Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.75 KB, 66 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI
HÀNH CÔNG VỤ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........... 6
1.1. Một số khái niệm liên quan và quy định về tội chống người thi hành cơng
vụ trong pháp luật hình sự Việt Nam trước năm 2015 ..................................... 6
1.1.1 Một số khái niệm liên quan ...................................................................... 6
1.1.2. Tội chống người thi hành công vụ trong pháp luật hình sự Việt Nam
trước năm 2015 ................................................................................................. 9
1.2. Quy định về tội chống người thi hành công vụ trong pháp luật hình sự
Việt Nam năm 2015 và phân biệt với một số tội phạm khác .......................... 12
1.2.1.Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội chống người thi hành công vụ quy định
trong BLHS năm 2015 ..................................................................................... 12
1.2.2. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ và các hành vi chống người
thi hành công vụ khác ..................................................................................... 18
1.3. Khái quát hoạt động áp dụng pháp luật đối với tội phạm chống người thi
hành công vụ ................................................................................................... 22
1.3.1. Hoạt động định tội danh ....................................................................... 22
1.3.2 Hoạt động quyết định hình phạt ............................................................. 23
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI CHỐNG
NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TẠI ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ............. 26
2.1.Tổng quan kết quả áp dụng pháp luật đối với tội phạm chống người thi
hành công vụ tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh .......................................................... 26
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội phạm chống người thi hành công vụ
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .............................................................................. 27
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội phạm chống người thi hành
công vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh................................................................. 33
2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong áp dụng pháp luật đối với tội phạm
chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và nguyên nhân ... 38
2.4.1. Khó khăn, vướng mắc............................................................................ 38



2.4.2. Nguyên nhân.......................................................................................... 40
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH
CÔNG VỤ TẠI ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ............................................ 44
3.1. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.......................... 44
3.2. Hồn thiện các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự có liên
quan đến tội phạm chống người thi hành công vụ .......................................... 45
3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ................ 47
3.4. Tiếp tục nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ những người tiến hành
tố tụng .............................................................................................................. 48
3.5. Tăng cường hoạt động sơ kết, tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật đối
với tội phạm chống người thi hành công vụ ................................................... 50
3.6. Trang bị cơ sở vật chất cho đội ngũ cán bộ làm thi hành cơng vụ góp
phần làm giảm tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ ................. 51
KẾT LUẬN .................................................................................................... 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 57


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự


CTTP

Cấu thành tội phạm

NLTNHS

Năng lực trách nhiệm hình sự

NTHCV

Người thi hành cơng vụ

TAND

Tịa án nhân dân

THTT

Tiến hành tố tụng


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Tình hình thụ lý điều tra tội phạm chống người thi hành công
vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ...................................................................... 60
Bảng 2: Tình hình xét xử sơ thẩm tội phạm chống người thi hành công
vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ...................................................................... 61
Bảng 3: Hình phạt áp dụng với người phạm tội chống người thi hành
công vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................................. 62



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt
là BLHS năm 2015), được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015 và chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. BLHS năm 2015 đã khắc phục được cơ
bản những nhược điểm của BLHS năm 1999, thể hiện được tinh thần đề cao
hiệu quả phịng ngừa, tăng cường tính lương thiện của BLHS trong đấu tranh
phòng chống tội phạm theo hướng giảm bớt hình phạt tù, mở rộng hình phạt
tiền và cải tạo khơng giam giữ; góp phần vào việc hồn thiện và lành mạnh
thể chế hóa nền kinh tế thị trường, thể hiện tinh thần hợp tác quốc tế. Một
trong những thay đổi quan trọng của BLHS năm 2015 là bổ sung, hoàn thiện
quy định về các tội phạm cụ thể, trong đó có quy định về tội chống người thi
hành công vụ. Tuy nhiên, do đây là những quy định mới trong khi tình hình
tội phạm nói chung, tội phạm chống người thi hành cơng vụ nói riêng vẫn
đang diễn ra ngày một tinh vi, phức tạp. Quá trình áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự về loại tội phạm này cịn có những khó khăn nhất định.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, các tội phạm liên quan đến trật tự an toàn xã
hội trên phạm vi cả nước và địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng có diễn biến ngày
càng phức tạp, có xu hướng gia tăng. Trong đó, tội phạm chống người thi
hành công vụ xảy ra phổ biến với nhiều phương thức, thủ đoạn mới, công cụ
phương tiện mới, gây khó khăn khơng nhỏ cho các cơ quan THTT trong quá
trình giải quyết vụ án, đặc biệt là quá trình áp dụng pháp luật với loại tội
phạm này.Vì vậy, việc nhận thức đầy đủ các quy định pháp luật hình sự về tội
phạm chống người thi hành cơng vụ cũng như nâng cao hiệu quả quá trình
điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung và tội chống người thi hành cơng
vụ nói riêng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trở thành một yêu cầu cấp thiết.
1



Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: "Tội chống người
thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có nhiều cơng trình nghiên cứu về đề tài này, tiêu biểu như:
Sách chuyên khảo: Tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam do GS. Võ Khánh
Vinh chủ biên, Nxb lao động xã hội 2003; Sách chuyên khảo Định tội danh
và quyết định hình phạt do GS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Lao động xã
hội, 2010; bên cạnh đó, một số luận văn đã nghiên cứu về tội phạm chống
người thi hành cơng vụ trong pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng
trên một số địa bàn cụ thể, điển hình như: Luận văn thạc sĩ “Tộichống người
thi hành cơng vụ trong pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn ở Hà Tĩnh) ” của tác giả Lê Như Quỳnh; Luận văn “Tội chống
người thi hành cơng vụ trong pháp luật hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng
chống loại tội phạm này” của tác giả Vũ Văn Kiệm; Luận văn “Tộichống
người thi hành cơng vụ trong pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam” của tác giả Trần Hoàng Vũ; luận văn “Dấu hiệu tộichống người
thi hành công vụ trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Anh Thư;
Bài nghiên cứu: Tộichống người thi hành công vụ và một số tội khác có dấu
hiệu chống người thi hành cơng vụ trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Phạm Văn Báu...
Nhìn chung đây là những cơng trình nghiên cứu về lý luận về tội phạm
nói chung cũng như tội chống người thi hành công vụ trong pháp luật hình sự
Việt Nam nói riêng. Các bài viết này thể hiện quan điểm của các tác giả về
vấn áp dụng pháp luật đối với tội chống người thi hành cơng vụ. Tuy nhiên,
q trình thu thập, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu tác giả nhận thấy chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu chun sâu, trực tiếp về áp dụng pháp luật đối
với tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

2



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hệ thống và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về tội chống
người thi hành công vụdưới góc độ khoa học luật hình sự ; đánh giá thực tiễn
áp dụng pháp luật đối với tội phạm chống người thi hành công vụ của các cơ
quan tiến hành tố tụng trên địa bàn Bắc Ninh, từ đó đưa ra giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động này trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ quy định về tội chống người thi hành cơng vụ trong
pháp luật hình sự Việt Nam (từ năm 1945 đến nay).
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội phạm chống người thi
hành công vụ của các cơ quan TTTH trên địa bàn Bắc Ninh.
- Đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật
đối với tội phạm chống người thi hành công vụ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội phạm chống người thi hành công vụ và thực tiễn áp dụng pháp luật đối
với loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc áp dụng pháp luật đối
với tội phạm chống người thi hành công vụ tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật
đối với tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
trong thời gian từ năm 2015 đến 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận

3



Luận văn sử dụng lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người, về xây dựng Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm;
quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, đấu tranh phịng
ngừa với tội phạm chống người thi hành công vụ.
5.2 Các phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, so sánh, bình luận,
quy nạp, diễn dịch ...được sử dụng trong chương 1 của luận văn nhằm tập
trung làm rõ lý luận chung về tội phạm chống người thi hành công vụ.
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, bình luận, quy nạp,
diễn dịch, suy luận logic, nghiên cứu bản án...được sử dụng trong chương 2
của luận văn nhằm làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội phạm chống
người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Các phương pháp dự báo, phân tích, suy luận logic, quy nạp, diễn
dịch...được sử dụng trong chương 3 nhằm đưa ra các giải pháp nhằm áp nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội phạm chống người thi hành công
vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về tội phạm chống người thi hành công
vụ và áp dụng pháp luật đối với tội phạm chống người thi hành công vụ trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Luận văn đã đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật đối với tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói chung. Bên cạnh đó, luận văn sẽ
là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các cán bộ giảng dạy pháp

4



luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên chuyên ngành Luật
trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về tội chống người thi hành công vụ trong
pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội phạm chống người
thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối
với tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

5


Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH
CƠNG VỤ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm liên quan và quy định về tội chống người thi
hành cơng vụ trong pháp luật hình sự Việt Nam trước năm 2015
1.1.1 Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm công vụ
Hiện nay, thuật ngữ “công vụ” vẫn là một thuật ngữ được tiếp cận ở
nhiều nghĩa khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố nên nó chỉ mang tính
tương đối. Ở mỗi quốc gia khác nhau lại có những quan niệm khác nhau khi
bàn về thuật ngữ “cơng vụ”. Theo đó, Luật Cơng vụ của Liên bang Nga coi
cơng vụ là “hoạt động có tính chuyên nghiệp nhằm đảm bảo thực thi thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước”; còn theo từ điển Pratique du Francais 1987

(Pháp) định nghĩa rất gọn như sau: "Công vụ là cơng việc của cơng chức";
Bách khoa tồn thư mở Wikipedia thì định nghĩa:“Cơng vụ là một hoạt động
do cơng chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và
được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội”. Qua
những khái niệm trên có thể thấy, mặc dù về mặt câu từ cịn có sự khác nhau,
tuy nhiên, có thể hiểu “cơng vụ” là một loại lao động mang tính quyền lực và
pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cơng chức nhằm thực hiện các chính sách
của nhà nước trong q trình quản lý tồn diện các mặt của đời sống xã hội do
công chức nhân danh nhà nước tiến hành [27, tr.10]. Cịn hoạt động cơng vụ
chính là việc thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước, gắn với quyền
lực nhà nước, nhân danh nhà nước và được điều chỉnh bởi ý chí nhà nước
nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội do công chức thực hiện theo quy
định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Ngồi ra hoạt động cơng vụ còn

6


là những hoạt động của các tổ chức do nhà nước thành lập (được nhà nước uỷ
quyền công vụ).
Ở Việt Nam cũng chưa có một khái niệm thống nhất về công vụ. Tuy
nhiên, theo nghĩa chung nhất, công vụ được hiểu là các việc công, là các việc
được thực hiện vì lợi ích chung, lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, lợi ích nhà
nước. Ở phạm vi hẹp hơn, công vụ được hiểu là công các công việc của Nhà
nước, là cơng vụ nhà nước. Dưới góc độ pháp lý, cũng đã có văn bản quy
phạm pháp luật đã đưa ra khái niệm về “công vụ”. Tại Nghị quyết số 04HĐTPTANDTC/NQ của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành ngày
29/11/1986 có nội dung như sau: “Cơng vụ là một công việc mà cơ quan Nhà
nước hoặc tổ chức xã hội giao cho một người thực hiện” [Mục 1, Chương 2].
Theo nghĩa này, “công vụ” đã được hiểu theo nghĩa rộng, khơng có việc giới
hạn phạm vi trong lĩnh vực công vụ và không giới hạn về phạm vi chủ thể của
công vụ. Hay như tại Luật cán bộ, công chức năm 2008 được quy định như

sau: “Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác
có liên quan” [19, Điều 2]. Quy định này đã chỉ ra những đặc điểm quan
trọng của công vụ và giới hạn phạm vi chủ thể của hoạt động công vụ. Công
vụ là hoạt động được tiến hành trên cơ sở pháp luật để thực hiện công việc do
Nhà nước giao. Do đó, tính tn theo pháp luật là đặc điểm quan trọng nhất
của “cơng vụ”.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: “Công vụ là một công việc mà
cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao cho một hoặc một số người thực
hiện nhằm quản lý, kiểm soát mọi mặt của đời sống nhằm mục đích phục vụ
nhân dân, phục vụ xã hội theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo
vệ đồng thời thể hiện rõ nhất vai trò quản lý mọi mặt đời sống xã hội của
Nhà nước”.

7


1.1.1.2. Khái niệm người thi hành công vụ
Thực tế khoa học Luật hình sự hiện nay cho thấy, trong các quy định
của BLHS đều chưa đưa ra khái niệm người thi hành công vụ. Khái niệm này
mới chỉ được quy định ở các văn bản dưới luật. Điển hình như tại Nghị quyết
số 04/HĐTP ngày 29-11-1986 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985 đã giải thích về người thi
hành công vụ như sau: “Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền
hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng,
nghiệp vụ của mình và cũng có thể là những cơng dân được huy động làm
nghiệp vụ (như: tuần tra, canh gác, bảo vệ…) theo kế hoạch của cơ quan có
thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội”. Hay như tại
Khoản 1 Điều 3 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2009 quy định:
“Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc

bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản
lý hành chính... hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao
thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính...”. Gần
đây nhất, Nghị định số 208/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về các biện
pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ,
tại Khoản 1, Điều 3 đã giải thích về người thi hành cơng vụ như sau: “Người
thi hành công vụ là cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan, hạ sĩ quan, chiến
sỹ lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm
quyền giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và
được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã
hội”. Về cơ bản, những giải thích, hướng dẫn nêu trên khi đưa ra khái niệm
về người thi hành công vụ, đã đề cập đến ba vấn đề:
Một là, về chủ thể: Họ phải là cán bộ, công chức, viên chức của cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị -

8


xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội hoặc cũng có thể là một cơng dân bất kỳ
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền huy động, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ.
Hai là, về phạm vi công vụ: “Công vụ” mà họ thực hiện là các chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, các tổ chức nhằm phục vụ lợi ích
chung của Nhà nước, của xã hội. Nói cách khác, những cơng vụ mà họ đang
thực hiện phải hợp pháp, mọi thủ tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng
pháp luật.
Ba là, về phạm vi thời gian thực hiện nhiệm vụ của người thi hành cơng
vụ. Theo đó, người thi hành cơng vụ là khi họ “đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ
và chưa kết thúc nhiệm vụ đó”.
1.1.2. Tội chống người thi hành cơng vụ trong pháp luật hình sự Việt
Nam trước năm 2015

1.1.2.1. Tội chống người thi hành công vụ trong pháp luật hình sự giai
đoạn 1945 đến trước năm 1985
Ngay từ khi Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Nhà nước ta đã
đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội, nhất là trong thời kỳ đất nước còn gặp nhiều khó khăn.
Để bảo vệ chính quyền non trẻ cũng như nâng cao hiệu quả quản lý các lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành, trong đó
có những văn bản pháp luật về hình sự. Ở giai đoạn này, các văn bản pháp
luật hình sự chủ yếu là các Lệnh, Sắc lệnh tập trung vào điều chỉnh những
mối quan hệ phức tạp, những tội phạm mang tính nguy hiểm cao.
Trước khi BLHS năm 1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được ban hành, Tội chống người thi hành công vụ chưa
được quy định thành một tội phạm riêng và chưa được điều chỉnh bởi khung
hình phạt riêng mà chỉ được gián tiếp đề cập trong các văn bản pháp luật bảo
vệ sức khỏe và tính mạng của con người nói chung. Điển hình như tại Điều 6

9


Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật quy
định: “Địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây: 1. Cấu kết với đế
quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay cầm đầu những tổ chức, những
đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá hoại kháng chiến, làm hại
nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên; … thì sẽ bị phạt tù từ 10
năm đến chung thân hoặc xử tử hình…”. Tại Điều 14 Pháp lệnh trừng trị các
tội phản cách mạng năm 1967 quy định về tội phá rối trật tự, an ninh như sau:
“1. Kẻ nào vì mục đích phản cách mạng mà kích động, lơi kéo, tụ tập nhiều
người nhằm phá rối trật tự, an ninh, ngăn trở cán bộ, nhân viên nhà nước, bộ
đội, công an thi hành nhiệm vụ thì bị phạt tù từ 5 năm đến 12 năm”. Công văn
số 452 – HS2 ngày 10/8/1970 của TAND tối cao về thực tiễn xét xử tội giết

người quy định những tình tiết tăng nặng đặc biệt của tội giết người. Trong
đó, có tình tiết “giết người được giao nhiệm vụ công tác hoặc trong khi nạn
nhân thi hành nhiệm vụ”…
Có thể nói, mặc dù các quy định của pháp luật hình sự thời kỳ này chưa
đưa ra khái niệm cụ thể về người thi hành công vụ và chống người thi hành
công vụ, tuy nhiên, vấn đề này đã bước đầu được đề cập trong một số các văn
bản quy phạm pháp luật. Đây chính là cơ sở cho những quy định về Tội
chống người thi hành công vụ ở các văn bản luật giai đoạn sau. Thơng qua đó
cũng chứng tỏ sự quan tâm của các nhà lập pháp trong việc bảo vệ các quyền
lợi chính đáng mà đặc biệt là sức khỏe và tính mạng con người nói chung và
quyền, lợi ích chính đáng của người thi hành cơng vụ nói riêng.
1.1.2.2. Tội chống người thi hành cơng vụ trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1985
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khố VII thông qua ngày 27/6/1985 đánh dấu một mốc quan
trọng trong lịch sử lập pháp của nước ta. So với pháp luật hình sự trong những

10


giai đoạn trước thì BLHS năm 1985 có ưu điểm hơn, cụ thể có phạm vi điều
chỉnh rộng hơn, với những quy định rõ ràng về tội phạm và khung hình phạt
đối với các loại tội phạm, trong đó có tội chống người thi hành cơng vụ. Theo
đó, trong BLHS năm 1985, tội chống người thi hành công vụ được quy định
tại Điều 205. Bên cạnh đó dấu hiệu chống người thi hành cơng vụ cịn được
quy định tại Điều 101 Tội giết người và Điều 109 Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Ngoài ra, để làm rõ hơn nội hàm
của hành vi “chống người thi hành công vụ”, Nghị quyết số 04/ HĐTP ngày
29-11-1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS cũng đã đề cập đến

hành vi này.
Có thể nói, những quy định về Tội chống người thi hành công vụ và
các hành vi liên quan đến người thi hành công vụ được quy định trong giai
đoạn này mà cụ thể là việc quy định tội chống người thi hành công vụ thành
một tội danh độc lập trong BLHS năm 1985 cho thấy quan điểm đúng đắn của
Đảng, Nhà nước ta trong quá trình lập pháp, thể hiện sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
1.1.2.3. Tội chống người thi hành công vụ trong Bộ luật Hình sự Việt
Nam năm 1999
Tại Điều 257 BLHS năm 1999 quy định về tội chống người thi hành
công vụ. Về cơ bản, Điều 257 BLHS năm 1999 cũng cấu tạo thành hai khoản
nhưng cả hai khoản đều bổ sung những tình tiết mới là yếu tố định tội hoặc
yếu tố định khung hình phạt. So với Điều 205 BLHS năm 1985 thì Điều 257
BLHS năm 1999 về tội phạm này, có những sửa đổi, bổ sung như sau:
Một là, Điều 257 BLHS năm 1999 đã bỏ quy định: “nếu không thuộc
trường hợp quy định ở Điều 101 và Điều 109...”, (khoản 1 Điều 205 BLHS
năm 1985) vì quy định đó là khơng cần thiết.

11


Hai là, khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999 quy định đầy đủ hơn về
hành vi chống người thi hành công vụ: “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc
dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ
hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật” (thêm hành vi cản trở người
thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ). Đồng thời, Khoản 2 Điều 257
BLHS năm 1999, ngồi trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, cịn bổ sung
thêm 4 trường hợp phạm tội, đó là: Có tổ chức; phạm tội nhiều lần; xúi giục,
lơi kéo, kích động người khác phạm tội; tái phạm nguy hiểm là dấu hiệu định
khung tăng nặng của tội phạm.

Có thể thấy, việc thay đổi một số nội dung trong quy định về tội chống
người thi hành công vụ trong BLHS năm 1999 nhằm khắc phục những tồn tại,
hạn chế của BLHS năm 1985, đồng thời đáp ứng tốt hơn yêu cầu của tình
hình thực tiễn.
1.2. Quy định về tội chống người thi hành cơng vụ trong pháp luật
hình sự Việt Nam năm 2015 và phân biệt với một số tội phạm khác
1.2.1.Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội chống người thi hành công vụ
quy định trong BLHS năm 2015
Tội chống người thi hành công vụ là một trong các tội phạm được quy
định trong Chương XXII BLHS năm 2015, thuộc nhóm các tội phạm xâm phạm
trật tự quản lý hành chính. Theo đó, Điều 330, BLHS năm 2015 quy định:
Điều 330. Tội chống người thi hành công vụ
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác
cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ
thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm:

12


a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Xúi giục, lơi kéo, kích động người khác phạm tội;
d) Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
Từ quy định trên có thể thấy, CTTP của tội phạm này gồm 02 khung
hình phạt: Khung cơ bản và khung tăng nặng. Theo đó, khung cơ bản (Khoản
1) đã đưa ra khái niệm tội phạm chống người thi hành cơng vụ, đồng thời quy

định mức hình phạt đối với người thực hiện hành vi này là “cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Khung tăng nặng
(Khoản 2) quy định hình phạt là “phạt tù từ 02 năm đến 07 năm” đối với
những người thực hiện hành vi thỏa mãn quy định tại khung cơ bản và kèm
theo các điều kiện, như: Phạm tội có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; xúi
giục, lơi kéo, kích động người khác phạm tội; gây thiệt hại về tài sản
50.000.000 đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm…
Nghiên cứu quy định về tội phạm chống người thi hành công vụ trong
BLHS năm 2015, có thể khái quát các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này trên
bốn yếu tố sau:
1.2.1.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo
vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến [29, tr.130]. Tội chống người thi
hành công vụ xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang
thi hành cơng vụ và từ đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý
hành chính khi thi hành nhiệm vụ công.
Đối tượng tác động của tội chống người thi hành công vụ: Đối tượng
tác động của tội phạm này là người thi hành công vụ, thông qua việc xâm
phạm đến người thi hành công vụ mà xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ

13


công[16, tr.25]. Người thi hành công vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do
hợp đồng hoặc do một hình thức khác có hưởng lương, được giao một nhiệm
vụ và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
Người đang thi hành công vụ là người đang thi hành công vụ và chưa
kết thúc. Nếu chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc nhiệm vụ thì tùy từng trường hợp
cụ thể được xác định là một tội phạm khác có tình tiết vì lí do cơng vụ của
nạn nhân.

Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một cơng vụ hợp
pháp, mọi thủ tục trình tự thi hành phải đảm bảo đúng pháp luật. Nếu là người
thi hành công vụ lại làm trái pháp luật mà bị xâm phạm thì hành vi của người
có hành vi xâm phạm không phải là hành vi chống người thi hành công vụ.
1.2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm
Nghiên cứu về mặt khách quan của tội chống người thi hành công vụ là
nghiên cứu về các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm đó, bao gồm:
Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; Hậu quả nguy hiểm cho xã hội
cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; Các điều kiện bên
ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, phương
pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…).
Khoản 1, Điều 330 BLHS năm 2015 đã mô tả khá rõ hành vi khách
quan của tội chống người thi hành cơng vụ. Theo đó, tội phạm này bao gồm
một trong số các hành vi khách quan sau đây:
Một là, hành vi sử dụng vũ lực cản trở người thi hành công vụ thực
hiện nhiệm vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật mà họ
không mong muốn.
Dùng vũ lực là hành vi dùng sức mạnh vật chất (có hoặc khơng có cơng
cụ phương tiện phạm tội) tác động vào người khác. Đối với tội chống người
thi hành công vụ, hành vi dùng vũ lực trước hết phải là hành vi nhằm vào

14


người đang thi hành cơng vụ. Nói cách khác, người bị tấn cơng ở đây là người
đang thì thi cơng vụ nhằm trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của
họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật mà họ không mong muốn.
Những hành vi dùng vũ lực có tính chất như vậy có thể bằng tay, chân để
đấm, đá, trói hoặc cũng có thể thông qua công cụ, phương tiện để thực hiện
hành vi phạm tội như dùng dao, dùng gậy…[26, tr.17]

Khi xem xét hành vi dùng vũ lực trong tội chống người thi hành công
vụ cũng cần lưu ý, nếu hành vi dùng vũ lực làm cho người thi hành công vụ bị
thương, bị tổn hại đến sức khỏe (có tỷ lệ tổn thương cơ thể) hoặc bị chết thì
tùy trường hợp cụ thể, hành vi này cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 BLHS năm 2015
hoặc tội giết người theo Điều 123 BLHS năm 2015 có tình tiết định khung
hình phạt năng nặng “đối với người đang thi hành cơng vụ hoặc vì lý do cơng
vụ của nạn nhân”. Vì vậy, đây là một trong những dấu hiệu quan trọng để các
cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại
tội phạm này.
Hai là, hành vi đe dọa dùng vũ lực cản trở người thi hành công vụ thực
hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật mà họ
khơng mong muốn.
Có thể hiểu, đe dọa dùng vũ lực là trường hợp người phạm tội bằng lời
nói hoặc cử chỉ (hoặc cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực nếu không nghe theo lời họ.
Đây là hành vi uy hiếp tinh thần người thi hành công vụ, làm cho họ lo sợ,
dẫn đến không dám thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được
giao. Sự đe dọa phải xảy ra trên thực tế và có cơ sở để người bị đe dọa tin
rằng lời đe dọa đó sẽ được thực hiện nếu người thi hành cơng vụ tiếp tục thực
hiện cơng vụ của mình hoặc không thực hiện các hành vi trái pháp luật theo
yêu cầu của người phạm tội. Để đánh giá hành vi đe doạ dùng vũ lực có tính

15


chất như vậy hay khơng, cần dựa vào những tình tiết cụ thể, như: Nội dung và
hình thức của hành vi đe doạ (doạ làm gì? Thái độ đe doạ ra sao?); Tương
quan lực lượng giữa bên đe doạ và bên bị đe doạ; Hồn cảnh khơng gian và
thời gian; Tình hình trật tự xã hội nơi và lúc xảy ra hành vi phạm tội…
Ba là, hành vi dùng thủ đoạn khác để cản trở, ngăn người thi hành công

vụ thực diện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật
mà họ không mong muốn.
Việc nhà làm luật quy định thêm hành vi khách quan này cũng xuất
phát từ thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Thực tiễn xét xử
cho thấy, nhiều trường hợp người phạm tội không dùng vũ lực, cũng không đe
dọa dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ nhưng vẫn cản trở được việc
thi hành công vụ của họ. Đối với dạng hành vi này, người phạm tội dung các
thủ đoạn, như: Lăng mạ, bôi nhọ hoặc vu khống, đe dọa công bố những tin
tức, những tài liệu bất lợi, đe dọa hủy hoại tài sản của người thi hành cơng vụ
hoặc gây thương tích cho người thân của họ nhằm cản trở người thi hành công
vụ thực hiện nhiệm vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật
[16, tr.27].
Về hậu quả nguy hiểm cho xã hội, đây là tội phạm có cấu thành tội
phạm hình thức, hậu quả khơng phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này,
chỉ cần người phạm tội thực hiện một trong các hành vi khách quan nêu trên
là tội phạm đã hoàn thành.
1.2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là tổng hòa những dấu hiệu thuộc tâm lý, ý
thức của người phạm tội tại thời điểm tội phạm xảy ra, bao gồm: lỗi, động cơ,
mục đích phạm tội. Trong các dấu hiệu của mặt chủ quan của tội phạm, dấu
hiệu lỗi là dấu hiệu bắt buộc. Mục đích và động cơ mặc dù là dấu hiệu của
mặt chủ quan tuy nhiên khơng phải là dấu hiệu ln có ý nghĩa quyết định

16


đối với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Việc xác định
đúng mặt chủ quan của tội phạm có ý nghĩa quyết định trong việc xác định
TNHS của một người.
Đối với tội chống người thi hành công vụ, khi xem xét mặt chủ quan của

tội phạm này, cần làm rõ 02 dấu hiệu: Lỗi và mục đích, cụ thể:
Về lỗi, người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, tức là
người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi chống người thi
hành công vụ, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy
ra. Trường hợp người phạm tội khơng biết đó là người thi hành cơng vụ thì
tùy theo hậu quả để lại đối với từng trường hợp cụ thể mà xác định người đó
có lỗi gì, từ đó xác định tội danh của người đó.
Về mục đích phạm tội, người thực hiện hành vi chống người thi hành
công vụ là nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ hoặc khiến
họ thực hiện một hành vi trái pháp luật nào đó. Mục đích là để khơng phải
thực hiện nghĩa vụ về tài sản khi bị cưỡng chế, giải thoát kẻ phạm tội đang bị
dẫn giải, tạm giữ; hoặc để chính sách, pháp luật, quyết định nào đó của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền khơng được thực hiện… Trong trường hợp,
người thực hiện hành vi chống lại người đang thi hành cơng vụ có mục đích
khác thì họ có thể khơng bị truy cứu TNHS về tội chống người thi hành công
vụ mà bị truy cứu TNHS về tội khác.
1.2.1.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội chống người thi hành công vụ không phải là chủ thể
đặc biệt, nghĩa là người phạm tội chỉ cần hội tụ đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật hình sự (về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự) là có thể là
chủ thể của tội phạm này. Về độ tuổi, mặc dù BLHS năm 2015 đã có một số
quy định khác so với BLHS năm 1999 về độ tuổi chịu TNHS, tuy nhiên theo
cả hai BLHS, tuổi chịu TNHS đối với hành vi chống người thi hành công vụ

17


đều phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Về NLTNHS thể hiện ở năng lực nhận
thức và năng lực điều khiển hành vi theo các đòi hỏi của xã hội, người được
coi là chủ thể của tội chống người thi hành cơng vụ là là người có đầy đủ

năng lực hình sự, khơng thuộc trường hợp được quy định tại Điều 21, tức là
không bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc điều khiển hành vi của mình.
1.2.2. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ và các hành vi chống
người thi hành công vụ khác
1.2.2.1.Phân biệt tội chống người thi hành cơng vụ với tội giết người có
tình tiết định khung hình phạt tăng nặng “Giết người đang thi hành cơng vụ
hoặc vì lý do cơng vụ của nạn nhân”
Như đã phân tích ở trên, hành vi khách quan định tội trong cấu thành
tội phạm tội chống người thi hành cơng vụ có những nét giống với một số tình
tiết định khung trong một số tội khác, điển hình như tình tiết định khung hình
phạt tăng nặng “Giết người đang thi hành cơng vụ hoặc vì lý do cơng vụ của
nạn nhân”. Đây là tình tiết định khung được quy định tại điểm d khoản 1 Điều
123 BLHS năm 2015. Mặc dù so với quy định tại BLHS năm 1999, hai tình
tiết “giết người đang thi hành cơng vụ” và tình tiết “giết người vì lý do cơng
vụ của nạn nhân” đã được gộp lại quy định trong cùng một điều khoản, tuy
nhiên, về bản chất hai tình tiết định khung tăng nặng này vẫn hoàn toàn khác
nhau. Điều này thể hiện nguyên tắc thu hút tội phạm trong khi xây dựng cấu
thành tội phạm tạo nên cặp cấu thành có quan hệ thu hút. Cặp cấu thành có
quan hệ thu hút là: Trường hợp những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
trong sự so sánh với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm kia có tính chất như
một bộ phận [12, tr.176]. Bằng phương pháp thu hút tội phạm, dấu hiệu
“chống người thi hành công vụ” của Tội Chống người thi hành công vụ đã
được thu hút toàn bộ vào làm dấu hiệu tăng nặng định khung của Tội Giết

18


người quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015. Như vậy, khi
định tội danh và quyết định hình phạt đối với hành vi giết người đang thi hành

công vụ sẽ bị áp dụng điểm d, khoản 1 Điều 123 BLHS mà không áp dụng
thêm Tội Chống người thi hành công vụ (Điều 330).
Giết người đang thi hành công vụ là cố ý gây ra cái chết cho người
đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội có
thẩm quyền giao phó [29, tr.167]. Nhiệm vụ được giao phó có thể là đương
nhiệm do nghề nghiệp quy định như: Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân đang
làm nhiệm vụ bảo vệ; thầy thuốc đang điều trị tại bệnh viện; thầy giáo đang
giảng bài hoặc hướng dẫn học sinh tham quan nghỉ mát… Cũng có thể được
coi là giết người đang thi hành công vụ trong một số trường hợp nạn nhân là
những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra, canh gác...) theo
kế hoạch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà
nước, của xã hội hoặc nạn nhân tuy không phải là những cơng dân được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền huy động, nhưng đã tự nguyện tham gia giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trong một số lĩnh vực nhất định như:
Đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn; can ngăn những vụ đánh nhau ở nơi cơng
cộng... So sánh tình tiết định khung này với tội chống người thi hành cơng vụ
có thể thấy, cả hai trường hợp đều có đối tượng tác động là người đang thi
hành công vụ, đều để cản trở người đang thi hành cơng vụ của mình. Tuy
nhiên, điểm khác biệt cơ bản của hai hành vi này ở chỗ: Hành vi phạm tội của
tội giết người (đang thi hành công vụ) là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng
người đang thi hành cơng vụ trong khi hành vi phạm tội chống người đang thi
hành công vụ khơng phải là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng người thi hành
công vụ.
Khác với trường hợp giết người đang thi hành cơng vụ, giết người vì lý
do cơng vụ của nạn nhân là trường hợp giết nạn nhân không phải lúc họ đang

19


thi hành cơng vụ mà có thể trước hoặc sau đó. Thơng thường, người thi hành

cơng vụ bị giết do người phạm tội thù ốn vì cơng vụ đã được thực thi. Tuy
nhiên, có một số trường hợp người bị giết chưa kịp thi hành nhiệm vụ được
giao, nhưng người có hành vi giết người cho rằng nếu để người này sống,
công vụ mà họ thực hiện sẽ gây ra thiệt hại cho mình, nên đã giết nạn nhân
trước. Từ sự phân tích trên có thể thấy, so sánh tình tiết định khung giết người
trong trường hợp “vì lý do công vụ của nạn nhân” với tội chống người đang
thi hành cơng vụ có sự khác nhau rất rõ. Thứ nhất, về thời điểm thực hiện
hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội chống người đang thi hành công vụ chỉ
xảy ra trong q trình người thi hành cơng vụ đang thực hiện công vụ (đã bắt
đầu và chưa kết thúc việc thực hiện cơng vụ), cịn đối với hành vi phạm tội
giết người vì lý do cơng vụ của nạn nhân thì có thể xảy ra trước hoặc sau khi
kết thúc việc thi hành công vụ. Thứ hai, về động cơ phạm tội: Đối với tội
chống người thi hành cơng vụ, người phạm tội chỉ có động cơ duy nhất là cản
trở chống người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ. Tuy nhiên, đối
với trường hợp giết người “vì lý do cơng vụ của nạn nhân”, động cơ của
người phạm tội có thể là ngăn cản không cho họ thực hiện công vụ hoặc để trả
thù người thi hành công vụ.
Như vậy, việc phân biệt tội chống người thi hành công vụ với tội giết
người theo điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 chỉ đặt ra cho trường
hợp giết người (đang thi hành công vụ) khi có chung dấu hiệu “đang thi hành
cơng vụ”. Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp luật, cần xem xét cụ thể hành vi,
lỗi và mục đích của từng trường hợp để có thể định tội danh và quyết định
hình phạt một cách chuẩn xác, khoa học.
1.2.2.2. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp
“đối với người đang thi hành cơng vụ hoặc vì lý do cơng vụ của nạn nhân”

20



Khác với tình tiết định khung “giết người đang thi hành cơng vụ hoặc
vì lý do cơng vụ của nạn nhân”, tình tiết cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trường hợp “đối với người đang thi hành
cơng vụ hoặc vì lý do cơng vụ của nạn nhân” vừa là tình tiết định khung, vừa
là tình tiết định tội quy định tại điều 134, BLHS năm 2015.
So sánh trường hợp phạm tội chống người đang thi hành công vụ
(khoản 1 Điều 330 BLHS năm 2015) và trường hợp phạm tội có ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đang thi hành công vụ theo các
khoản 1, 2 và 4 Điều 134 BLHS năm 2015 có thể thấy, điểm khác nhau cơ
bản giữa hai trường hợp này ở chỗ: Điều 134 BLHS năm 2015 đòi hỏi hành vi
phạm tội phải gây ra hậu quả có tỷ lệ tổn thương cơ thể. Tỷ lệ này là dưới
11% đối với khoản 1, là từ 11% đến 31% đối với khoản 2 và từ 31% đến 60%
đối với khoản 4. Trong khi đó, tội chống người thi hành cơng vụ (khoản 1
Điều 330 BLHS năm 2015) khơng địi hỏi có tỉ lệ tổn thương cơ thể. Nói cách
khác, căn cứ vào cấu thành tội phạm của mỗi tội, trường hợp cố ý dùng vũ lực
đối với người đang thi hành công vụ để cản trở việc thi hành công vụ mà
không có tỷ lệ tổn thương cơ thể sẽ cấu thành tội chống người thi hành công
vụ; trường hợp cố ý dùng vũ lực đối với người đang thi hành công vụ và có tỷ
lệ tổn thương cơ thể sẽ cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe cho người khác, thuộc khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 4 Điều 134
BLHS năm 2015 tùy thuộc vào tỷ lệ tổn thương cơ thể.
1.2.2.3. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với tội làm nhục
người khác trong trường hợp có tình tiết định khung hình phạt tăng nặng “đối
với người đang thi hành công vụ”
Làm nhục “đối với người đang thi hành công vụ” được hiểu là hành vi
xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người đang thi hành cơng
vụ. Đây là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng được quy định tại điểm d

21



×