngân sách lập thông báo hạn
mức kinh phí cấp cho đơn vò dự toán cấp I để đơn vò dự toán cấp I tiếp tục
phân phối hạn mức kinh phí cho đơn vò dự toán cấp dưới và như thế cho
đến đơn vò trực tiếp sử dụng ngân sách (cấp III). KBNN tiếp nhận thông
báo hạn mức kinh phí từ cơ quan Tài chính và giấy phân phối hạn mức
kinh phí từ các đơn vò dự toán cấp I, cấp II để tổ chức kế toán chi ngân
sách bằng hình thức hạn mức kinh phí qua hệ thống KBNN. Đơn vò dự toán
cấp III khi có nhu cầu chi tiêu lập giấy rút hạn mức kinh phí đến KBNN để
thực hiện quyết đònh chi của mình.
23
SƠ ĐỒ
CẤP PHÁT NS BẰNG HẠN MỨC KINH PHÍ
Cơ quan Tài chính
Thôn
g báo HMKP
Đơn vò dự toán cấp I
Phân
phối HMKP
Đơn vò trực tiếp sử dụng ngân sách
Nguyên tắc rút hạn mức kinh phí đó là không được sử dụng vượt
hạn mức kinh phí được sử dụng trong quý. Hạn mức được sử dụng trong
quý là số hạn mức cấp trong quý và số hạn mức quý trước sử dụng chưa
hết được tiếp tục sử dụng trong quý này, không được sử dụng hạn mức kinh
phí thuộc quý sau, tháng sau; trong năm hạn mức kinh phí thuộc tháng
trước, quý trước còn thừa được chuyển sang tháng sau, quý sau sử dụng
tiếp; cuối năm hạn mức kinh phí thừa chưa sử dụng hết được hủy bỏ
(ngoại trừ những trường hợp được cơ quan có thẩm quyền cho phép chuyển
sang năm sau chi tiếp và hạn mức kinh phí của các đơn vò thực hiện cơ chế
khoán chi). Ngoài ra, trong một số trường hợp trong năm phát sinh nhu cầu
chi thuộc nhiệm vụ chi của năm sau thì cơ quan Tài chính cấp hạn mức
kinh phí thuộc niên độ ngân sách năm sau, trên cơ sở đó đơn vò sử dụng
ngân sách thực hiện các khoản chi trước cho niên độ ngân sách năm sau,
toàn bộ số chi này sẽ được chuyển vào quyết toán của niên độ ngân sách
năm sau.
24
2.2.1.2/ Kiểm soát chi của KBNN đối với phương thức cấp phát thanh toán
theo hạn mức kinh phí:
Để thực hiện xuất quỹ NSNN qua phương thức cấp phát bằng hạn
mức kinh phí, KBNN với chức năng kiểm soát chi của mình thực hiện kiểm
soát các điều kiện chi NSNN theo luật đònh đó là:
°
Điều kiện về dự toán:
Nhằm đảm bảo đúng mục đích của các khoản chi tiêu của
NSNN thì trước khi thực hiện phải được lập dự toán và trình duyệt dự toán
theo đúng quy đònh (ngoại trừ những trường hợp được pháp luật cho phép).
Việc lập dự toán các khoản chi thường xuyên của các cơ quan hành
chính nhà nước, các đơn vò sử dụng ngân sách phải căn cứ vào nhiệm vụ cụ
thể của năm kế hoạch, đặc điểm hoạt động, các chỉ tiêu về kinh tế- xã hội
do cơ quan có thẩm quyền thông báo. Việc lập dự toán còn phải tuân theo
các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, đònh mức do các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành.
Với phương thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí trước đây, việc
kiểm soát chi về điều kiện có trong dự toán được duyệt tuy đã có hiệu quả
nhất đònh song chưa triệt để, còn chồng chéo, trùng lắp bởi lẽ để cấp phát
hạn mức kinh phí thì cơ quan Tài chính đã căn cứ vào dự toán được duyệt
ra thông báo hạn mức kinh phí theo nguyên tắc toàn bộ số hạn mức kinh
phí mà cơ quan Tài chính thông báo trong năm không vượt dự toán được
duyệt cho đơn vò sử dụng ngân sách. Tuy nhiên, về phía KBNN với nhiệm
vụ của mình lại tiếp tục kiểm soát việc thông báo hạn mức kinh phí của cơ
quan Tài chính cho đơn vò sử dụng ngân sách có vượt dự toán năm được
duyệt của đơn vò không, nếu vượt thì từ chối. Việc làm này rõ ràng có sự
trùng lắp, chồng chéo giữa hai cơ quan trong ngành Tài chính để kiểm soát
25