Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Thực trạng sử dụng phương pháp hệ thống giao tiếp trao đổi hình PECS trong can thiệp trẻ tự kỷ tại bệnh viện tâm thần thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 107 trang )

ỌC
N N
ỌC SƢ P
M
KHOA TÂM LÝ – ÁO DỤC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Thực trạng sử dụng phƣơng pháp hệ thống giao tiếp trao
đổi hình (PECS) trong can thiệp trẻ tự kỷ tại bệnh viện
Tâm thần thành phố à Nẵng

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Mạnh Ly
Chuyên ngành: Tâm lý

iáo dục

Ngƣời hƣớng dẫn : Lê Thị Phi
Đà Nẵng, tháng 5/ 2013

1


Phần 1. MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, hiện tượng tự kỷ đang là một vấn đề nóng bỏng của xã hội và cũng
được xem là một trong các dạng rối loạn tâm thần ở trẻ em. Nhiều bậc phụ huynh rất
lo lắng vì con mình có những hành vi kỳ lạ mà họ không thể hiểu được. Tự kỷ là một
dạng bệnh trong nhóm rối loạn phát triển xâm nhập ảnh hưởng đến nhiều mặt của sự
phát triển của trẻ nhưng nhiều nhất là về kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội. Đây là
một tình trạng khiếm khuyết phức tạp về khả năng phát triển của não bộ tiến triển


trong ba năm đầu của trẻ, có thể xảy ra cho bất kỳ một đứa trẻ nào mà không phụ
thuộc vào dân tộc, xã hội hay trình độ của cha mẹ và tự kỷ cũng đươc xếp vào nhóm
các loại tàn tật của trẻ em (Theo tuyên ngôn trong hội nghị về sức khoẻ tại Alma Ata
1978).
Tại Hoa Kì, người ta ước tính cứ 88 trẻ sẽ có một trẻ được chẩn đốn mắc hội
chứng tự kỷ (HCTK) khiến trẻ em mắc HCTK cao hơn so với tổng số trẻ bệnh ung
thư, bệnh tiểu đường và AIDS cộng lại. Trong vòng 2 năm qua tỉ lệ này tăng 23%.
Khơng có một lý giải chắc chắn nào cho sự gia tăng này, mặc dù có thể cho là do
phương pháp chẩn đoán được cải thiện hơn hay là do ảnh hưởng của môi trường.
Nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ trai có thể phát triển chứng TK nhiều hơn trẻ gái, có thể
nhiều hơn từ ba tới bốn lần. Theo ước tính hiện nay chỉ riêng tại Hoa Kì, cứ 54 bé trai
sẽ có một bé được chẩn đoán mắc HCTK.
Theo thống kê của Bệnh viện Nhi Trung ương, tỷ lệ trẻ mắc HCTK được chẩn
đoán tại đây là 1/ 150 và con số này ngày càng tăng. Hiện ở Việt Nam vẫn chưa có
thống kê chính xác về số lượng người mắc TK và cũng chưa có phương pháp nào
được khoa học kiểm chứng, khẳng định chữa khỏi TK. Mỗi phương pháp đều có thể
tốt trên một số trường hợp, nhưng lại không hiệu quả với một số trường hợp khác.
Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có một "phác đồ" can thiệp về y tế, giáo dục, xã
hội cho trẻ tự kỷ. Trong đó giáo dục vẫn chưa có giáo trình chuẩn dành cho TTK. Cha
mẹ TTK hay sinh viên muốn tìm hiểu về phương pháp can thiệp trẻ tự kỷ thì địa chỉ đỏ
là đến các bệnh viện lớn như Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Bạch Mai hay tại

2


miền Trung là bệnh viện Tâm thần thành phố Đà Nẵng. Chương trình CTTTK tại các
bệnh viện này cũng khơng giống nhau có thể là ABA, PECS, RDI, Điều hịa cảm
giác… Tuy nhiên, tất cả đều hướng vào can thiệp hành vi cho trẻ với mục tiêu chung
là dạy cho trẻ những kỹ năng có thể hỗ trợ cho sự phát triển của trẻ và giúp trẻ đạt
được những kỹ năng độc lập cao nhất và có được chất lượng sống tốt nhất. Trong đó

phương pháp hệ thống giao tiếp trao đổi hình- Pictures Exchange Communication
System (PECS)là một cơng cụ tốt giúp trẻ giao tiếp không lời. PECS cho phép trẻ lựa
chọn và giao tiếp theo nhu cầu khi trẻ có thể giao tiếp và thể hiện nhu cầu của chúng,
thơng thường các hành vi có thể giảm nhẹ và trẻ trở nên vui vẻ hơn.
Chính tình trạng ngày một gia tăng của trẻ mắc HCTK đã thôi thúc tôi tìm hiểu
sâu sắc về TTK và phương pháp CTTTK. Dó đó tơi chọn đề tài: “Thực trạng sử dụng
phương pháp hệ thống giao tiếp trao đổi hình (PECS) trong can thiệp trẻ tự kỷ tại
bệnh viện Tâm thần thành phố Đà Nẵng” làm chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nh m tìm hiểu thực trạng ứng dụng phương pháp PECS trong can thiệp
cho trẻ tự kỷ tại bệnh viện Tâm thần thành phố Đà Nẵng và đề xuất các biện pháp mở
rộng ứng dụng phương pháp PECS nh m hướng tới mục tiêu chung là dạy cho trẻ
những kỹ năng có thể hỗ trợ cho sự phát triển của trẻ, giúp trẻ đạt được những kỹ năng
độc lập cao nhất và có được chất lượng sống tốt nhất.
3.

ối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng sử dụng phương pháp hệ thống giao tiếp trao đổi hình (PECS) trong
CTTTK.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Trẻ tự kỷ đang điều trị nội trú tại bệnh viện Tâm thần thành phố Đà Nẵng.
3.3. Khách thể khảo sát
- 15 bệnh nhi mắc HCTK đang điều trị nội trú tại bệnh viện Tâm thần thành
phố Đà Nẵng.
- Các bác s , y tá điều dư ng chuyên viên tâm lý (giáo viên) đang thực hành
phương pháp PECS tại bệnh viện Tâm thần thành phố Đà Nẵng.
3



- Phụ huynh của 15 bệnh nhi mắc HCTK đang được can thiệp với phương pháp
PECS.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện Tâm thần
thành phố Đà Nẵng.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 5 năm 2013.
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng sử dụng phương pháp hệ thống giao tiếp
trao đổi hình (PECS) trong CTTTK đang được điều trị nội trú tại bệnh viện Tâm thần
thành phố Đà Nẵng
4.

iả thuyết khoa học
Phương pháp PECS được sử dụng hiệu quả trong CTTTK tại bệnh viện Tâm

thần thành phố Đà Nẵng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến TTK: khái niệm, biểu hiện,
phân loại, nguyên nhân, đặc điểm đặc trưng… của TTK; Và phương pháp PECS trong
CTTTK: Sự ra đời, mục tiêu tác động, cấu trúc, mục đích, nội dung, hiệu quả và sự mở
rộng phương pháp trong thực tiễn.
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng phương pháp PECS trong CTTTK tại bệnh viện
Tâm thần thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các biện pháp mở rộng ứng dụng phương pháp PECS trong CTTTK
tại bệnh viện Tâm thần thành phố Đà Nẵng.
6.

ệ thống các phƣơng pháp nghiên cứu

6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận

- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp phân loại
- Phương pháp hệ thống hóa
- Phương pháp khái quát hóa
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp trắc nghiệm (test)
4


- Phương pháp phỏng vấn (trò chuyện)
- Phương pháp điều tra viết
-Phương pháp quan sát
- Phương pháp nghiên cứu hồ sơ
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
6.3. Nhóm phương pháp xử lý và phân tích kết quả
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo phần nội
dung của để tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và các biện pháp mở rộng việc sử dụng phương
pháp hệ thống giao tiếp trao đổi hình (PECS) trong can thiệp trẻ tự kỷ tại bệnh viện
tâm thần thành phố Đà Nẵng

5


Phần 2. NỘ DUN
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA Ề T

1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu về trẻ tự kỷ
1.1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về trẻ tự kỷ trên thế giới
 Th i

tr

hi

ng nh n h i h ng t

Hội chứng tự kỷ được phát hiện và mô tả vào những năm 40 của thế kỷ trước,
nhưng thực ra hội chứng tự kỷ đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Các tác phẩm
văn học phương Tây cổ đại đã nhắc tới những trẻ kỳ lạ, những đứa trẻ con trời hay
bị tiên đánh tráo . Nhiều mô tả về trẻ mà cho tới sau này khi Leo Kanner (1894 1981) phát hiện, người ta mới thấy đó chính là những đứa trẻ tự kỷ trong lịch sử. Theo
Candland (1993): Trẻ em với những gì mà hiện nay chúng ta mơ tả như chứng tự kỷ
có thể đã mô tả trước đây và được gọi là những đứa trẻ hoang dã và Kanner là người
đầu tiên mô tả chi tiết về những gì mà ngày nay biểu hiện b ng thuật ngữ rối loạn tự
kỷ ở trẻ em .
Cũng bàn về sự tồn tại của HCTK trong lịch sử, các nhà nghiên cứu Australia
cho biết, chứng tự kỷ đã tồn tại từ lâu trước khi được chính thức cơng nhận vào năm
1943. Các câu chuyện cổ tích và dân gian có từ hàng trăm năm trước đã có những
b ng chứng về bệnh tự kỷ ở trẻ em. Theo Tiến sỹ Julie Leask và các cộng sự (Trung
tâm miễn dịch và giám sát vắc xin phòng bệnh ở Sydney - Australia): Các câu chuyện
của Anh, Đức và Scandinavia đã ủng hộ giả thuyết r ng chứng tự kỷ không phải là kết
quả của môi trường hay sản phẩm hiện đại như vắc xin sởi, quai bị… Phản đối lại giả
thuyết cho r ng nguyên nhân của HCTK là do tiêm chủng vắc xin sởi, quai bị…, tác
giả Julie Leask đưa ra dẫn chứng là TTK đã tồn tại trước đây trong lịch sử vào thời
điểm mà trẻ em chưa được tiêm chủng.
Tiếp tục dựa vào những b ng chứng trên cơ sở các câu chuyện trong tác phẩm

văn học cổ đại, Lorna Wing (1978) đã tìm ra những dấu hiệu của bệnh tự kỷ. Câu
chuyện được bà lưu ý nhất và mô tả trong cuốn sách Hiện tượng tự kỷ nói về một

6


nhân vật là Sư huynh Juniper . Theo nhận định của bà, người này có những biểu hiện
tự kỷ như: không muốn giao tiếp, tiếp xúc; thờ ơ với mọi người xung quanh (không để
ý đến những người dân đang đón chào); thích những họat động nhàm chán lặp đi lặp
lại (chỉ chú ý đến trị chơi bập bênh); khơng hiểu và đáp lại những tình cảm ngư ng
mộ của người dân thành La Mã). Đó là những dấu hiệu ngày nay chúng ta thấy ở hội
chứng tự kỷ. Tuy chưa khẳng định một cách chắc chắn Sư huynh Juniper có bị tự kỷ
hay khơng nhưng theo mơ tả lại của Lorna Wing đã cho thấy một số biểu hiện mà
ngày nay chúng ta thường gặp ở HCTK.
Tiếp theo là tiếp cận mang tính y học về dấu hiệu của HCTK, những năm 70
của thế kỷ 18, cuộc cách mạng trong ngành tâm thần học thực sự nổ ra, người ta bắt
đầu quan tâm nhiều đến bệnh tâm trí, tinh thần. Y khoa bắt đầu đi tìm căn nguyên của
căn bệnh tâm thần. Theo những tài liệu mô tả lâm sàng, vào thời điểm đó, bác sỹ Jean
Marc Itard (1774-1838) đã tiếp nhận một cậu bé hoang dã tên là Victor. Theo mơ tả,
cậu bé khơng có khả năng hiểu và biểu đạt ngơn ngữ, khơng có khả năng giao tiếp
hoặc nhận thức, các ứng xử xa lạ với cuộc sống của xã hội lồi người. Nói chung,
Victor bị mất khả năng giao tiếp về mặt xã hội và không có khả năng nhận thức như
trẻ bình thường. Để khắc phục tình trạng này, Itard đã tìm đến phương pháp giáo dục.
ng tập trung vào các hoạt động như: tạo hứng thú cho Victor giao tiếp xã hội, đánh
thức sự nhạy cảm về thần kinh, tăng cường mở rộng nhận thức cho Victor, hướng dẫn
Victor sử dụng ngôn ngữ, yêu cầu thực hiện thao tác trí tuệ đơn giản. Itard là người
đầu tiên tiến hành giáo dục trị liệu đối với trẻ có khiếm khuyết tinh thần, ơng là người
sáng tạo ra học thuyết về tri giác. Khác với những mô tả được sưu tầm từ các tác phẩm
văn học cổ đại, những mô tả theo xu hướng lâm sang - y học của bác sỹ Jean Marc
Itard cho thấy những đặc điểm rõ ràng hơn về HCTK. Mô tả này vẫn nh m khẳng định

sự tồn tại của những đứa trẻ tự kỷ trong lịch sử.
Để minh chứng cho triệu chứng tự kỷ của Victor, sau này Uta Frith (1989) đã
xác nhận những dấu hiệu của tự kỷ như sau: sút kém trầm trọng về tương tác xã hội,
thích chơi một mình, có hành vi rập khn, khơng có ngôn ngữ, sự tập trung chú ý bất
thường về thị giác.

7


Qua những tìm hiểu trên chúng ta thấy r ng, HCTK đã tồn tại rất lâu trong lịch
sử, hội chứng này chỉ được mơ tả chi tiết và có tên gọi chính thức vào năm 1943 bởi
bác sỹ tâm thần người Mỹ là Leo Kanner.
 Th i

ph t hiện ra ệnh t

Sang thế kỷ 20 với sự phát triển mạnh mẽ của sinh học, vật lý học, hóa học và y
học với bề dày 200 năm nghiên cứu các bệnh về tinh thần, nên đã có những bước phát
triển mới trong việc mô tả, định bệnh và chữa trị. Sự chi tiết hóa và phân loại bệnh
ngày càng được quan tâm đúng mức.
Thuật ngữ tự kỷ (Autism) được bác sỹ tâm thần người Thụy Sỹ là Engen
Bleuler (1857-1940) đưa ra năm 1919 (Wing 1976). ng sử dụng thuật ngữ này để mô
tả giai đoạn bắt đầu rối loạn thần kinh ở người lớn. Chú ý đặc biệt đến mất nhận thức
thực tế của người bệnh khi chuyển sang cách ly với đời sống thực tại hàng ngày và
nhận thức của người bệnh có xu hướng khơng thống nhất với kinh nghiệm thông
thường bởi những rối loạn tâm thần (Wing 1976). Như vậy Bleuler là người đầu tiên
sử dụng thuật ngữ tự kỷ để mô tả một triệu chứng trong bệnh tâm thần phân liệt
HCTK thực sự được công nhận vào năm 1943, trong một bài báo với nhan đề
Autism Disturbance of Effective Contract , HCTK được mô tả một cách rõ ràng và
khoa học bởi bác sỹ tâm thần người Mỹ là Leo Kanner.


ng đã hiểu HCTK theo một

sắc thái khác (không giống Bleuler). Mô tả của ông như sau: trẻ tự kỷ thiếu quan hệ
tiếp xúc về mặt tình cảm với người khác; cách chọn lựa các thói quen hàng ngày rất
giống nhau về tính tỉ mỉ và tính kỳ dị; khơng có ngơn ngữ hoặc ngơn ngữ thể hiện sự
bất thường rõ rệt; rất thích xoay trịn các đồ vật và thao tác rất khéo; có khả năng cao
trong quan sát khơng gian và trí nhớ như con vẹt ; khó khăn trong học tập ở những
l nh vực khác nhau; vẻ bề ngoài những trẻ này xinh đẹp, nhanh nhẹn, thơng minh;
thích độc thoại trong thế giới tự kỷ; thất bại trong việc hiểu hành vi giả vờ và hành vi
đoán trước; chỉ hiểu ngh a đen của câu nói; thích tiếng động và vận động lặp đi lặp lại
đơn điệu; giới hạn đa dạng các hoạt động tự phát (Lorna Wing 1998 và Jack Cott
1999). Kanner nhấn mạnh triệu chứng tự kỷ có thể phát hiện được ngay khi trẻ ra đời
hoặc trong khoảng 30 tháng đầu. Từ những phát hiện này của Kanner, khoa học y học

8


đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc chẩn đốn một dạng bệnh tâm trí. Từ mơ tả
này, sau này khái niệm tự kỷ được mở rộng thành khái niệm Rối loạn tự kỷ rồi đến
Phổ tự kỷ. Công trình nghiên cứu của Kanner ban đầu ít được chú ý, sau đó được phổ
biến nhanh chóng và ngày nay là trọng tâm của nhiều cơng trình nghiên cứu tại nhiều
nước trên thế giới (Wing 1989).
Về mặt y khoa, những thay đổi quan niệm về hội chứng tự kỷ có thể nhận thấy
trong lịch sử của hai hệ thống quốc tế phân loại các dạng rối loạn tâm bệnh và rối loạn
hành vi. Thứ nhất là hệ thống quốc tế phân loại thống kê các chứng bệnh và các vấn đề
y tế có liên quan (ICD) do tổ chức y tế thế giới (WHO) công bố, thứ hai là sổ tay chẩn
đoán và thống kê (DSM) của Hội tâm bệnh học Hoa Kỳ. Lần xuất bản đầu tiên của hệ
thống ICD khơng nói tới hiện tượng tự kỷ, khi tái bản lần thứ tám (1967) cũng chỉ coi
hiện tượng tự kỷ ở trẻ em là một dạng tâm thần phân liệt, đến khi tái bản lần thứ chín

(1977) đã đặt chứng tự kỷ vào trong mục loạn tâm trẻ em . Sự tiến bộ rõ rệt trong
quan niệm của hai hệ thống về chứng tự kỷ được đánh dấu b ng lần tái bản thứ mười
của ICD và lần tái bản thứ ba, thứ tư của DSM.Hai hệ thống đều cho r ng các tình
trạng tự kỷ đều thuộc trong một dãy các rối loạn về phát triển mà không phải loạn
tâm .Cả hai hệ thống phân loại cùng sử dụng tên gọi là Rối loạn phát triển lan tỏa
(Lorna Wing, 1998).
Nghiên cứu về HCTK, lần xuất bản thứ nhất (1953) và thứ 2 (1968) cuốn Sổ
tay thống kê và chẩn đoán các Rối loạn tâm thần của Hiệp hội những nhà tâm thần Mỹ
chỉ đưa ra những khái niệm tâm thần nhi khi nói về giá trị chính thức trong mơ tả trẻ tự
kỷ. Sau đó năm 1980 với Hệ thống DSM III là một sự cải tiến quan trọng. Khác với
những lần xuất bản trước, tái bản lần này, DSM-III đã phân biệt rõ ràng sự khác nhau
giữa HCTK và bệnh tâm thần phân liệt, đồng thời làm rõ hơn khái niệm Rối loạn phát
triển lan tỏa và những hội chứng trong rối loạn phát triển lan tỏa (trong đó có HCTK).
HCTK ngày càng được khái qt hồn thiện hơn. DSM-III-R đã có những miêu
tả cải tiến hơn so với DSM-III (Volkmar, Cicchetti, Cohen, & Bregman, 1992), ở đây
khái niệm Tự kỷ Di chứng đã khơng cịn phù hợp, đồng thời phân nhóm Rối loạn
phát triển lan tỏa sớm ở trẻ em (COPDD) cũng được loại bỏ. Do đó DSM-III-R chủ

9


trương phân Rối loạn phát triển lantỏa (PDD) thành hai nhóm là: Rối loạn tự kỷ và Rối
loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (PDD NOS).
Đến năm 1994, DSM IV tiếp tục thuật ngữ chẩn đoán với Rối loạn phát triển
lan tỏa (PDD) và PDD gồm năm thể loại rối loạn phát triển khác nhau: Rối loạn tự kỷ
(Autistic disorder), Rối loạn Rett (Rett’s disorder), Rối loạn tan rã thời ấu thơ
(Childhood disintegrative disorder), Rối loạn Asperger (Asperger’s disorder), Rối loạn
phát triển lan tỏa không đặc hiệu (Pervasive developmental disorder not otherwise
specified). Cho đến nay DSM-IV-TR là bảng phân loại bệnh mới nhất và hoàn thiện
nhất của Hiệp hội những nhà tâm thần Mỹ.

Cũng nghiên cứu về tự kỷ, một hệ thống phân loại khác (độc lập với Hiệp hội
những nhà Tâm thần mỹ) thuộc Tổ chức Y tế Thế giới. Năm 1978, ICD-9 chính thức
thừa nhận tự kỷ ở trẻ em n m trong phân loại bệnh tâm thần nhi, trong đó bao gồm các
bệnh tâm thần đặc hiệu và bệnh tâm thần không đặc hiệu. Chiếu theo cách tiếp cận lịch
sử bệnh ICD, tự kỷ được mô tả đầu tiên thuộc về tâm thần nhi. Năm 1992, ICD -10
hoàn thiện hơn trong phân loại HCTK, các tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng và chi tiết
hơn: Trong Rối loạn phát triển lan tỏa (PDD) gồm những hội chứng sau: Tính tự kỷ ở
trẻ em (F84.0), Tự kỷ khơng điển hình (F84.1), Hội chứng Rett (F84.2), Rối loạn lan
tỏa tan rã khác ở trẻ em (F84.3), Rối loạn tăng hoạt động kết hợp với chậm phát triển
tâm thần và các động tác định hình (F84.4), Hội chứng Asperger (F84.5), Rối loạn
phát triển lan tỏa khác (F84.8), Rối loạn phát triển lan tỏa khơng đặc hiệu (F84.9).
Trong suốt q trình phát hiện và nghiên cứu trẻ tự kỷ, ngày nay các nhà khoa
học đã đưa ra các tiêu chuẩn chẩn đoán được khái quát trong hai bảng phân loại bênh
quốc tế là DSM IV và ICD 10.Đây là hai bảng phân loại bệnh tật có uy tín nhất vào
thời điểm hiện nay trên thế giới.
1.1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về trẻ tự kỷ tại Việt Nam
Ở Việt Nam, bệnh tự kỷ được phát hiện vào cuối thế kỳ 20 và ngày càng lan
rộng, bùng phát. Những thống kê cho thấy năm 2000 Khoa phục hồi chức năng, Bệnh
nhi Trung ương chỉ tiếp nhận khoảng 23 trẻ bị bệnh tự kỷ thì riêng năm 2007 trẻ tự kỷ
đã tăng gấp 50 lần (với 1454 trẻ tự kỷ). Cùng năm 2007 tại đơn vị Tâm lý, Bệnh viện
Nhi Đồng 1, TP. Hồ Chí Minh có 170 trẻ và Khoa Tâm lý Bệnh viện Nhi Đồng 2, TP.
10


Hồ Chí Minh là 212 trẻ có hội chứng tự kỷ đến khám và điều trị là những nghiên cứu
mở đầu về TTK tại Việt Nam.
Gần đây có thể kể tới: Luận án của TS. Ngô Xuân Điệp Nghiên cứu nhận thức
của trẻ tự kỷ tại thành phố Hồ Chí Minh (2009); Nghiên cứu một số đặc điểm lâm
sàng của trẻ tự kỷ từ 18 tháng đến 36 tháng tuổi tại bệnh viên Nhi Trung ương của
Nguyễn Thị Hương Giang (2010)và nghiên cứu năm (2011) về sử dụng hiệu quả sữa

đạm thủy phân cho TTK của nhóm tác giả Lưu Thị Mỹ Thục, Nguyễn Thị Yến – bệnh
viện Nhi Trung ương; Một nghiên cứu khác về TTK được ThS. Dương Văn Tâm Bệnh viện Châm cứu Trung ương thực hiện năm 2011.
Tại bệnh viên tâm thần thành phố Đà Nẵng những nghiên cứu về trẻ tự kỷ cũng
được quan tâm với đề tài nghiên cứu cảu BS.Trần Thị Hải Vân về đánh giá hiệu quả
can thiệp của phương pháp kích hoạt hành vi (ABA) trong trị liệu trẻ tự thực hiện năm
2011.
Theo tính tốn của các chun gia, với dân số 80 triệu nước ta có khoảng
160.000 người bị tự kỷ (tính tỷ lệ1/7.000 dân số theo tài liệu nước ngoài). Trẻ tự kỷ ở
Việt Nam thường được phát hiện muộn khi việc can thiệp đã kém hiệu quả chính vì
vậy việc nghiên cứu liên quan tới TTK cũng như nghiên cứu chuyên sâu về sử dụng
phương pháp tâm lý – giáo dục, y – sinh học có ý ngh a to lớn trong CTTTK.
1.1.2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu về phương pháp PECS trong CTTTK
Nghiên cứu về phương pháp PECS trong CTTTK hiện nay mới có trên thế giới
với các cơng trình nghiên cứu của Ganz và Simpson năm 2004, nghiên cứu của Liddle
năm 2001. Các cơng trình nghiên cứu này đã chứng tỏ hiệu quả của PECS trong việc
dạy trẻ phát triển sớm các kỹ năng, đặc biệt trong việc dạy trẻ chậm phát triển.
Tuy các công trình này khách thể nghiên cứu là trẻ châm phát triển song có mỗi
liên hệ mật thiết với đề tài nghiên cứu vì TTK trên 70% đi kèm chậm phát triển như
những nghiên cứu thống kê của nhiều nhà chuyên mơn trước đó. Trong đề tài nghiên
cứu khoa học mới đây của nhóm sinh viên Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng cũng
đưa ra kết quả tương tự. Với ý ngh a đó tơi đã thực hiện đề tài nghiên cứu thực trạng
sử dụng phương pháp PECS trong CTTTK với khách thể là TTK đang điều trị tại bệnh

11


viện Tâm thần thành phố Đà Nẵng. Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam về thực
trạng sử dụng phương pháp PECS trong CTTTK.
Theo tìm hiểu của đề tài hiện nay phương pháp PECS ngoài việc sử dụng tại
bệnh viện tâm thần thành phố Đà Nẵng, còn được sử dụng rộng rãi tại bệnh viện Nhi

Trung Ương, Trung tâm Sao Mai (Hà Nội), Trung tâm tâm lý học ứng dụng Sông Phố
(Đồng Nai), Trường mầm non chuyên biệt Bim Bim (Tp. Hồ Chí Minh)... Tuy nhiên
chưa có chun gia nào tiến hành một nghiên cứu tương tự về thực trạng sử dụng
phương pháp PECS trong CTTTK tại các cơ sở này.
1.2. Những vấn đề lý luận của đề tài
1.2.1. Những vấn đề lý luận về hội chứng tự kỷ

1.2.1.1. Khái niệm hội chứng tự kỷ
Khái niệm HCTK được đề cập đầu tiên vào năm 1943 bởi bác s tâm thần người Mỹ
gốc Áo Leo Kanner trong một bào báo với tiêu đề Autism Disturbance of Effective
Contract . Ở đó, Leo Kanner mơ tả một nhóm người trong số những cá nhân mà rất cơ lập và
xa cách - đó là thuật ngữ tính tự kỷ. Tính TK có ngh a là cái tơi , và nhóm mà Kanner đã
nghiên cứu (11 trẻ) có vẻ đóng kín trong một thế giới nội tại – co cụm.
Khi đó HCTK được ơng mô tả như một chứng rối loạn tâm thần hiếm gặp ở trẻ em.
Các đặc điểm được Leo Kanner mô tả bao gồm: Thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm với
người khác; Thể hiện cách chọn lựa các thói quen hàng ngày rất giống nhau về tính tỉ mỉ và kì
dị; Khơng hề nói năng hoặc cách nói năng khác thường rõ rệt; Rất ham thích xoay vặn các đồ
vật và thao tác khéo léo; Trí nhớ như con vẹt; Khó khăn trong học tập ở những l nh vực khác
nhau; Thích độc thoại khác nhau trong thế giới tự kỷ; Vẻ bề ngoài những trẻ này xinh đẹp, có
vẻ thơng minh, nhanh nhẹn [2, tr9].
Thuật ngữ Hội chứng tự kỷ (Autism) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Autos
có ngh a là tự bản thân, khi chuyển ngữ sang tiếng Việt được dịch theo ba cụm từ khác
nhau: Tự kỷ, tự tỏa, tự bế. Tuy nhiên về cơ bản chỉ là cách dịch (cách gọi) khác nhau
của bệnh Autism. Nghiên cứu này sẽ sử dụng duy nhất một cụm từ được sử dụng rông
rãi nhất hiện nay là Tự kỷ thơng suốt đề tài thay vì các cụm từ Tự tỏa hay Tự
bế .

12



Tự kỷ là một rối loạn phát triển lan tỏa do bất thường của não bộ được xác định
bởi một sự phát triển khơng bình thường hay giảm sút xuất hiện ở trẻ trước 3 tuổi với
những biểu hiện đặc trưng ở các l nh vực: kém tương tác xã hội, bất thường về ngôn
ngữ, giao tiếp và hành vi.
Tự kỷ là hội chứng đa khiếm khuyết, biểu hiện sự rối loạn phát triển: Hành vi
rập khuôn lặp đi lặp lại, kích động, tự tấn cơng; Chậm phát triển ngơn ngữ hoặc phát
triển ngôn ngữ bất thường; Trẻ quá nhạy cảm hoặc thiếu nhạy cảm trong xử lí cảm
giác; Sở thích đơn điệu, nghèo nàn đối với sự vật, hiện tượng trên thế giới; Hạn chế
các k năng ứng xử qua lại với mọi người; Khó khăn trong việc hiểu và biểu đạt thông
tin; Đa số TTK chậm phát triển trí tuệ. Chứng TK thường gặp ở trai nhiều hơn trẻ gái
từ 3 đến 4 lần [2, tr11].
Theo Hiệp Hội Tâm Thần Quốc Tế: Chứng TK là một sự rối loạn phát triển ảnh
hưởng đến khả năng giao tiếp của con người, đến hình thức quan hệ với người khác và
đáp ứng phù hợp của con người tới môi trường. Chứng TK bắt đầu trong thời thơ ấu
và được cho là một rối loạn suốt đời. Một vài triệu chứng có liên hệ với chứng tự kỷ
có thể thay đổi trong số những cá nhân, nhưng nói chung, những người tự kỷ có xu
hướng suy giảm quan hệ xã hội, giao tiếp, vận động và cảm giác mà ảnh hưởng đến
hành vi của họ.
Theo Prachi E Shah, Richard Dalton và Neil W. Boris Tự kỷ là một rối loạn
phát triển thần kinh và chưa biết rõ nguyên nhân gây bệnh, nhưng có một nền tảng di
truyền học chắc chắn. Chứng TK phát triển và có chẩn đốn rõ ràng trước 36 tháng
tuổi. Nó đặc trưng bởi một kiểu loại hành vi bao gồm sự suy giảm về chất trong những
l nh vực phát triển ngôn ngữ, kỹ năng truyền đạt, tác động quan hệ xã hội qua lại,
tưởng tượng và vui chơi. Ba tác giả đều đồng ý nguyên nhân của bệnh TK chưa xác
định rõ ràng, nhưng đồng thời lại khẳng định mạnh mẽ tính sinh học trong phát triển
thần kinh của nó.
Như vậy, TK là một dạng rối loạn phát triển thần kinh nhưng chưa biết rõ
nguyên nhân.Mức độ nặng nhẹ của bệnh TK có thể dao động ở nhiều mức độ khác
nhau từ người có khả năng trí tuệ bình thường đến chậm phát triển. Chứng TK biểu
hiện sự thiếu quan tâm đến tình cảm của người khác và có rất ít hoặc khơng có quan

13


hệ giao tiếp qua lại với mọi người. Trẻ tự kỷ thường được mơ tả như thế giới đóng
kín và né tránh tính cảm, tình u. Nhiều TTK khơng nói, thích chơi một mình và tự
kích động.Hội chứng tự kỷ bao gồm nhiều triệu chứng khác nhau, các triệu chứng này
hợp thành những biểu hiện khác nhau ở TTK.
Từ những quan niệm trên, ta có thể đưa ra khái niệm về hội chứng tự kỷ như
sau: T

h i h ng đa hiế

vi nh n th



th o h

hu ết

s th h

ngh

ph t tri n tr tuệ

dụ hầu hết trẻ t

đ u tiến


i u hiện s rối o n ph t tri n trong h nh
i n i gi

hi đ

tù th o

quan v quan hệ x h i t nhi u

an thiệp
đ

ng tr iệu t

ệnh v

h th

v gi o

an thiệp ủa

c

nhà chuyên môn [3].
1.2.1.2. Biểu hiện của trẻ mắc hội chứng tự kỷ
Qua nghiên cứu, các chuyên gia cho r ng các biểu hiện của TTK có thể sớm, có
thể muộn nhưng thông thường rõ nét nhất ở khoảng 2 – 4 tuổi.Các biểu hiện mang tính
chất đa dạng, khơng n m trong một khuôn mẫu nhất định.Một trẻ tự kỷ này khơng
hồn tồn giống trẻ tự kỷ khác cả về biểu hiện, mức độ và thể trạng.

Mặc dù các biểu hiện rõ nét nhất ở giai đoạn 2 – 4 tuổi nhưng ngay từ khi sinh
ra các chuyên gia đã ghi nhận một số bất thường có ở trẻ.Các biểu hiện có khác nhau
trong từng giai đoạn phát triển. Cha mẹ nên sớm nhận ra các triệu chứng bất thường ở
trẻ để trẻ được thăm khám và can thiệp kịp thời.
 C

i u hiện ất th

ng hi trẻ 0 – 6 th ng tuổi

- Thiếu cử chỉ trao đổi vui mừng với mẹ.
- Khơng tỏ thái độ thích thú khi được người khác quan tâm chăm sóc.
- Có dấu hiệu né tránh, ngoảnh mặt đi nơi khác khi mẹ ở thế đối diện với trẻ.
- Có ánh mắt nhìn bất thường, vơ cảm.
- Im lặng cả ngày, ít cử động hoặc luôn luôn hoạt động bứt dứt không yên.
- Tư thế bất thường khơng thích hợp khi được mẹ bế: cứng đờ người hoặc mềm nhũn
thể hiện trương lực cơ bất thường.
- Rối loạn giấc ngủ: quấy khóc nhiều, ngủ ít, ngủ không yên giấc.
- Rối loạn ăn uống: hay nôn trớ, khó ăn…
 C

iếu hiện ần quan t

hi trẻ 6 – 12 th ng tuổi
14


- Trẻ khơng thích quan tâm chú ý đến người khác, chơi một mình.
- Khơng phát âm hoặc ít phát âm.
- Cử động lạ thường: đung đưa người, chơi với các ngón tay và bàn tay trước mặt.

- Khi dặt trẻ đứng trẻ thường kiễng gót chân.
- Giơ tay định cầm vật nhưng lại dừng tay lại trong khoảng không.
- Tăng hoạt động hoặc quá ù lì.
- Cách sử dụng hay chơi với các đồ vật bất thường.
 C

i u hiện hi trẻ 16 – 30 th ng tuổi

- Không biết dùng ngón trỏ để chỉ vào đồ vật thể hiện sự quan tâm hoặc muốn xin một
thứ đồ khi 1 tuổi.
- Khơng nói được từ đơn khi được 16 tháng tuổi.
- Khơng nói được từ đơi khi được 2 tuổi.
- Đã nói được nhưng sau đó mất dần ngơn ngữ.
- Nói khơng phù hợp với hồn cảnh.
- Nói một mình, nói nhảm.
- Khơng chấp nhận giao tiếp, khơng kết bạn.
- Không tập trung chú ý.
- Không đáp lại khi gọi tên
- Khơng biết chơi giả vờ
- Có hành vi bất thường: rập khn, tự hủy, khóc la ăn vạ, đánh đạp người khác…
- Không giao tiếp b ng mắt: khơng nhìn vào mắt người đố thoại.
- Cử động cơ thể khơng bình thường. Ví dụ: Lắc lư tồn thân, lắc ngón tay, hay đưa
tay ra trước mắt để nhìn, đi nhón gót.
- Sợ chỗ lạ, người lạ, vật lạ.
- Khơng chịu thay đổi thói quen.
- Q nhạy cảm với một số cảm giác: âm thanh, mùi vị…
- Khơng có khả năng tổng hợp khái quát thông tin nhận được.
- Rối loạn ăn uống, tiêu hóa…[2, tr22-23].
1.2.1.3. Những đặc điểm đặc trưng ở trẻ tự kỷ


15


Trẻ tự kỷ có bề ngồi như bình thường. Các chỉ số phát triển vận động như: lẫy,
ngồi, bò, trườn, đứng, đi, chạy... giống như trẻ bình thường cùng tuổi. Khác với một số
bệnh cơ thể và bệnh tinh thần khác, trẻ bị rối loạn TK có tuổi thọ trung bình như người
bình thường. Đồng thời, theo mơ tả của Kanner, dường như TTK nói chung lại có bề
ngồi khơi ngô tuấn tú. Nhưng hầu hết các mô tả về mặt chức năng tâm lý cho thấy có
vấn đề rõ rệt [12].
 Tuổi h i ph t
Kanner nhấn mạnh triệu chứng TK có thể phát hiện được ngay khi trẻ ra đời
hoặc trong khoảng 30 tháng đầu sau sinh. Những bất thường ở trẻ em trong giai đoạn
đầu đời từ 0 - 6 tháng tuổi cho phép phát hiện sớm: như thiếu những cử chỉ trao đổi
vui mừng với mẹ; khơng tỏ thái độ thích thú, quan tâm khi có người chăm sóc; thái độ
lạnh lùng, lãnh đạm, bình lặng đối với lời nói và khn mặt của người mẹ hoặc người
thân; có dấu hiệu né tránh, ngoảnh mặt đi nơi khác khi người khác ở tư thế đối diện
với bé; lặng im cả ngày, ít cử động, khi thì quá ngoan, khi thì quá phá phách; trương
lực cơ quá cứng hoặc quá mềm; rối loạn giấc ngủ; thiếu phản xạ bú, mút; khơng phát
âm bi bơ; khơng có nụ cười xã hội ở khoảng 4 - 6 tháng tuổi…
Ở vào khoảng 6 tháng tuổi đến một năm, trẻ không có những cử chỉ vui mừng
và thích thú khi có mẹ hay người thân ở gần; các cử chỉ, điệu bộ khơng phù hợp với
tình huống giao tiếp; thái độ lãnh đạm với âm thanh và hình ảnh hoặc những kích thích
từ mơi trường; nhìn ch m ch m như bị hút vào những vật thể quay trịn, nhìn các ngón
tay ve vẩy; khơng quan tâm đến đồ chơi nhưng lại chú tâm đặc biệt vào những vật thể
lạ như khe hở, hạt bụi, lỗ rách; khơng có biểu hiện lo sợ, khóc khi đối diện với người
lạ; khơng phản ứng khi nghe gọi tên…
 Su gi

hất


ng trong t ơng t

x h i

Ở trẻ nhỏ phát triển bình thường, trẻ có hứng thú đặc biệt với mơi trường xã hội
và tương tác xã hội.Khuynh hướng này là nền tảng quan trọng cho sự phát triển các kỹ
năng khác.
Đối với TTK, khn mặt con người ít hoặc khơng gây hứng thú với chúng. Trẻ
có khó khăn trong mối tương tác xã hội, hay nói cách khác, trẻ khó khăn trong việc
hiểu xã hội và hành vi xã hội. Cụ thể là trẻ khó khăn trong việc hiểu hành vi của các
16


bạn mình, khơng thể đọc được các ý định của bạn. Ở những trẻ phát triển bình
thường, điều này khơng cần phải dạy, trẻ có thể tự làm một cách dễ dàng.Với trẻ rối
loạn phổ TK, sự suy ngh của người khác hay ý kiến của người khác có thể rất ít hoặc
khơng có tác dụng đối với trẻ. Trong khi đó trẻ có thể nói và làm chính xác điều gì khi
trẻ muốn.
Trẻ tự kỷ khó chơi và giao tiếp một cách hiệu quả với trẻ em khác.Trẻ không
tham gia các trị chơi bình thường của tuổi trẻ thơ, sự bắt chước khó khăn, thiếu các kỹ
thuật chơi thơng thường. Số đông phụ huynh cho r ng trong năm đầu tiên trẻ rất
ngoan, yên t nh, thích chơi một mình, khơng thích giao tiếp mắt, khơng có dấu hiệu
dang tay khi ai muốn bế bồng, khơng biết chỉ ngón trỏ và nhìn theo hướng chỉ tay của
người khác, khơng sợ người lạ và cũng không thân thiện với người chăm sóc, khơng
biết cười ở tháng thứ 3, khơng biết khóc hay biểu hiện sợ hãi ở tháng thứ 8, không
phản ứng khi được gọi tên, tránh né giao tiếp b ng mắt nhưng lại có thể nhìn chăm chú
vào một điểm bất thường, khả năng gắn bó với người thân rất kém như không bám
theo cha mẹ như trẻ bình thường. Khi người lớn khơng hiểu vấn đề tự kỷ của trẻ, trẻ
càng về lứa tuổi lớn hơn người lớn có thể cho là trẻ hư hỏng, khơng vâng lời, lười
biếng, trong khi thực ra trẻ khơng hiểu tình huống, nhiệm vụ hoặc không đọc được ý

định và cảm xúc của người lớn một cách chính xác. Đây là một trong số rối loạn phổ
biến nhất ở TTK.
 Su gi

hất

ng trong giao tiếp v trò hơi

- Sự hạn chế trong việc hiểu lời nói: Một trong những lý do mà các phụ huynh có
con bị TK đưa trẻ tới bệnh viện khám bệnh là trẻ hầu như khơng có phản ứng khi được
gọi tên, trẻ không quan tâm và làm theo những hướng dẫn của người khác. Các phụ
huynh cảm thấy r ng trẻ hồn tồn khơng hiểu ngơn ngữ của họ cho dù trẻ vẫn có khả
năng nghe bình thường. Ngồi ra tư duy ngơn ngữ của trẻ cũng gặp khó khăn như trẻ
chỉ hiểu ngơn ngữ trực diện, rõ ràng, không hiểu được những từ trừu tượng, cách nói
ẩn dụ, so sánh, ví von, bóng gió… Do đó mà những TTK khơng có khả năng nói dối
và khơng phát hiện ra khi người khác nói dối [3].
- Sự suy giảm trong giao tiếp không lời: Hầu hết những TTK đều có khó khăn
trong ngơn ngữ biểu cảm, đa số trẻ không hiểu và đồng thời cũng không biết thể hiện
17


ra ngồi những hành vi phi ngơn ngữ, điều này thể hiện khá rõ thông qua việc trẻ
không muốn giao tiếp b ng mắt và khơng biết sử dụng ngón trỏ để chỉ các đồ vật. Cụ
thể là khi muốn điều gì, trẻ khơng nhìn vào mặt người khác và khơng sử dụng các tín
hiệu cử chỉ để báo cho người khác biết, mà thường đến kéo tay họ đến chỗ bé cần (đối
với trẻ, bàn tay quan trọng hơn khuôn mặt). Trong giao tiếp, nét mặt và tư thế của trẻ
khơng bình thường, thiểu uyển chuyển trong tư thế, nét mặt vô hồn (vô cảm) và đơn
điệu [2, tr20 - 21].
- Sự yếu kém trong các trò chơi:
Trong hoạt động vui chơi, trẻ 18 tháng tuổi hiểu rất rõ ràng hành động tượng

trưng. Trẻ tưởng tượng, hát, nói chuyện b ng điện thoại đồ chơi.Những cái trẻ tạo ra
khi đó là một thế giới hồn tồn khác, thế giới tưởng tượng, cái luôn tồn tại song song
với thế giới thực.Trong thế giới tưởng tượng đó trẻ là diễn viên. Khi trẻ được 24 tháng
tuổi, trò phát triển cao hơn và thoát ly thực tế hơn: con búp bê trở thành vật sống, trẻ
tưởng tượng con búp bê biết hát. Jon băn khoăn về sự tồn tại của trò chơi siêu thực,
nhưng anh ta khơng biết đó là hiện thực biểu trưng (tưởng tượng), không phải hiện
thực khách quan.
Người tự kỷ không đạt được mức độ phát triển mà ở đó trị chơi tưởng tượng
xuất hiện, nếu có thì cũng rất khó khăn.Họ ln là người q thực tế.Từ 18 -24 tháng,
về mặt tư duy, TTK khám phá hiện thực khách quan ở mức độ thấp. Chúng thường tìm
cảm giác thị giác và thính giác b ng cách gõ liên tục vào trống hoặc mắt kính hoặc lăn
bánh xe trên đồ chơi. Trẻ bình thường cũng làm như vậy nhưng ở độ tuổi nhỏ hơn
nhiều.
Người lớn không bị đánh lừa bởi hình ảnh phi thực tế. Ví dụ: hình ảnh từ
quyển sách khơng có gì giống với hình ảnh của quyển sách. Và hình ảnh quyển sách
cũng khơng có gì giống với âm thanh khi phát âm từ quyển sách . Chúng ta hiểu xe
đồ chơi là ký hiệu của xe thật, búp bê là vật tượng trưng của người thật, chúng ta luôn
hiểu quan hệ giữa cái tượng trưng và cái thật. A.M. Leslie,1983; U.Frith, 1989 (nhà
tâm lý học Anh) cho răng người tự kỷ có mức độ phát triển trí tuệ cao có thể hiểu: hiện
thực khách quan được diễn tả b ng ngôn ngữ (ngôn ngữ là ký hiệu của hiện thực
khách quan), nhưng họ rất khó khăn trong việc biết: ngôn ngữ không thể hiểu kiểu
18


nhìn chi tiết đồ vật, ngơn ngữ là thế giới khơng thật, thế giới đó được giải mã b ng xảo
thuật tìm ý ngh a từng chi tiết trong hệ thống ký hiệu. Để l nh hội năng lực tưởng
tượng nhất thiết phải vượt qua giới hạn tri giác chi tiết đồ vật.Dạng tư duy của người
tự kỷ bị giới hạn bởi tri giác chi tiết từng đồ vật.Sự khiếm khuyết về tưởng tượng thật
sự có ảnh hưởng lớn.Người tự kỷ là người quá thực trong thế giới những người siêu
thực [5].

 Ng n ngữ tiếng vọng v

h

ph t tri n ng n ngữ

Ngơn ngữ là một q trình trừu tượng và phức tạp. Phân nửa TTK có thể nói
được nhưng chúng sử dụng chức năng của não phải trong việc thu thập thơng tin thính
giác. Ngơn ngữ tiếng vọng là ngôn ngữ được điều khiển bởi bán cầu não phải, nó thực
sự khơng được phân tích từ góc độ ý ngh a, nó được lưu giữ trong não và là kết quả
của sự tái tạo.Hiện tượng ngôn ngữ tiếng vọng khơng có gì bất thường, trẻ bình
thường khi học nói cũng làm như vậy.Trẻ nhắc lại nguyên câu hoặc một đoạn đàm
thoại mà khơng có sự hiểu biết thực sự và không dùng vào việc tương tác xã hội với
người khác.Đôi khi chúng ta học ngoại ngữ ở nước dùng phố biến thứ tiếng đó mà
khơng có người dạy cho chúng ta, chúng ta có thể dùng phương pháp nhại âm như
ngôn ngữ tiếng vọng. Chúng ta dùng ngôn ngữ tiếng vọng để duy trì một ý ngh a đối
với chúng ta, chúng ta khơng dùng nó theo đúng ngh a mà những người khác dùng.
Ngôn ngữ này được sử dụng như một đối sách nếu chúng ta muốn đàm thoại nhưng lại
không biết làm như thế nào. Nếu hiểu về ngơn ngữ tiếng vọng như thế thì chúng ta sẽ
thấy sự đánh giá về TTK theo cách cũ là khơng chính xác.
Trẻ bình thường cũng máy móc nhắc lại từ hoặc câu nh m gây cảm giác đang ở
bên cạnh người thân bố mẹ và con . Đôi khi sự nhắc lại một câu nói giúp trẻ điều
khiển hành vi của mình. Từ giây phút trẻ bình thường hiểu được cách sử dụng ngơn
ngữ thì trẻ sử dụng một cách sáng tạo theo cách riêng của trẻ. Ở TTK ngôn ngư riêng
xuất hiện rất trễ so với trẻ bình thường. Trong thời gian đó những đặc điểm cấu âm
trong ngôn ngữ của trẻ (ngôn ngữ tiếng vọng) và trí nhớ máy móc từng chi tiết của trẻ
vẫn tiếp tục phát triển.Sau một thời gian dài TTK có thể nói được câu dài và liên kết
các câu hồn chỉnh về mặt cấu âm (âm thanh) như trẻ bình thường.

19



Tóm lại, TTK phát âm máy móc các từ mà không chú ý đến ngh a của từ.Việc
sử dụng từ ngữ của TTK vẫn n m trong quy luật phát triển ngơn ngữ bình thường,
nhưng TTK khơng vượt xa hơn mức độ ngơn ngữ tiếng vọng [5].
Trẻ có biểu hiện sự mất ngôn ngữ hay chậm trễ trong phát triển ngôn ngữ là dấu
hiệu dễ nhận thấy nhất đối với các phụ huynh có con bị TK. Ngay cả khi trẻ có ngơn
ngữ thì ngơn ngữ đó cũng có dấu hiệu bất thường: giọng nói đều đều, khơng biết biểu
cảm qua giọng nói; khơng biết nói thầm, nói tiếng gió; thích độc thoại hoặc khơng giữ
vững cuộc đối thoại; khó khăn trong việc dùng đại từ nhân xưng; nhiều khi nói khơng
liên quan đến tình huống giao tiếp, đến mơi trường xung quanh; lời nói tự phát, khơng
có sự khởi đầu khi giao tiếp; tiếng nói có khuynh hướng lặp đi lặp lại các từ, đoạn,
câu.
Ngôn ngữ thường lặp lại, bắt chước và khơng có ý ngh a,ví dụ: cứ lặp đi lặp lại
các từ i, i, i… , u, ê, u, ê… hoặc lặp lại câu hỏi của người khác.
Khả năng trừu tượng, tưởng tượng là rất kém ở TTK (trẻ thường khơng hiểu lời
nói bong gió, ví von, khơng biết chơi các trị chơi giả bộ như pha trà mời khách…)
Có một số ít TTK có khả năng đặc biệt, ví dụ: Trẻ đọc khơng sót một chữ nào
trong những cuốn truyện hoặc bộ sách thiều nhi, tính tốn hay nhớ những con số đặc
biệt, có thể nhắc lại chính xác các ngày sinh, biển số xe, số điện thoại trong một danh
sách nào đó…[2, tr21-22].
 Ch

năng v n đ ng

trẻ t

Ngày nay những chuyên gia dạy TTK rất quan tâm đến giác quan của trẻ khi
xem xét chức năng vận động ở trẻ.Phần lớn TTK có những khó khăn trong việc cảm
nhận giác quan, trẻ có thể thiếu nhạy cảm hay quá nhạy cảm đối với một giác quan hay

nhiều giác quan.So với trẻ bình thường, ngư ng cảm giác của trẻ có thể là quá cao hay
q thấp khiến cho trẻ khơng thể tri giác chính xác sự vật, hiện tượng xung quanh hoặc
tri giác quá khác thường so với người bình thường. Theo những mơ tả của nhiều tác
giả nghiên cứu TTK thì sự rối loạn này xảy ra trên tất cả các cơ quan cảm nhận, nhưng
đối với từng cá nhân TTK có những bất thường ở cơ quan cảm nhận khác nhau hoặc
tại một thời điểm khác nhau sẽ gặp bất thường ở một cơ quan cụ thể [7]. Dưới đây là
những biểu hiện liên quan tới cảm nhận giác quan thường thấy ở trẻ:
20


- Rất thờ ơ hoặc phản ứng mạnh mẽ với các kích thích: Trẻ khơng thích vuốt ve
hoặc bị sờ; phản ứng mạnh mẽ đối với những âm thanh hặc sự vật va chạm khơng
mong muốn; khơng bình t nh sau một vận động, rất sợ bị bẩn như khi dính hồ, cát,
đất…; thể hiện bất thường khi chạm vào các đồ chơi, mặt phẳng hoặc vải vóc…; cảm
nhận đau hoặc nhiệt độ kém.
- Chức năng cảm giác/ vận động: Trẻ thích sờ hơn là bị sờ; rất thích quay trịn và
lăn trịn mà khơng bị chóng mặt hoặc ngược lại, lẩn tránh quay trịn vì dễ bị chóng
mặt; khơng nhận thức được về sự an toàn nên gặp nhiều rủi ro khi chơi; lẩn tránh các
dụng cụ chơi ngoài san hoặc các đồ chơi chuyển động; lắc cơ thể mà khơng cảm nhận
được; chuyển động quay trịn thường xun trong ngày…
- Cảm nhận âm thanh (thính giác): Trẻ qua nhạy cảm với tiếng ồn; khơng nghe
thấy gì; thích làm âm thanh to lên nhưng lại bịt tay vào hai tai khi có âm thanh với
cường độ lớn; có biểu hiện như bị chìm trong qn lãng ở mơi trường quá ồn ào;
không thể làm việc trong môi trường ồn ào.
- Cảm nhận mùi vị bất thường: Trẻ thường xuyên ngửi đồ vật khơng phải là thức
ăn; thường tìm kiếm mùi và vị nào đó; rất khó nhận dạng đồ vật chỉ b ng sờ mà
thường cho đồ vật vào mồm.
- Tư thế và kiểu đi bất thường: Đầu lệch sang một bên; hai bên vai không cao
b ng nhau; dáng đi vai thõng xuống; đi khập khiễng hay đi kiễng chân hoặc đi b ng
gót chân; chân vịng kiềng đi quặp vào hoặc khuỳnh ra ngoài…

- Chân tay mềm yếu: Trẻ khó khăn đứng dậy khi đang ngồi ở sàn hoặc trên ghế;
khó khăn trong việc lên xuống cầu thang; dễ mệt mỏi, kém chịu đựng và không thể bê
vật nặng.
- Động tắc vụng về, phối hợp kém: Trẻ cảm nhận về không gian kém; thăng b ng
kém dễ ngã, chạy hay va vào bàn ghế; vụng về trong các trị chơi như ném bóng, bắt
bóng, đá bóng; phát triển khả năng vận động kém so với trẻ bình thường; khó tiếp
nhận các hoạt động hoặc trị chơi vận động mới…
- Giảm tập trung chú ý và tăng động quá mức: trẻ không đứng yên thường xuyên
mất phương hướng; lúc nào cũng thờ ơ đơi khi nhìn ch m ch m một cách vô hồn; mắt

21


nhìn lơ đễnh khơng tập trung và thường lần tránh giao tiếp b n mắt; khơng chú ý khi
có người đi vào phòng; thường xuyên chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác…
- Vận động tinh: Trẻ gặp khó khăn khi thao tác với vật nhỏ; vụng về trong sử
dụng kéo, tô màu và viết; tay bị run khi vận động tinh như cầm bút, màu tơ…; mắt
khơng nhìn theo tay hoặc lơ đễnh khi viết hoặc vẽ nên thường gặp khó khăn khi tơ nét
nhỏ; củ động ngón tay vụng về thường sử dụng cả cánh tay và bàn tay.
- Cảm nhận thi giác: Trẻ khiếm khuyết thị lực; hiểu khái niệm không gian (to
nhỏ, dài ngắn, nặng nhẹ…) và khái niệm phương hướng lên xuống, trái phải, trong
ngồi) một cách khó khăn; khó khăn trong các trị chơi xếp ơ chữ hoặc xếp hình với
nhau; khó khăn khi nhận biết hình dạng màu sắc, nhận dạng đồ vật trong bối cảnh, thể
hiện khơng gian; khó chịu với ánh sáng chói và khó khăn trong điều khiển hướng nhìn
của mắt.
Thiếu nhạy cảm hoặc quá nhạy về mặt cảm giác diễn ra ở tất cả các trẻ tự kỷ
với những biểu hiện sinh động và ảnh hưởng không nhỏ tới các mặt nhận thức, xúc
cảm, hành vi, hoạt động… của trẻ. Do đó mà trị liệu cảm giác (sensory therapy) cho
TTK rất được quan tâm hiện nay.
 Nh n th


trẻ t

Trước đây Kanner cho r ng, trẻ rối loạn TK có tiềm năng nhận thức tốt, ngày
nay người ta thấy không phải như vậy. Khoảng 75 – 80% TTK có chậm phát triển tâm
thần, trong đó khoảng 30% mức độ nhẹ đến trung bình và khoảng 45% mức độ nặng
đến rất nặng. Về tổng quan TTK cịn có một số đặc điểm nhận thức như: Khả năng
nhận thức thông qua thị giác tốt hơn thính giác, nhận thức trực quan tốt hơn nhận thức
trừu tượng, trẻ tốt trong tiếp nhận những kiến thức tự nhiên hơn các kiến thức xã hội,
ngồi ra trẻ có khả năng tư duy ngơn ngữ bị tổn thương, khó khăn trong việc hiểu
ngơn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ, hạn chế trong việc hiểu và biểu hiện tình cảm. Trái
lại có một số TTK có khả năng trí tuệ bình thường rất giỏi trong nhận thức các môn
khoa học tự nhiên và nghệ thuật: làm toán, hội họa, âm nhạc, điều khiển các thiết bị
điện tử,…

22


Trẻ có thiếu sót đáng kể trong các lập luận trừu tượng, những thông tin khái
niệm miệng, các kỹ năng tổng hợp thành một hệ thống khơng có khả năng hình dung
ra cái cây từ những cái lá . Trong khi đó, trẻ có khả năng học vẹt, nhận thức được
từng phần riêng lẻ, cụ thể mà khơng địi hỏi phải suy luận tổng thể.
Một đặc điểm khá đặc biệt là trẻ rối loạn TK có khả năng đặc biệt ở một số l nh
vực riêng lẻ. Thí dụ trẻ có thể đọc những chữ và những con số phức tạp, tuy hiểu biết
ý ngh a về chúng rất kém. Trẻ có thể học thuộc lịng các danh sách hoặc các thơng tin
khơng quan trọng, có thể tính tốn lịch ngày tháng, có thể phát triển kỹ năng khơng
gian – thị giác như vẽ, hoặc phát triển các kỹ năng âm nhạc như phân biệt độ cao, thấp
của các nốt nhạc và có thể chơi các mẩu nhạc sau khi chỉ nghe một lần. Đó là sự thiếu
cân đối trong học vấn [6].
Theo nghiên cứu của TS. Ngô Xuân Điệp về nhận thức của TTK tại thành phố

Hồ Chí Minh tác giả rút ra một số kết luận quan trọng là các mặt nhận thức sự vật,
nhận thức hiện tượng và khả năng gọi tên cũng như nhận thức chung ở TTK hạn chế
nhiều so với trẻ bình thường cùng lứa tuổi.
 C



trẻ t

Điều phổ biến ở TTK là khó di chuyển cảm xúc và biểu lộ cảm xúc không phù
hợp với tình huống xã hội. Một số trẻ biểu hiện thay đổi khí sắc một cách đột ngột và
cười, khóc, hoặc cười một mình khơng có lý do rõ ràng. Trẻ không tự kiềm chế được
bản thân và hay nghiệm trọng hóa sự việc.Trẻ lớn hơn có thể biểu hiện lo âu hoặc trầm
cảm.
Có biểu hiện xúc cảm khác biệt ở nhóm trẻ tăng động, linh hoạt với nhóm trẻ
thiếu tự tin, dụt dè: Với nhóm trẻ tăng động, linh hoạt nói q nhiều (có thể là những
từ vơ ngh a) hoặc gây hấn cơ thể để gây phiền hay thu hút người khác, đặc biệt dễ nổi
cáu và thể hiện hành vi hung tính. Cịn nhóm trẻ thiểu tự tin, dụt dè lại thích chơi một
mình tách biệt với người khác, e ngại khi gặp tình huống mới, khơng biết cách bày tỏ
cảm xúc, khơng biết đùa, khó kết bạn.
Thực tế quan sát cho thấy cảm xúc của TTK khó nắm bắt được ý ngh a biểu lộ
của nó. Có sự chuyển dịch và đan xen xúc cảm bất thường.Ở trẻ tự kỷ ta vẫn thấy
được hai mặt của phản ánh xúc cảm là xúc động và tâm trạng. Tuy nhiên ta thấy sự
23


khác thường ở TTK thì mặt xúc động diễn ra trong một thời gian nhanh và kém về
chất hơn trẻ bình thường do cách biểu lộ cảm xúc đơn điệu.
 Hành vi ất th


ng

- Hành vi định hình: Theo Kanner, hành vi định hình là biểu hiện điển hình của
TTK. Quan sát lâm sàng cho thấy TTK có hững hành vi rập khn, lặp đi lặp lại: trẻ
thích đi đi lại lại trong phịng, thích xếp các đồ vật thành hàng thẳng; vặn, xoắn các
ngón tay và bàn tay; thích chạy vịng vịng và quay vịng vịng; thích chơi các đồ chơi
phát ra tiếng động; thích bật tắt các nút điện hay điện tử… Những trẻ khác nhau, sở
thích về các hành vi định hình khác nhau.
- Khơng thích sự thay đổi:Hầu như TTK muốn tất cả mọi điều phải quen thuộc,
gần gũi, trẻ rất ghét sự thay đổi, xáo trộn: từ những đồ dùng cá nhân, đồ dùng học tập
cho đến nơi chốn sinh hoạt hàng ngày. Đối với TTK, sự không quen thuộc đồng ngh a
với sự thiếu an tồn, trẻ sẽ cảm thấy bất an khi có một người lạ, đồ vật lạ hay đến một
nơi xa lạ. Do đó, việc báo trước cho trẻ chuẩn bị tư tưởng để đón nhận những điều mới
lạ là một việc hết sức quan trọng.
- Những gắn bó bất thường:TTK ở một giai đoạn nào đó có những gắn bó với đồ
vật theo cách khơng bình thường như: hàng ngày chỉ sưu tầm các tờ báo, vỏ chai, đồ
hộp, tờ lịch, sợi dây, cọng cỏ, bao nilon. TTK thích những đồ vật trong sinh hoạt gia
đình như: chén, bát, xoong, chảo, d a nhưng hồn tồn khơng thích đồ chơi bình
thường.
- Hành vi gây phiền tối nơi cơng cộng:Thường TTK ít quan tâm đến các chuẩn
mực xã hội, muốn làm theo sở thích cá nhân nên rất dễ có những hành vi trái ngược
với sự mong đợi của người khác như: la khóc khi người lớn khơng đáp ứng sở thích
của trẻ, chụp nhanh những đồng tiền từ tay nhân viên bán hàng hay một món đồ chơi
từ tay đứa trẻ bên cạnh, tự lấy đồ ở giỏ sách của người khác mà không mắc c ,
ngượng ngùng. Do TTK có những hành vi khác thường gây phiền tối cho những
người xung quanh nên các bậc phụ huynh rất ngại khi cho con đi đến chỗ đông người.
Nhưng theo các chuyên gia nghiên cứu về TTK, dù trẻ có làm vậy đi nữa, phụ huynh
vẫn nên cho trẻ đến nơi cơng cộng, điều này giúp trẻ sống hịa nhập với mọi người và
lâu dài sẽ có lợi cho sự phát triển của trẻ.
24



- La hét, giận dữ:TTK có những sở thích, thói quen kỳ lạ nên trẻ thường ứng xử
không đúng với những chuẩn mực xã hội thông thường. Khi người lớn thấy vậy và
ngăn chặn hành vi bất thường đó sẽ làm trẻ rất khó chịu và có những hành vi nổi cáu,
gây hấn. Đồng thời do TTK gặp khó khăn về ngôn ngữ, không biểu đạt được những ý
ngh của mình ra ngồi nên người lớn khơng hiểu trẻ và khơng hiểu nhu cầu của trẻ.
Vì vậy, sự khó chịu của trẻ xuất hiện khá thường xuyên so với trẻ bình thường.
- Những hành vi liên quan khác:Những cá nhân bị TK cũng có thể phát triển
những triệu chứng đa dạng khác nhau, những rối loạn tinh thần xuất hiện bao gồm rối
loạn tăng động kém chú ý, (chứng) loạn tâm thần, sự buồn chán, rối loạn ám ảnh
cư ng bức và những rối loạn lo âu khác. Những cá nhân bị TK cũng có thể có biểu
hiện những hành vi phá phách. Trẻ có thể tấn cơng lại bản thân hay những người khác.
 Ho t đ ng v h ng thú h n hế rõ rệt
Ở thiếu sót này, cũng có thể nói là trẻ rối loạn tự kỷ có yếu kém về suy ngh và
ứng xử linh hoạt tùy theo tình huống:
Trẻ rối loạn TK thường khó chịu đựng nổi sự thay đổi những thói quen thường
ngày.Thí dụ, nếu ta cố gắng làm thay đổi trình tự thơng thường của một số hoạt động
của trẻ, trẻ có thể xuất hiện sự đau buồn thê thảm. Thay đổi một thói quen hay mơi
trường có thể gây ra sự chống đối quyết liệt hoặc lúng túng, rối loạn.
Trẻ không chơi với đồ chơi theo cách thức thông thường mà thường xoay tròn,
hoặc đập đập, vỗ vỗ vào đồ vật. Trẻ cũng thích xem những phần chuyển động của đồ
chơi hay máy móc trong thời gian rất lâu và với sự hứng thú rất tăng.Thí dụ, trẻ rất
thích những đồ vật xoay tròn như xem rất lâu cái quạt trần quay.
Trẻ tỏ ra hứng thú với hành động lặp đi lặp lại như thu lượm những sợi dây,
nhớ những con số, nhắc đi nhắc lại những từ, những câu nhất định. Đặc biệt, trẻ có thể
bắt chước điều chúng đã quan sát để chơi như chơi làm người dơi hay siêu nhân,
nhưng không thể cùng chơi tưởng tượng với người bạn khác.
Trẻ có khuynh hướng gắn bó với một số chất liệu đồ vật cứng hơn là vật
mềm.Trẻ thích một loại đồ vật nào đó về hình thức hơn là sự đặc biệt hoặc tầm quan

trọng của đồ vật và ln giữ chúng bên mình. Trẻ có các vận động kỳ dị, rập khuôn

25


×