Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Khóa luận tốt nghiệp thực trạng giáo dục ở khu vực trung du và miền núi phía bắc (1989 – 2009)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 62 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA LỊCH SỬ
======

NGUYỄN THỊ HOÀI LINH

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ở KHU VỰC
TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(1989 – 2009)
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

HÀ NỘI, 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======

NGUYỄN THỊ HOÀI LINH

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ở KHU VỰC
TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

(1989 – 2009)
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học


TS. NGUYỄN VĂN DŨNG

HÀ NỘI, 2019


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học em đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức và cá nhân, gia đình,
bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử - Trường ĐHSP Hà
Nội 2, các thầy cô là giảng viên khoa Lịch sử cùng các thầy, cô giáo giảng dạy
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Dũng - Người đã tận
tình quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này trong suốt thời gian vừa
qua.
Khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền
núi phía Bắc (1989 – 2009)” là một đề tài hay và hấp dẫn. Song do còn nhiều hạn
chế về thời gian cũng như khả năng tìm kiếm của, tiếp nhận thơng tin của bản thân
vì vậy khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy cơ và các bạn đọc
xem xét và đóng góp ý kiến.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Hoài Linh


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình khoa học do mình thực hiện dưới sự hướng
dẫn của thầy giáo - TS Nguyễn Văn Dũng, Trưởng khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội 2. Nếu tôi sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Hoài Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 3
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ........................................................... 5
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 6
5. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................... 7
6. Bố cục của khóa luận ........................................................................................... 7
Chương 1................................................................................................................. 9
GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 - 1995) 9
1.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía
Bắc trong những năm 1989 - 1995 ........................................................................... 9
1.1.1. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trước năm
1989 ........................................................................................................................ 9
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong
những năm 1989 – 1995 ........................................................................................ 12
1.1.3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trong 10 năm đầu đổi mới .. 15
1.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 1995)
.............................................................................................................................. 18

1.2.1. Về mở rộng quy mô hệ thống giáo dục các cấp ............................................ 18
Về quy mô trường, lớp học các cấp ....................................................................... 18
Về số lượng học sinh, giáo viên của các cấp .......................................................... 20
1.2.2. Một số chuyển biến về chất lượng giáo dục ở các cấp học .......................... 24
1.3. Nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989
– 1995) .................................................................................................................. 25
1.3.1. Thành tựu .................................................................................................... 25
1.3.2. Hạn chế........................................................................................................ 27
1.3.3. Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi
phía Bắc (1989 - 1995) .......................................................................................... 28
Tiểu kết chương 1:................................................................................................. 29

Chương 2 GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(1996 - 2009) ......................................................................................................... 30


2.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía
Bắc (1996- 2009) ................................................................................................... 30
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong
những năm 1996 – 2009 ........................................................................................ 30
2.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trước yêu cầu đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ........................................................................................ 34
2.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 – 2009)
.............................................................................................................................. 36
2.2.1. Tình hình biết đọc biết viết .......................................................................... 36
2.2.2. Tình hình đi học........................................................................................... 38
2.2.3. Trình độ giáo dục đạt được .......................................................................... 41
2.3. Một số nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía
Bắc (1996 - 2009) .................................................................................................. 44
2.3.1. Thành tựu .................................................................................................... 44

2.3.2. Hạn chế........................................................................................................ 47
2.3.3 Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi
phía Bắc (1996 - 2009) .......................................................................................... 48
Tiểu kết chương 2 :................................................................................................ 50
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 53


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống xã hội, sự nghiệp giáo dục ln có vai trị quan trọng đặc biệt
đối với mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. “Giáo dục, đào tạo góp phần nâng cao
trình độ dân trí, và tạo ra nguồn lao động chất lượng cao để thúc đẩy nền kinh tế xã hội đi lên của mỗi quốc gia”. Đương thời, các nhà tư tưởng triết học của chủ
nghĩa Mác - Lênin cũng đã coi giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm. Trong tác phẩm:
“Bàn về chế độ hợp tác” của V. I. Lênin, ơng viết: “Sự thay đổi căn bản đó là ở
chỗ: trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của
chúng ta vào cuộc đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính
quyền... thì trọng tâm cơng tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy vào hoạt
động giáo dục” [27, tr.428]. Nelson Mandela- một vị anh hùng tài ba đã lãnh đạo
nhân dân Nam Phi thốt khỏi ách nơ lệ. Ông đã phát biểu rằng: "Giáo dục là vũ khí
mạnh nhất mà bạn có thể dùng để thay đổi thế giới”, ông hiểu rõ rằng, khi nhận
thức của người dân còn thấp, nền giáo dục chưa đạt hiệu quả cao thì khi một cuộc
cách mạng diễn ra thì kết quả đi tới thành công là con số không, nếu có thì cũng chỉ
là thành cơng mang tính nhất thời, không bền vững, không kéo dài được lâu. Cho
nên, chỉ có đầu tư vào giáo dục thì mới thay đổi được nhận thức của người dân và
mang lại cho họ một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Ở nước ta cũng vậy, trong suốt
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta đã sớm có ý thức
về “tầm quan trọng của giáo dục” và quan niệm rằng: “giáo dục - đào tạo là nhân
tố cốt yếu, động lực thúc đẩy đất nước phát triển”. Chính vì vậy, ngay từ thời Lê,
Thân Nhân Trung đã khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Ngun khí

thịnh thì thế nước mạnh mà vươn cao; ngun khí suy thì thế nước yếu mà xuống
thấp. Bởi vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc gây dựng
người tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí là việc làm đầu tiên” [17, tr.84].
Kế thừa và phát huy truyền thống trọng giáo dục, trọng nhân tài của ông cha
ta, kể từ khi nước nhà ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn quan tâm tới giáo dục và
khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” vì sự phát triển đi lên của đất nước
(trích trong Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII), bởi lẽ: “Giáo dục và đào tạo có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” [10,
tr.77]. Cùng với vai trị quan trọng đó, Đảng đã xác định 3 mục tiêu tiên quyết của

1


sự nghiệp giáo dục đó là: “nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài” trong đó, phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu có ý nghĩa hàng
đầu.
Trung du và Miền núi phía Bắc Việt Nam nằm ở phía Bắc của đất nước, là
nơi sinh sống tập trung của các dân tộc thiểu số với trình độ phát triển khác nhau và
có vị trí quan trọng đối với lịch sử của dân tộc. Trong thời kì đổi mới, cùng với
nhân dân miền Bắc, nhân dân các dân tộc trên địa bàn của khu vực đã đóng góp hết
sức mình vào cơng cuộc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu mà miền Bắc
đạt được trong thời kì này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đóng góp
khơng hề nhỏ của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa miền Bắc nói chung và giáo dục ở
các tỉnh Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng.
Hơn nửa thế kỷ qua, nền giáo dục nước ta nói chung và thực trạng giáo dục ở
khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng, đặc biệt là sau cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa 1986 thì sự nghiệp giáo dục
nước ta cũng đang có những bước phát triển quan trọng cả về chất và lượng. Những
thành tựu đó góp phần vào việc “nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo

nguồn lực có chất lượng cao cho cơng cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới toàn diện
đất nước”. Mặc dù đạt được nhiều kết quả tốt như vậy nhưng nền giáo dục Việt
Nam đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập như: “cơ sở vật chất - kĩ thuật còn lạc
hậu, chưa đảm bảo, thiếu; chất lượng giáo dục còn kém, nhu cầu học tập cũng như
điều kiện để phát triển giáo dục giữa các vùng miền có sự chênh lệch lớn, sự mất
cân đối về tình hình biết đọc, biết viết, tình hình đi học, trình độ học vấn, trình độ
khoa học kĩ thuật, số lượng giáo viên còn thiếu v.v…”, đặc biệt ở khu vực Trung du
và Miền núi phía Bắc cịn tồn tại khá rõ nét so với các vùng miền khác trong cả
nước.
Trước những thành tựu và thách thức nói trên, yêu cầu đặt ra cho nền giáo
dục nước ta nói chung và cả ngành giáo dục của khu vực Trung du và Miền núi phía
Bắc nói riêng là cần nắm rõ thực trạng giáo dục của từng vùng, miền và của cả nước
để kịp thời đưa ra các giải pháp mang tính chất đột phá cả về quy mô cũng như chất
lượng giáo dục.
Mặc dù đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về giáo dục trong giai đoạn
1986 đến nay, cùng với số liệu đề cập khá rõ ràng của Tổng cục thống kê Việt Nam
qua các năm nhưng vẫn chưa có một cơng trình sử học nào trình bày một cách có hệ

2


thống, toàn diện thực trạng của giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
Việt Nam trong giai đoạn (1989 – 2009).
Với lý do đó, tác giả đã chọn “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và
Miền núi phía Bắc (1989 – 2009)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của sự nghiệp giáo dục trong quá
trình phát triển của đất nước nên vấn đề giáo dục luôn là đề tài nhận được sự quan
tâm, chú ý của nhiều tác giả, các cơng trình nghiên cứu khai thác ở các khía cạnh
khác nhau đã được thực hiện, đặc biệt là từ sau năm 1986. Một số cơng trình nghiên

cứu về giáo dục Việt Nam đã được thực hiện như:
Cuốn sách: “Tổng kết đánh giá 15 năm đổi mới giáo dục (1986 – 1996)” của
Bộ Giáo dục và Đào tạo được ban hành năm 1996. Cơng trình này tập hợp những
báo cáo của các địa phương sau 10 năm tiến hành đổi mới giáo dục và được trình
bày một cách cụ thể và có hệ thống.
Cuốn sách “Giáo dục Việt Nam 1945-2005, tập I” của Bộ Giáo dục và Đào
tạo xuất bản năm 2000. Cơng trình đã mơ tả bức tranh về hoạt động giáo dục của cả
nước từ bậc mầm non cho tới đại học theo từng giai đoạn lịch sử; quá trình xây
dựng và phát triển của giáo dục ở từng vùng tự do, tạm chiến, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số; những đóng góp của cơng tác giáo dục đối với cuộc kháng chiến của
dân tộc; các cuộc cải cách giáo dục trong lịch sử. Ngồi ra, cơng trình cịn đề cập
đến sự hình thành, phát triển của ngành giáo dục ở các tỉnh, thành phố trong cả
nước theo từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, nội dung trình bày mang tính chất khái
lược giáo dục của các vùng miền trong cả nước là chủ yếu chứ không cụ thể của
một vùng miền nào đó. Chính vì vậy, lượng thơng tin về tình hình giáo dục của các
địa phương ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc giai đoạn từ năm 1989 đến
năm 2009 rất hạn chế.
Cuốn sách: “Giáo dục Việt Nam 1945 – 2010” của tác giả Phạm Minh Hạc
được xuất bản năm 2000. Cuốn sách gồm 2 tập giúp chúng ta có được một cái nhìn
tổng quát về quá trình xây dựng, từng bước trưởng thành của nền giáo dục nước
nhà; đồng thời nêu được những nét đặc trưng của sự nghiệp giáo dục của các tỉnh
thành qua các thời kì lịch sử.
Cuốn sách: “Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945-1992)” của Bộ Giáo dục và
Đào tạo xuất bản năm 2005 đã đề cập có hệ thống, chi tiết các ngành học diễn ra từ

3


năm 1945 đến 1995. Trong từng ngành học, cuốn sách trình bày về: lịch sử hình
thành, cách thức tổ chức quản lí, chương trình học, loại hình đào tạo cũng như

những đóng góp của từng ngành học đối với xã hội; vấn đề giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước, vấn đề hợp tác trong lĩnh vực giáo dục v.v… Tuy
nhiên, cơng trình cũng mới dừng lại ở mức độ khái quát về giáo dục của cả nước nói
chung nên giáo dục ở miền núi phía Bắc nói riêng khơng trình bày cụ thể, rõ nét.
Cuốn sách: “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945-1995)”
của Bộ giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2006. Cơng trình mơ tả bức tranh tương
đối tồn diện về sự phát triển của ngành giáo dục Việt Nam từ khi nước ta giành
được độc lập, tự do năm 1945 đến những năm bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước năm 1995. Đồng thời, cơng trình cũng mơ tả một cách khá chi tiết
và có hệ thống từ các ngành học cho đến việc xây dựng, phát triển giáo dục ở các
vùng trong cả nước.
Đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu có đề cập tới giáo dục ở các
tỉnh miền núi phía Bắc đã được xuất bản như: Cuốn sách “Một số vấn đề kinh tế - xã
hội các tỉnh miền núi phía Bắc” của Viện Dân tộc học xuất bản năm 2007. Cơng
trình đã tổng hợp các bài viết của nhiều nhà khoa học, trong đó đề cập đến nhiều nội
dung: dân cư và lao động; phát huy các thế mạnh để phát triển kinh tế, thế yếu của
các tỉnh miền núi phía Bắc; phát triển văn hóa và giáo dục, kết hợp phát triển kinh
tế với củng cố quốc phòng ở các tỉnh miền núi. Cuốn sách cũng nêu lên thực trạng,
khó khăn, tiềm năng của các tỉnh miền núi phía Bắc; đề ra các biện pháp nhằm xây
dựng, phát triển miền núi trên các lĩnh vực, trong đó có giáo dục.
Cuốn sách Lịch sử giáo dục Việt Nam (năm 2008), Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm, Hà Nội của tác giả Bùi Minh Hiền đã trình bày có hệ thống các giai đoạn
phát triển của giáo dục Việt Nam, đồng thời cũng xác định mục tiêu, định hướng
nhằm phát triển giáo dục Việt Nam trong thời kì mới.
Ở Việt Nam xu hướng nghiên cứu về thực trạng, thành tựu, hạn chế, những
biện pháp, đề xuất cải tổ, đưa ra các định hướng là một xu hướng chung được giới
nghiên cứu lựa chọn nhiều để làm đề tài nghiên cứu của mình. Trong suốt chiều dài
lịch sử của sự nghiệp giáo dục nói chung và từ sau khi đổi mới đất nước 1986 đến
năm 2000 nói riêng, trên các tạp chí văn hóa - xã hội và giáo dục đề cập khá nhiều,
với mật độ bài viết dày đặc, có thể kể đến các tạp chí như: Tạp chí giáo dục, Tạp chí

nghiên cứu lịch sử, Tạp chí khoa học hay Tạp chí khoa học xã hội… Các bài viết về
giáo dục trên các tạp chí này có giá trị to lớn như một cơng trình khảo cứu góp một

4


phần tư liệu chuyên sâu về giáo dục Việt Nam từ khi cả nước bước vào thời kì đổi
mới đất nước.
Có thể thấy rằng, các cơng trình nghiên cứu về lịch sử ngành giáo dục nói
chung và giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc cịn khá ít nói riêng là
những nguồn tư liệu quan trọng giúp tác giả có thể tìm hiểu, nghiên cứu, sử dụng để
thực hiện đề tài: “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
(1989 – 2009)” của mình. Tuy nhiên tính đến hiện tại, vẫn chưa có một cơng trình
nghiên cứu nào thuộc mã ngành Lịch sử Việt Nam, trình bày một cách có hệ thống
về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 - 2009).
3. Đối tƣợng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thực trạng giáo dục ở khu vực Trung
du và Miền núi phía Bắc từ 1989 đến 2009.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, khóa luận cần tập trung vào những
nhiệm vụ sau: những yếu tố tác động tới nền giáo dục của khu vực: tình hình kinh tế
- xã hội; chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục và quá trình thực hiện
chủ trương trên được áp dụng ra sao để thấy được thực trạng giáo dục của khu vực,
từ đó nhận xét thành tựu và hạn chế của giáo dục trong những năm thực hiện đổi
mới toàn diện đất nước, đặc biệt từ năm 1989 trở đi khi hệ thống giáo dục phổ
thông thống nhất 12 năm trên toàn quốc. Đồng thời, chỉ ra được một số tác động của
giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 –
2009).
3.3. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt nội dung: Khóa luận tập trung nghiên cứu những yếu tố tác động đến
giáo dục; thực trạng của giáo dục; những thành tựu, hạn chế của giáo dục; tác động
của giáo dụ đến khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 - 2009.
Về khơng gian: Khóa luận nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở khu vực
Trung du và Miền núi phía Bắc, theo quy định của Tổng cục Thống kê gồm có 13
tỉnh: Hà Giang, Tun Quang, Bắc Thái, Cao Bằng, Hà Bắc, Hịa Bình, Lào Cai,
Quảng Ninh, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Yên Bái.

5


Về mặt thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở
khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009.
Năm 1989 là thời điểm quan trọng đối với lịch sử Việt Nam kể từ sau ngày
nước nhà thống nhất, 2 miền Nam, Bắc sum họp một nhà. Lúc này nền kinh tế Việt
Nam đã chuyển hẳn từ chế độ “quan liêu bao cấp” sang cơ chế thị trường. Đồng
thời, sau khi nước nhà thống nhất đến năm 1989, thì hệ thống giáo dục phổ thơng 12
năm trên tồn quốc mới được thống nhất, mà trước đó giáo dục hai miền Nam, Bắc
khác nhau: từ năm 1954, ở miền Bắc, Nhà nước áp dụng hệ thống giáo dục phổ
thông 10 năm, còn ở miền Nam là 12 năm.
Năm 2009 là năm đất nước hoàn thành những nội dung cơ bản của chiến
lược phát triển giáo dục trong thời kì đổi mới và đề ra những định hướng, biện pháp
phát triển cho ngành giáo dục giai đoạn 2009 - 2020. Đồng thời cũng là năm mà
Tổng cục thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư đã thực hiện Tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam năm 2009, trong đó có chuyên khảo giáo dục Việt Nam - đó là
nguồn tài liệu thống kê hữu ích cho việc nghiên cứu.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu mà tác giả sử dụng gồm có nguồn tư liệu gốc và các nguồn tư
liệu khác cụ thể như sau:

Nguồn tư liệu gốc quan trọng và sử dụng chủ yếu nhất trong khóa luận chính
là các tư liệu, số liệu được khai thác từ Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê
qua các năm như 1989, 1992, 1995, 2000, 2009…; Chuyên khảo giáo dục Việt Nam
lấy 15% số liệu mẫu từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 và
từ hai cuộc tổng điều tra trước đó là 5% năm 1989 và 3% năm 1999 của Tổng cục
thống kê. Nguồn tài liệu này cho ta biết những số liệu chính xác và bao quát nhất về
tình hình giáo dục cả nước. Dựa vào đó tác giả có cơ sở để phục dựng lại bức tranh
về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến
năm 2009.
Bên cạnh nguồn tư liệu gốc, khóa luận đã khai thác và sử dụng các tư liệu,
văn kiện của Đảng trong những năm như: 1991 - 1995; 1996 - 2000; 2001 - 2005,
2006 - 2010. Nguồn tài liệu này cho tác giả biết các chủ trương, chính sách của
Đảng đối với kinh tế - xã hội cũng như những đường lối, chủ trương về giáo dục
nước ta từ sau đổi mới đến nay.

6


Nguồn tư liệu tiếp theo đó là các cơng trình (sách, báo, báo cáo đánh giá,
tổng kết…) của các nhà nghiên cứu, các tổ chức đã được công bố liên quan trực tiếp
tới giáo dục cũng như các mặt khác như kinh tế - xã hội. Qua các nguồn tư liệu này,
tác giả có cái nhìn sâu sắc, thấu đáo hơn về quá trình chuyển mình của đất nước trên
các lĩnh vực.
Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng các luận văn, luận án cùng với các tạp chí, tác
phẩm, bài viết của nhiều tác giả viết có liên quan đến đề tài.
Trên cơ sở các nguồn tư liệu đa dạng và phong phú nêu trên, đã góp phần rất
lớn cho tác giả trong việc thực hiện đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của Đảng. Lịch sử và lôgic và hai phương pháp chủ đạo được tác
giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu và trình bày khóa luận. Ngồi ra, tác giả cịn

sử dụng phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, thống kê, vẽ biểu đồ, so
sánh,…để làm rõ thực trạng và nhận xét về giáo dục ở khu vực Trung du và Miền
núi phía Bắc trong những năm 1989 – 2009.
5. Đóng góp của khóa luận
Thứ nhất, khóa luận phác họa lại có hệ thống bức tranh thực trạng giáo dục ở
khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009.
Thứ hai, khóa luận góp phần tìm hiểu những thành tựu, hạn chế của giáo dục
Việt Nam nói chung và giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói
riêng.
Thứ ba, khóa luận góp phần thấy được tác động của giáo dục đến kinh tế - xã
hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009).
Cuối cùng, khóa luận góp phần bổ sung và làm phong phú thêm nguồn tài
liệu lưu trữ nhằm phục vụ quá trình nghiên cứu, giảng dạy và đánh giá, tổng kết về
lịch sử Việt Nam trong giai đoạn tiến hành đổi mới cũng như lịch sử giáo dục Việt
Nam nhất là giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc thời kì sau đổi mới.
6. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo của khóa luận thì khóa
luận được cấu trúc thành 2 chương:

7


Chương 1: Giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989- 1995)
Chương 2: Giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996- 2009).

8


Chƣơng 1
GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 1995)

1.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi
phía Bắc trong những năm 1989 - 1995
Khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc tính đến năm 1991 có 13 tỉnh, bao
gồm Hà Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Vĩnh Phú, Cao Bằng, Bắc Thái, Lạng
Sơn, Lai Châu, Hòa Bình, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai, Hà Bắc. Tổng dân số trung
bình cả nước là 67774,1 nghìn người, trong đó dân số trung bình khu vực là
11565,8 nghìn người [21, tr.9]. Vùng tập trung chủ yếu là dân tộc ít người như: Tày,
Nùng, Dao, Thái, Mường…Đây không chỉ là nơi có vị trí chiến lược cách mạng
quan trọng trong lịch sử đất nước mà nơi đây còn là vùng giàu tiềm năng về tài
nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái phong phú và đa dạng giúp phát triển nền kinh tế xã hội. Sau khi đất nước tiến hành đổi mới năm 1986, được sự quan tâm sát xao của
Đảng cùng với đó là mọi nỗ lực cố gắng của nhân dân các địa phương trên địa bàn
của khu vực, đã đạt được những thành tựu vượt bậc trên nhiều lĩnh vực trong đó
phải kể đến đó là giáo dục.
1.1.1. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trước năm
1989
Tính đến năm 1989, nước ta đã đi qua 3 cuộc cải cách giáo dục: cuộc cải
cách lần thứ nhất diễn ra bắt đầu từ năm 1950, mục đích nhằm xây dựng một nền
giáo dục của dân và vì dân; lần thứ 2 bắt đầu từ 1956, nhằm hướng tới đào tạo ra
những thế hệ thanh niên có đủ năng lực và phẩm chất tốt, có cả đức và tài; và cuộc
cải cách lần thứ 3 bắt đầu từ 1979, đã tiến hành cải cách toàn diện về mục tiêu, nội
dung, nguyên lý, phương pháp và cơ cấu hệ thống giáo dục, đào tạo; đặc biệt trong
thời gian này hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm đã được hình thành trong cả
nước. Qua các đợt cải cách giáo dục nói trên, mỗi cuộc cải cách đổi mới giáo dục
thì đều có nội dung, tính chất phù hợp với xu thế phát triển của đất nước nói chung
và thế giới nói riêng, đã phản ánh kết quả khả quan cả về thành tựu cũng như hạn
chế của công tác giáo dục nước nhà.
Xét về mặt bằng chung của cả nước thì tỉ lệ biết chữ đã tăng lên đáng kể và tỉ
lệ mù chữ đã dần giảm xuống ở mức tương đối, nhờ vậy phần nào đã xóa bỏ nạn mù

9



chữ, nâng cao dần trình độ dân trí cho người dân được thể hiện rõ qua bảng số liệu
dưới đây:
Bảng 1: Tổng số ngƣời mù chữ từ 10 tuổi trở lên qua 2 đợt tổng điều tra
dân số của nƣớc ta năm 1979, 1989
Đơn vị: nghìn người (%)
Năm 1979

Năm 1989

Biết chữ

Mù chữ

Biết chữ

Mù chữ

Nam

16086 (90%)

1620 (10%)

19854 (93%)

15337 (7%)

Nữ


15816 (84%)

1817 (19%)

20512 (84%)

3854 (16%)

Tổng số

31902 (85%)

5437 (15%)

40366 (88%)

5391 (12%)

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Tổng điều tra dân số Việt Nam, “Kết quả điều
tra mẫu” năm 1979, 1989.
Nhưng điều đáng lo ngại ở đây là mặc dù tổng số người mù chữ trong cả
nước không lớn nhưng phần đông trong số họ lại sinh sống tập trung ở những vùng
xa xôi, hẻo lánh ở miền núi cao. Do vậy, tỷ lệ biết chữ của khu vực còn thấp so với
các vùng khác trong cả nước. Chẳng hạn, ở Hà Giang, Tuyên Quang, tổng số người
mù chữ trong độ tuổi 15 – 35 chiếm 34% nhưng con số tương tự ở những huyện
vùng cao của tỉnh này đều trên 50% rất nhiều, Ở Tuyên Quang có nhiều xã trắng về
giáo dục, số người mù chữ còn lớn.
Trong năm học đầu tiên sau khi đất nước thống nhất 1975 – 1976, quy mô
học sinh trong cả nước là 10.831 nghìn học sinh tham gia học tập ở cả ba cấp học.

Đến năm 1985 – 1986 số học sinh tham gia học tập của cả nước đã lên đến 12.034
nghìn học sinh [19, tr.307]. Tuy nhiên ở khu vực miền xuôi, trẻ em trong độ tuổi
đến trường tham gia học tập đạt khoảng 98% thì ở Miền núi, trung du chỉ đạt 80%.
Số trẻ em trong độ tuổi đi học tập trung nhiều ở đồng bằng chiếm 70%, cịn miền
núi phía Bắc, mới có từ 50 – 60% số trẻ em đi học. Ở vùng cao, biên giới phía Bắc
tỷ lệ này cịn thấp hơn (từ 20 -30%), nhiều xã chỉ có đến lớp 2 từ nhiều năm nay.
Đáng chú ý nhất là học sinh bị lưu ban còn chiếm tỉ lệ cao” [26, tr.3].
Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giữa các địa bàn, khu vực khác nhau cũng có
sự chênh lệch. Ở những tỉnh thuộc khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa do điều
kiện khó khăn về mọi mặt nên tỷ lệ này còn khá cao. Trái lại, ở những tỉnh, thành

10


phố nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển thì tỷ lệ này chỉ duy trì ở mức thấp
hơn. Điều này đã được minh chứng qua một số tỉnh, thành phố điển hình như tại Hà
Nội “tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ học lần lượt là 4,77% và 4,17%. Ngược lại ở các
tỉnh miền núi như Hà Tuyên tỷ lệ này lần lượt là 8,65% và 25,79%, tại Lai Châu là
11,83%, và 30,36%” [20, tr.417].
Tại một số tỉnh, nhiều trường đã hồn thành chương trình phổ cập giáo dục
tiểu học và đang đi vào giai đoạn phổ cập giáo dục cấp trung học cơ sở thì ở một số
địa bàn thuộc các tỉnh thuộc khu vực Miền núi, trung du do điều kiện kinh tế - xã
hội cịn khó khăn, vì vậy cơng việc phổ cập giáo dục tiểu học của vùng còn hạn chế.
Điển hình ở một số tỉnh thuộc vùng miền núi, các tỉnh khu vực phía Bắc dao động
trong khoảng 20 – 30%. Cũng có những xã trẻ em chưa học qua lớp 2 [4, tr.17]. Ở
tỉnh Yên Bái vào những năm 1987 – 1988, học sinh cấp II bỏ học trên 22,4%.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật có những bước tiến lớn trong việc xây dựng, sửa
chữa, nâng cấp và bảo vệ. Tính đến năm 1985 các tỉnh của khu vực đã có hàng vạn
trường được xây dựng, rải khắp địa bàn của cả nước. Ở tỉnh Lạng Sơn trong năm
học 1985 – 1986 đã có “17 trường cấp III ở tất cả các huyện, thị. Các xã đều có

trường phổ thơng cơ sở, trên địa bàn tỉnh có 9 trường phổ thông lao động, 3 trường
dân tộc nội trú ở các huyện, 1 trường phổ thông lao động, 1 trường văn hóa tại tỉnh”
[1, tr.222]. Tuy nhiên cơ sở vật chất, hệ thống trường, lớp nói chung sau năm 1975
vẫn còn nghèo nàn và thiếu thốn như hệ thống trường, lớp học kiên cố chưa có
nhiều chủ yếu được xây dựng một cách tạm bợ, vật liệu xây dựng nên chủ yếu được
làm từ tre, nứa, lá; số phòng, lớp học thiếu, trong khi đó số lượng học sinh ngày một
tăng qua các năm, vì vậy học sinh phải học gộp hoặc tăng ca, có nơi cịn một số
trường học ba ca/ một ngày, lớp học thiếu ánh sáng, kích thức bàn ghế khơng tương
xứng với người học…; cơ sở kĩ thuật phục vụ quá trình học tập của học sinh cũng
như quá trình dạy học của giáo viên khơng được đảm bảo, cịn thiếu thốn, nơi có ít
dụng cụ thí nghiệm thì lại chưa dùng tốt, chưa bảo quản tốt.
Chất lượng giáo dục còn kém, cách khá xa so với đòi hỏi của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Ở các tỉnh, huyện miền núi xa xôi hẻo lánh thì nhiều khi số lượng
sách giáo khoa thậm chí khơng có đủ cho học sinh, thiết bị dạy và học cịn thiếu
nhiều, nội dung chương trình mang tính truyền thống, nặng về lý thuyết hơn là thực
tiễn, số lượng giáo viên căn bản cịn thiếu trầm trọng, trình độ chưa cao,… do vậy
chất lượng giáo dục thấp hơn nhiều so với các vùng khác của cả nước, có những lúc

11


chất lượng giáo dục không bao giờ vượt qua mức 30%, chỉ đạt tầm 25 cho đến 30%
[17, tr.210].
Trong kí ức của mình, nhà giáo ưu tú Cao Văn Tư - nguyên Giám đốc Sở
Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai đã chia sẻ như sau: “những năm 80 và 90, đời
sống kinh tế - xã hội ở Lào Cai rất khó khăn, gây trở ngại lớn cho sự nghiệp giáo
dục. Ngày đó, số người mù chữ tồn tỉnh chiếm tới 52% dân số, tỷ lệ trẻ em trong
độ tuổi ra lớp mới đạt 35,7%, đặc biệt toàn tỉnh có tới 14 xã trắng về giáo dục.
Nhiều trường tiểu học ở vùng cao chỉ có lớp 1, lớp 2, rất ít trường hồn chỉnh tới
lớp 5. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất trường, lớp học hết sức thiếu thốn, chủ yếu là nhà

tranh, vách đất, bàn ghế được ghép từ những thanh tre, nứa, vầu. Nhưng khó khăn
nhất vẫn là số lượng đội ngũ giáo viên, bởi những năm 80 có nhiều giáo viên bỏ
việc, chuyển vùng”[34].
Tựu chung lại, trước năm 1989 tình hình giáo dục của khu vực đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng nhưng bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại nhiều hạn chế cần
phải khắc phục. Năm 1975, nước ta hoàn thành thống nhất đất nước, tuy nhiên do
hoàn cảnh chiến tranh trước và sau đó là chiến tranh Biên giới phía Bắc năm 1979,
một số hệ thống trường lớp xây dựng trong thời kì trước đã bị phá hủy, khơng được
cải tạo hoặc xây dựng lại do vậy không đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh
đặc biệt là khi số lượng học sinh ngày càng tăng lên qua các năm, nó đã ảnh hưởng
khơng nhỏ đến chất lượng dạy và học. Ở các vùng sâu, vùng xa của khu vực do điều
kiện kinh tế còn nghèo nàn, đời sống người dân vô cùng khổ cực cũng tác động một
phần không nhỏ tới giáo dục, tình trạng lưu bạn, bỏ học diễn ra, cơng tác vận động
học sinh đến trường cịn nhiều khó khăn, số lượng trường lớp, giáo viên, trang thiết
bị cũng như chính sách thu hút đầu tư cịn nhiều hạn chế…
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong
những năm 1989 – 1995
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến lớn,
sau gần 5 năm thực hiện đường lối đối mới (1986 – 1990), nước ta đã đạt được một
số thành tựu cơ bản nhưng vẫn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn. Trước tình hình
đó, u cầu bức thiết đặt ra đối với lĩnh vực kinh tế - xã hội là phải cần phải thay
đổi cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, nhằm mục đích phát huy những mặt
mạnh, khắc phục những yếu kém, hoàn thành mục tiêu chiến lược đề ra. Trước
những yêu cầu đó, tại Đại hội lần thứ VII (1991) Đảng ta đã tổng kết, đánh giá
những kết quả mà giai đoạn trước đạt được, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm

12


vụ cho kế hoạch 5 năm tiếp theo (1991 – 1995). Tiếp đó, Đảng ta ln bổ sung, thay

đổi chính sách để phù hợp với tình hình mới. Mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1991 1995 tiếp theo được Đảng xác định cần: “vượt qua thử thách, ổn định và phát triến
kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất cơng xã hội,
đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” [9].
Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng ta đã vạch ra định hướng chiến lược
cho khu vực như sau: “Khu vực Trung du và Miền núi chuyển sang kinh tế hàng
hóa, phát huy thế mạnh của vùng như thế mạnh lâm nghiệp; hình thành vùng
chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, gắn với cơng nghiệp chế biến,
phát triển chăn ni, khai khống. Đẩy mạnh việc khai thác khống sản và thủy
năng, hình thành những trung tâm công thương nghiệp và đô thị gắn với các tổ hợp
kinh tế lãnh thổ: than ở Đơng Bắc, hóa chất, phân bón, luyện kim, điện ở Tây Bắc
và trung du phía Bắc, thủy điện và khai khoáng ở Tây Nguyên.
Riêng đối với khu vục miền núi, Nhà nước hỗ trợ về đầu tư, mở mang giao
thông vận tải, bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người
dân tộc, đồng thời thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền lương...
để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”[8]. Mục đích cuối cùng nhằm thúc đẩy kinh
tế vùng phát triển.
Về chính sách xã hội, ta chủ trương thực hiện đồng bộ chiến lược dân số trên
cả ba mặt: “quy mô, cơ cấu và sự phân bố dân số; giảm tỷ lệ tăng dân số mỗi năm
khoảng 0,4 - 0,6 phần nghìn. Hướng giải quyết việc làm là sử dụng tối đa tiềm năng
lao động; chú trọng phát triển những ngành thu hút nhiều lao động như nuôi trồng
chế biến nông - lâm - thuỷ sản, hàng xuất khẩu...Người lao động chủ động tìm và
tạo ra việc làm” [11].
Thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng nêu trên, khu vực đã có một
số chuyển biến rõ nét:
Về kinh tế: Với sự cố gắng, nỗ lực vươn lên không chỉ ở ban lãnh đạo, mà
điều trọng tâm là ở nhân dân, họ đã cùng nhau vượt qua những khó khăn, thử thách,
nhằm phát huy được những thế mạnh của khu vực mình, tạo ra sự tăng trưởng
nhanh trong đời sống kinh tế, xã hội của vùng.
Ở một số địa phương đã xây dựng được các khu cơng nghiệp lớn, cùng với
đó là sự xuất hiện của thị trấn, thị xã mọc lên ngày càng nhiều. Nhiều gia đình từ

đồng bằng đã di cư lên miền núi sinh sống và lao động, họ đã đưa kỹ thuật canh tác

13


mới vào sản xuất như thâm canh tăng vụ và một số ngành nghề tiểu thủ công. Dân
cư của khu vực dần tiếp cận được những thành tựu của khoa học - kỹ thuật.
Tuy nhiên, mức tăng trưởng kinh tế - xã hội tại địa bàn của khu vực còn rất
thấp. Kinh tế phát triển chậm chạp, tình trạng tự do di chuyển định cư vẫn chưa
được khắc phục; đại bộ phận dân cư trong vùng cịn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn
trong đời sống sinh hoạt thường ngày; tình trạng nghèo đói, khơng được đi học do
vậy nạn mù chữ chiếm số lượng lớn; bệnh dịch chưa được đẩy lùi, nhiều tiêu cực xã
hội phát sinh.
Trên địa bàn các tỉnh thành đã xuất hiện các khu kinh tế phát triển theo
hướng quốc doanh đặc biệt là ở lĩnh vực nơng nghiệp và lâm nghiệp, tuy nhiên năng
suất cịn thấp, chất lượng hiệu quả không cao; người dân địa phương thậm chí cịn
thiếu đất để canh tác trong khi đó tình trạng bao chiếm đất đai lại diễn ra phổ biến,
đất chưa được sử dụng cịn nhiều, tình trạng này đã gây ra mâu thuẫn; nạn chặt phá,
khai thác rừng diễn ra bừa bãi và nghiêm trọng…
Cơ sở hạ tầng đặc biệt là đường giao thông đi lại ở miền núi, nhất là ở các
vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh hệ thống đường qua lại chưa đảm bảo và cịn trắc
trở, nhiều tuyến đường chưa thơng suốt và nối liền giữa các tỉnh, các vùng với nhau
vì vậy đã kìm hãm việc giao lưu, trao đổi qua lại với nhau.
Các điểm cơng nghiệp có quy mơ tương đối lớn trong vùng đã được hình
thành, hoạt động trên các lĩnh vực khai khống, than, cơng trình thủy điện, hóa chất,
chế biến lâm sản,... Tuy nhiên, chúng lại hoạt động một cách biệt lập, chưa lôi cuốn
cả vùng phát triển.
Về xã hội: Cơ cấu dân cư có nhiều biến đổi, tính đến năm 1995 dân số trung
bình của khu vực là 9522,9 người [20].
Bảng 2: Cơ cấu dân số của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc

1991- 1995
Đơn vị %

Đông Bắc
Tây Bắc

1991

1992

1993

1994

1995

11,68

11,67

11,67

11,66

11,67

2,8

2,83


2,84

2,85

2,86

Nguồn: [22]

14


Cơ cấu dân số qua các năm có nhiều thay đổi, tiểu vùng Đơng Bắc có xu
hướng giảm, so với năm 1991 thì tới năm 1995, cơ cấu dân số của tiều vùng giảm
0,1%, trong khi đó, tiểu vùng Tây Bắc thì cơ cấu dân số có xu hướng tăng, so với
năm 1991 thì năm 1995 cơ cấu dân số của tiểu vùng tăng 0,6%, nguyên do của thực
trạng này là do tình trạng du canh du cư, du canh định cư của những người miền
xuôi lên khu vực miền núi sinh sống và lập nghiệp diễn ra phổ biến.
Cơ cấu lực lượng lao động: Xét trong 7 vùng kinh tế của cả nước thì “Miền
núi và Trung du phía Bắc có tỷ lệ người tham gia lao động với dân số toàn vùng cao
nhất (năm 1995 là 70,37%); thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ chỉ đạt 62,45%” [20,
tr.38]. Nhưng chính tỷ lệ này cũng phản ánh sự phát triển của từng khu vực, tùng
vùng. Số lượng người tham gia lao động của vùng cao nhất cả nước nhưng chất
lượng người lao động lại không cao đã làm ảnh hưởng một phần không nhỏ tới sự
phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Nhìn chung, đường lối do Đại hội VII đề ra trong kế hoạch 5 năm (1991 –
1995) đã đạt được một số kết quả đáng khen ngợi, các mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch đã được thực hiện vượt mức. Đất nước đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng, trì
trệ về kinh tế, tạo tiền đề để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: “đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”. Nhưng thực tế nước ta vẫn đang ở trình độ
phát triển thấp về kinh tế, văn hóa, xã hội.

1.1.3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trong 10 năm đầu đổi mới
Cùng với đường lối đổi mới về kinh tế - xã hội của Đảng thì chủ trương đổi
mới giáo dục cũng được đề cập khá rõ trong giai đoạn này. Lúc này, ngành Giáo
dục nước ta đang trong lúc thực hiện Nghị quyết 14 (1979) của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương khoá IV về “cải cách giáo dục”. Một số việc đang triền
khai như: chuyển giáo dục phổ thông sang hệ thống 12 năm thống nhất trong cả
nước. Nghị quyết 14 (1979) đã vạch ra những quan điểm, mục tiêu dài hạn cho giáo
dục ở nước ta, tuy nhiên, Nghị quyết 14 (1979) chưa nêu được các điều kiện thuận
lợi cũng như mọi biện pháp khả thi để hồn thành các mục tiêu đó, đồng thời quan
niệm về giáo dục cịn bị hạn chế bởi cách nhìn trước đây. Sau Đại hội VI (tháng
12/1986) của Đảng, để cuộc “cải cách giáo dục” đáp ứng được yêu cầu nói chung,
chúng ta đã tiến hành điều chỉnh mục tiêu, nội dung chương trình, sách giáo khoa
cũng như đổi mới về quan điểm và cách làm giáo dục.

15


Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nền giáo dục nước ta đứng trước thực
trạng: “Suy giảm số lượng và suy thoái về chất lượng trong giáo dục phổ thông;
thiếu mối quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo và việc làm trong giáo dục chuyên nghiệp;
mạng lưới không hợp lý và thiếu mối quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu,
sản xuất, việc làm trong giáo dục đại học; đội ngũ giáo viên yếu về chất lượng và
thiếu động lực làm việc; tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn; tổ chức
quản lý và pháp chế chưa thích hợp; hệ thống giáo dục đào tạo chưa phù hợp với
xã hội đang chuyển đổi”[3].
Trước thực trạng trên, vấn đề đặt ra cho giáo dục lúc này là cần khắc phục
những yếu kém đó, đổi mới phải làm sao cho hệ thống giáo dục góp phần đắc lực
phục vụ sự nghiệp “cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Ngay từ đầu của thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời thay đổi tư
duy và cách làm giáo dục, đề ra những chủ trương thích hợp trong giai đoạn chuyển

đổi. Định hướng cụ thể đó là: "xây dựng ngành giáo dục mầm non, nâng cao chất
lượng nuôi dạy trẻ em, phát triển lớp mẫu giáo xóa bỏ nạn mù chữ lại số địa
phương, hoàn thành phổ cập cấp I cho trẻ em, phổ cập cấp II nơi có điều kiện, bước
mở rộng giáo dục phổ thơng trung học nhiều hình thức đẩy mạnh nghiệp giáo dục
miền núi"[7, tr.33].
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991) đã
chỉ rõ: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ
coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của
sự phát triển. Trước mắt phải phổ cập cấp 1 nâng cao dân trí, đào tạo nghề cho
phần lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo nghề cho phần
lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo cán bộ nhiều trình độ,
đặc biệt là cán bộ quản lý và kinh doanh, chuyên gia khoa học và công nghệ, chú ý
phát triển bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Đổi mới nhanh cơ chế quản lý giáo
dục, đào tạo khoa học, công nghệ phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần theo định hướng XHCN gắn chặt với sự phát triển các lĩnh vực này với sản
xuất và các mục tiêu kinh tế xã hội. Một mặt Nhà nước tăng đầu tư, mặt khác có
chính sách để tồn dân, các thành phần kinh tế cùng làm và đóng góp vào sự
nghiệp này. Hầu hết các nước, trước sự nghiệp phát triển của lực lượng sản xuất,
đều phải tiến hành cải cách giáo dục để có đội ngũ lao động có trí tuệ thích ứng với
bước tiến của khoa học cơng nghệ. Chúng ta phải có tổng kết cuộc cải cách giáo

16


dục vừa qua để có chủ trương phù hợp cho thời gian tới. Đó là vấn đề chiến lược
đồng thời cũng là vấn đề bức xúc cần giải quyết”[7, tr.121-122].
Mục tiêu phát triển giáo dục nhằm: “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có đạo đức
cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ
theo hướng tồn diện và có năng lực chun mơn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo

việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần"[7, tr. 122].
Nhiệm vụ của giáo dục 5 năm tới (1991 - 1995) là: “Tiếp tục đổi mới, ổn
định phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Coi trọng chất lượng
giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh và sinh viên; hiện đại hóa mơi trường nội
dung, phương pháp giáo dục; dân chủ hóa nhà trường và quản lí giáo dục; đa dạng
hóa loại hình đào tạo và loại hình trường lớp, từng bước hình thành những trường
bản công, dân lập, tư thục (dạy nghề), phát triển loại hình vừa học vừa làm. Mở
rộng đào tạo nghề, bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ, kinh doanh,
về quản lí kinh tế, xã hội và nhiều cơng nhân lành nghề”[7, tr.66].
Về giáo dục phổ thông: “Tập trung thực hiện chương trình phổ cập giáo dục
cấp 1 và chống mù chữ, phát triển cấp 2, cấp 3 phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế.
Củng cố và phát triển trường phổ thơng trẻ em có tật…Tăng cường đầu tư cho giáo
dục ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng các trường nội trú, quy hoạch đào
tạo cán bộ và tri thức người dân tộc” [13, tr194].
Quan điểm chỉ đạo sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo trong giai đoạn này
đã được Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII diễn ra vào
tháng 01/1993, ra Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo” nêu
lên 4 quan điểm chỉ đạo đó là:
“ + Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là
quốc sách hàng đầu, phải coi đầu tư giáo dục và đào tạo là một trong những
hướng chính của đầu tư phát triển; huy động tồn xã hội góp sức xây dựng
giáo dục.
+ Giáo dục phải nhằm nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, hình thành những con người có chất lượng mới, những con người
lao động tự chủ, năng động, sáng tạo. Phải mở rộng quy mô, đồng thời nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.

17



+ Giáo dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, phù hợp với
xu thế tiến bộ của thời đại, phải được tổ chức để mọi người đều được học hỏi
và học thường xuyên suốt đời.
+ Đa dạng hóa hình thức giáo dục đào tạo, đảm bảo cơng bằng xã hội
trong giáo dục; người đi học nói chung phải đóng học phí; người sử dụng lao
động thơng qua đào tạo phải đóng góp chi phí cho đào tạo; Nhà nước có
chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều được
đi học” [13, tr194].
Như vậy, chủ trương lớn, bao trùm, chi phối toàn bộ quá trình đổi mới giáo
dục - đào tạo nước ta trong hơn 10 năm qua là “chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc
dân từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN” [13, tr 95].
Với những quan điểm chỉ đạo trên, có thể khẳng định Đảng thật sự quan tâm
và chú trọng đến sự nghiệp giáo dục của đất nước, không chỉ riêng một khu vực nào
đó mà là cơng tác chiến lược cho từng địa bàn và của cả nước.
1.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 –
1995)
Thực hiện các mục tiêu và phương hướng về giáo dục mà Đảng và Nhà nước
ta đề ra qua các kì Đại hội, được áp dụng chung trong cả nước; cùng với đó là tác
động không nhỏ của kinh tế - xã hội của khu vực trong giai đoạn này. Đồng thời,
năm 1989 – 1995 là thời kì đang tiến hành đổi mới tồn diện giáo dục phổ thơng ở
các cấp học thì giáo dục trên địa bàn các tỉnh thành của khu vực có những nét
chuyển biến mới.
1.2.1. Về mở rộng quy mô hệ thống giáo dục các cấp
Về quy mô trường, lớp học các cấp
Mẫu giáo: số lượng trường, lớp học ngày càng tăng lên qua các năm cho thấy
dấu hiệu huy động học sinh đến lớp ngày càng tăng. Tính đến năm học 1991 –
1992, số lượng trường, lớp học của khu vực đã tăng lên đáng kể, lần lượt là 968
trường, 9151 lớp học. Trong đó, tỉnh Vĩnh Phú là nơi có số lượng trường lớp nhiều

nhất, ngược lại Hà Giang, một tỉnh miền núi xa xôi, số lượng trường lớp cịn hạn
chế chỉ có tất cả 4 trường mầm non với 47 lớp học. Đến năm học 1995 – 1996 thì đã
tăng lên 1055 trường với 12031 lớp học đáp ứng số lượng học sinh ngày một tăng.

18


Tuy nhiên, trong số các tỉnh của khu vực số lượng trường, lớp tăng lên thì có những
tỉnh lại thu hẹp số trường lớp, điển hình là Lạng Sơn và Yên Bái.
Tiểu học và Trung học cơ sở: tổng số trường tính đến năm học 1991 – 1992
của khu vực là 3798 trường phổ thông cơ sở, trung học là 250 trường. Đến năm học
1995 – 1996, số lượng tăng lên tương ứng là 4360 và 283. Mỗi năm số lượng trường
lớp một tăng ở mức tương đối, đặc biệt ở cấp phổ thông tiểu học tăng 562 trường so
với năm 1991. Trường học được xây dựng khang trang với số lớp và phòng học
tăng đáng kể.
Bảng 1. Số lớp học phổ thông năm học 1991 – 1992 và năm học 1995 –
1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
Tổng số

Phổ thơng cơ

Phổ thơng cơ sở

Phổ thơng trung

sở cấp I

cấp II

học


1991 – 1992

65935

51384

12564

1988

1995 – 1996

88876

66064

19222

3590

Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê năm 1992, 1995
Số trường, lớp ở cấp Tiểu học chiếm số lượng nhiều nhất so với các cấp học
khác của khu vực, năm học 1991 – 1992 chiếm tới 78% , trong khi đó cấp Trung
học cơ sở (19,1%) và Trung học phổ thông (21,1%) chiếm tỉ lệ thấp. So sánh với
các vùng khác trong cả nước thì số lượng trường, lớp của khu vực ở thời điểm này
đạt mức cao, trong đó, Đồng bằng sơng Cửu Long có tổng số trường, lớp học cao
nhất cả nước, Tây Nguyên thấp nhất.
Trung học chuyên nghiệp: số lượng trường học nhiều nhất nhì cả nước, tính
đến năm học 1991 – 1992 khu vực có tất cả 57 trường, tuy nhiên sự phân bố khơng

đều, có tỉnh lại khơng có trường trung học chun nghiệp nào điển hình là tỉnh n
Bái và Hịa Bình, trái lại ở tỉnh Vĩnh Phú lại có tới 10 trường.
Đại học và Cao đẳng: càng lên trình độ cao thì số lượng trường càng ít, tính
đến năm học 1991 – 1992, khu vực có tất cả 11 trường. Nếu so quy mơ trường học
của khu vực với các khu vực khác ở miền Bắc nói chung thì số lượng trường tập
trung nhiều nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng với 43 trường, phân bố thưa dần

19


×