Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Khảo sát các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện mắt biếc của nguyễn nhật ánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.94 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------

DƯƠNG THỊ NGỌC VY

TĨM TẮT
KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

KHẢO SÁT CÁC PHƯƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ
XƯNG HÔ TRONG TRUYỆN MẮT BIẾC CỦA
NGUYỄN NHẬT ÁNH

NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Đà Nẵng, tháng 7/ 2020


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------

TÓM TẮT
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

KHẢO SÁT CÁC PHƯƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ
XƯNG HÔ TRONG TRUYỆN MẮT BIẾC CỦA
NGUYỄN NHẬT ÁNH
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC



Người hướng dẫn:
GVC. PGS.TS TRẦN VĂN SÁNG

Người thực hiện:
DƯƠNG THỊ NGỌC VY
(Khoá 2016 – 2020)

Đà Nẵng, tháng 7/ 2020


1

Tên đề tài: KHẢO SÁT CÁC PHƯƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ TRONG
TRUYỆN MẮT BIẾC CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
Người thực hiện: DƯƠNG THỊ NGỌC VY
Người hướng dẫn: PGS.TS TRẦN VĂN SÁNG
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người. Thông qua giao tiếp, cá nhân gia
nhập vào các mối quan hệ xã hội và tiếp thu các kiến thức văn hoá xã hội, lịch sử
đồng thời góp phần vào sự phát triển chung xã hội.
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, từ xưng hô là một bộ phận hợp thành quan
trọng, có ý nghĩa xác định vai giao tiếp và góp phần tạo nên hiệu quả giao tiếp.
Nguyễn Nhật Ánh là một cây bút có đóng góp quan trọng trong nền văn học
Việt Nam. Ơng được nhiều người tơn vinh là “hồng tử bé trong thế giới tuổi thơ”.
Trong rất nhiều tác phẩm của ông, “Mắt biếc” được bầu chọn là tác phẩm hay nhất
của Nguyễn Nhật Ánh. Có một điều đáng nói, người ta chỉ quan tâm đến nội dung tư
tưởng trong tác phẩm của nhà văn nhiều hơn là ngôn ngữ trong tác phẩm “Mắt biếc”
Nguyễn Nhật Ánh. Trong mỗi tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh nói chung và truyện

dài “Mắt biếc” nói riêng, ơng sử dụng rất nhiều các đại từ nhân xưng và lớp từ xưng
hô, đặc biệt là cách dùng các phương tiện dùng để xưng hô mang dấu ấn văn hóa Nam
Bộ, đồng thời cũng mang rất nhiều dụng ý nghệ thuật tạo nên phong cách riêng đậm
chất Nguyễn Nhật Ánh. Vì vậy, nghiên cứu ngơn ngữ trong tác phẩm Nguyễn Nguyễn
Nhật Ánh là một việc làm quan trọng và cần thiết.
Với những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Khảo sát các phương
tiện dùng để xưng hô trong truyện Mắt biếc của Nguyễn Nhật Ánh”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong các công trình, luận văn nghiên cứu về từ xưng hơ trong tiếng Việt, có
rất nhiều bài viết đã nghiên cứu sâu sắc các tiêu chí và phân loại phương tiện dùng để
xưng hô trong giao tiếp và ứng xử người Việt. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các phương


2

tiện dùng để xưng hô trong một tác phẩm cụ thể chưa được đề cập nhiều, đặc biệt là
hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện và hệ thống các
phương tiện dùng để xưng hô trong các tác phẩm để làm rõ văn hóa xưng hơ vùng
miền của tác giả đó. “Mắt biếc” của Nguyễn Nhật Ánh chưa được tìm hiểu nhiều
trong các cơng trình nghiên cứu chuyên sâu của các tác giả về phương diện ngôn ngữ
học, đặc biệt là trong từ xưng hô. Chính vì vậy, để kế thừa các thành quả những cơng
trình của các nhà nghiên cứu trước đây, chúng tơi hi vọng Khóa luận này sẽ có hướng
đi mới trong việc tìm hiểu các phương tiện dùng để xưng hơ của người Việt nói chung
và các tác phẩm văn học nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lý thuyết chủ yếu phục vụ cho việc triển khai đề tài khóa luận:
- Xác lập các tiêu chí để xác định và phân loại các phương tiện dùng để xưng hơ trong
“Mắt biếc” của Nguyễn Nhật Ánh.
- Phân tích, miêu tả đặc điểm của các phương tiện dùng để xưng hơ trong “Mắt biếc”
của Nguyễn Nhật Ánh.

- Phân tích vai trò, giá trị của các phương tiện dùng để xưng hơ trong truyện “Mắt
biếc” của Nguyễn Nhật Ánh từ góc độ ngữ dụng học và văn hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Các phương tiện dùng để xưng hô trong
truyện Mắt biếc của Nguyễn Nhật Ánh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu các phương tiện dùng để xưng hô: đại từ xưng hô, danh từ thân
tộc dùng để xưng hô, tên riêng, xưng hô bằng từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp và bằng
danh ngữ.
- Khảo sát trong truyện “Mắt biếc” của Nguyễn Nhật Ánh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Thủ pháp khảo sát, thống kê, phân
loại, thủ pháp phân tích-tổng hợp, phương pháp miêu tả ngôn ngữ học.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài


3

-Về lý luận: Củng cố và hệ thống hóa được các vấn đề cơ bản của lý thuyết xưng
hô của ngơn ngữ học, góp phần làm rõ thêm các khái niệm quan yếu đối với việc
nghiên cứu chiếu vật xưng hô trong tác phẩm hư cấu; xác lập được một số cơ sở và
thao tác để xác định các phương tiện xưng hô được sử dụng trong hoạt động giao tiếp;
gợi mở và bước đầu vận dụng hướng nghiên cứu liên ngành ngơn ngữ - văn hóa –
văn học vào nghiên cứu phương tiện dùng để xưng hô của Việt ngữ, đặc biệt là trong
các tác phẩm văn học.
-Về thực tiễn: Cung cấp thêm tư liệu và kết quả phân tích mới cho việc nghiên
cứu và giảng dạy về các phương tiện dùng để xưng hô trong “Mắt biếc” của Nguyễn
Nhật Ánh nói riêng và trong giao tiếp tiếng Việt nói chung; cung cấp thêm cơ sở và
phương tiện ngơn ngữ cho việc khám phá các giá trị và nét độc đáo trong truyện

Nguyễn Nhật Ánh. Từ đó giúp ta thấy được giá trị truyền thống và văn hóa ứng xử,
lối tư duy của người Nam Bộ nói riêng và người Việt nói chung qua cách xưng hơ.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của Luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận chung
Chương 2: Khảo sát các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện “Mắt biếc”
của Nguyễn Nhật Ánh
Chương 3: Từ xưng hô và cách xưng hô trong truyện “Mắt biếc” của Nguyễn
Nhật Ánh nhìn từ đặc điểm dụng học – văn hóa


4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Lý thuyết về chiếu vật và chỉ xuất
1.1.1. Vật quy chiếu (Referent)
Khái nệm về “vật quy chiếu” có cơ sở từ sự phân biệt rạch ròi của G.Frege
(1892) về nghĩa của từ và cái sự vật mà từ ấy gọi tên. Ở Việt Nam, thuật ngữ này
được Cao Xuan Hạo dịch là “Sở chỉ” (vật quy chiếu): “Trong câu nói các từ ngữ mới
có sở chỉ (referent), tức là dùng để trực tiếp chỉ một đối tượng cụ thể hay những tập
hợp những đối tượng có giới hạn cụ thể” [19, tr.54].
1.1.2. Quy chiếu (Reference)
Quy chiếu là vấn đề để tạo ra và hiểu những diễn ngơn. Có những câu ln
ln hiểu đúng bởi vì nó ln ln được quy chiếu với các sự vật, hiện tượng (Ví dụ:
nước sơi ở 100 C). Nhưng lại có những câu gắn liền với ngữ cảnh mới có thể xác định
được tính đúng sai.
1.1.3. Chỉ xuất (Deixis)
1.1.3.1. Khái niệm
Theo Đỗ Hữu Châu, khái niệm chỉ xuất được hiểu: “là phương thức chiếu vật

bằng ngôn ngữ dựa trên hành động chỉ trỏ. Quy tắc điều khiển chỉ trỏ là: sự vật được
chỉ trỏ phải ở gần (trong tầm với người chỉ và trong tầm với người nhìn lẫn người
được chỉ) đối với một vị trí được lấy làm mốc” [10, tr.72].
1.1.3.2. Ba phạm trù định vị: ngôi, không gian và thời gian
Đầu tiên là về phạm trù ngôi. Ngôi chỉ ra vai của các nhân vật giao tiếp trong
hành động ngôn ngữ cụ thể. Trong tiếng Việt, có 3 ngơi.
Thứ hai là về phạm trù khơng gian. Định vị khơng gian phải xác định điểm
gốc. Người nói đứng ở đâu thì đó là gốc. Từ điểm gốc này, những vật, người được
nói tới trong giao tiếp mới được xác định là xa- gần bằng “kia”, “này”, “đó” hoặc
những đại từ chỉ định khác.
Tiếp theo là phạm trù thời gian. Cũng như không gian, định vị thời gian cũng
cần tới việc xác định điểm gốc. Gốc là thời điểm người nói đang nói. Từ đó mà xác
định là “quá khứ” hay “tương lai”.


5

Như vậy, trong ba phạm trù định vị trên, phạm trù ngơi có liên quan chặt chẽ
với vấn đề xưng hơ.
1.1.4. Người nói - người nghe
Nói về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thi ca, nhà nghiên cứu R.Jakobson đã
chỉ ra 6 chức năng của ngôn ngữ trong một mơ hình nổi tiếng bao gồm: người phát
=>bối cảnh, thơng điệp, tiếp xúc, mã => người nhận.
Trong mơ hình này ông đã chỉ ra 6 nhân tố cấu thành của mọi sự kiện ngôn ngữ,
mọi hành động giao tiếp bằng ngơn ngữ. Ta thấy người phát (người nói) và người nhận
(người nghe) là nhân tố khởi đầu và kết thúc của một hành động giao tiếp.
1.2. Phạm trù xưng hô
1.2.1. Khái niệm về xưng hô
Khái niệm phạm trù “xưng hô” cũng được hiểu và lý giải theo nhiều cách khác
nhau.

Theo Bùi Minh Yến: ”Khái niệm xưng hô được ý thức như là một hành vi
ngơn ngữ có chức năng xác lập vị thế xã hội của những người tham gia giao tiếp và
tương quan tâm thế giữa họ với nhau trong quá trình giao tiếp. Khi thực hiện chức
năng này, hành vi ngôn ngữ xưng hô đồng thời đảm nhiệm vụ khởi sự tương tác ngôn
ngữ cho cuộc thoại, điều chỉnh cuộc thoại theo đích đã định, bảo đảm hiệu lực hành
vi” [33, tr.17].
Đồng tình với quan điểm của Đỗ Hữu Châu, Phạm Ngọc Thưởng đã cắt nghĩa
và xác định vai trò của từng yếu tố như sau:
-“Xưng” là hành động người nói dùng một biểu thức ngơn ngữ để đưa mình vào trong
lời nói, để người nghe biết rằng mình đang nói và mình chịu trách nhiệm về lời nói
của mình. Đó là hành động tự quy chiếu của người nói (ngơi 1). [31, tr.12]
-“Hơ” là hành động người nói dùng một biểu thức ngơn ngữ để đưa người nghe vào
trong lời nói (ngơi 2) [31, tr.12]
Tóm lại, xưng hơ là một hành vi ngơn ngữ mà ở đó các nhân vật giao tiếp
dùng biểu thức quy chiếu để đưa mình và người đối thoại vào lời nói. Hay nói cách
khác, trong hoạt động giao tiếp, các vai giao tiếp phải trực tiếp giao thiệp với nhau
bằng lời, trong đó các phương tiện xưng hơ sẽ được sử dụng.


6

1.2.2. Các phương tiện dùng để xưng hô
1.2.2.1. Danh từ thân tộc
Thân tộc là danh từ chỉ những giá trị có quan hệ huyết thống hoặc có quan hệ
hơn nhân với bản thân mình. Từ xưng hơ thân tộc là những từ dùng để xưng hơ giữa
những người có quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ huyết thống với nhau trong giao tiếp
ngôn ngữ”. [17, tr.139].
Từ xưng hô thân tộc ngồi được sử dụng trong phạm vi gia đình thì cịn đươc
sử dụng trong quan hệ xóm giềng ở nơng thôn cũng như quan hệ hàng phố ở thành
thị. người ta lựa chon cách xưng hô bằng từ ngữ xưng hô thân tộc để giao tiếp với

nhau, làm nổi bật tính chất “đại gia đình” trong cộng đồng, điều này là một trong
những đặc điểm của văn hóa người Việt.
1.2.2.2. Danh từ chỉ tên riêng
Trong hầu hết các tài liệu về ngữ pháp tiếng Việt, tên riêng tiếng Việt được
xếp vào cùng nhóm với từ loại danh từ và được gọi là danh từ riêng (danh từ chỉ tên
riêng). Đến nay, quan điểm của nhiều tác giả về nhóm danh từ này vẫn chưa được
thống nhất.
Việc dùng tên riêng để xưng hô khá phổ biến trong giao tiếp của người Việt,
nó phù thuộc vào nhiều yếu tố như: mối quan hệ giữa các cá nhân, hồn cảnh giao
tiếp... Xưng hơ bằng tên riêng giúp tạo sự thân mật và đạt hiệu quả giao tiếp cao.
1.2.2.3. Đại từ nhân xưng
Mỗi nhà nghiên cứu ngơn ngữ đều có những quan niệm riêng mình về đại từ
nhân xưng, chúng tơi xin điểm qua một số quan niệm về khái niệm này của các nhà
ngôn ngữ học: Theo Diệp Quang Ban: “Đại từ nhân xưng là những từ dùng để chia
ra người hay vật tham gia quá trình giao tiếp”[2, tr.25].
Theo Phạm Ngọc Thưởng thì “những đại từ nào chỉ rõ vai nhân vật tham gia
trực tiếp vào hành vi xưng hô mới được coi là những đại từ xưng hô thực thụ”.
[29,tr.45].
Tuy các nhà ngơn ngơn ngữ học có những khái niệm khác nhau về đại từ nhân
xưng những phần lớn họ đều đồng ý cách phân chia nó làm ba ngơi (Ngơi I, ngơi II,
ngơi III) với hai chỉ số (Số ít, số nhiều).


7

1.2.2.4. Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ
Trước tiên ta cần hiểu rằng: Từ chỉ nghề nghiệp là những từ chỉ công việc được
coi là nguồn sống mà cá nhân theo đuổi. Chẳng hạn: Kĩ sư, giáo viên, bác sĩ,...
Từ chỉ chức vụ là những từ chỉ công việc mà người ta đảm nhận theo quy định
xã hội: Bộ trưởng, hiệu trưởng, giám đốc,...

Từ chỉ chức danh là những từ chỉ những danh hiệu dùng để phân biệt đẳng cấp
của các cán bộ, công chức hay một trong một tổ chức nào đó như: Giáo sư, giảng
viên, viện sĩ,...
Từ xưng hô chỉ chức vụ - nghề nghiệp được sử dụng xưng hơ ngồi xã hội và
khơng dùng để giao tiếp những người trong gia đình. Bởi khi sử dụng những danh từ
chỉ chức vụ, nghề nghiệp thường mang sắc thái trang trọng, lịch thiệp.
1.2.2.5. Kiểu loại xưng hơ khác
Ngồi các nhóm chính, trong tiếng Việt cịn sử dụng một số kiểu loại xưng hô
khác lâm thời làm phương tiện xưng hơ. Tính lâm thời thể hiện ở nhóm này khá rõ
nét, nếu tách các yếu tố này khỏi ngôn cảnh thì ta khó xác định được vai trị của yếu
tố đó (nhất là đối với các cụm từ lâm thời làm phương tiện xưng hơ).
Ví dụ:
- Một số động từ, tính từ chuyển hóa như: cưng, nhỏ, bé, mập, móm, sứt,
bồi,...
- Cụm từ (chủ yếu tồn tại trong cách “hô” và trong ngữ cảnh cụ thể, ít lặp lại
trong một cuộc thoại): đồ quỷ tha ma bắt, đồ điên, người yêu, con cún nhỏ bé của
anh,...
- Từ loại (chủ yếu danh từ và thường để gọi tên trực tiếp sự vật đó): khỉ, chó, vịt,...


8

1.3. Giao tiếp và hoạt động giao tiếp
1.3.1. Nhân vật giao tiếp
“Nhân vật giao tiếp tức là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp bằng
ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, các diễn ngơn qua đó mà tác động vào
nhau. Đó là những người tương tác bằng ngôn ngữ” [10, tr.15].
1.3.1.1. Vai giao tiếp
Vai giao tiếp là cương vị xã hội của một cá nhân nào đó trong một hệ thống
các quan hệ xã hội chồng chéo nhau, mỗi cá nhân trong mỗi hoàn cảnh giao tiếp nhất

định lại đóng một vai khác nhau hợp thành một bộ vai cho mình trong hệ thống giao
tiếp chung.
1.3.1.2. Quan hệ liên cá nhân
“Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tương quan xã hội, hiểu
biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau” [10,tr.17].
1.3.2. Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là một trong những yếu tố chủ đạo chi phối hoạt động
giao tiếp của con người. Đó là thế giới thực tại mà chúng ta đang sống với tất cả
những nhân tố xã hội, ngôn ngữ ảnh hưởng đến việc lựa chọn và sử dụng các phương
tiện ngôn ngữ như: hiểu biết về thế giới xã hội, văn hóa, tơn giáo, lịch sử,...; phong
tục tập qn; trình độ học vấn; kinh nghiệm xã hội; thói quen sử dụng ngơn ngũ;
phạm vi giao tiếp (cơng sở, gia đình, ngồi xã hội, trong các vùng lãnh thổ riêng,...);
đề tài, chủ đề hay hình thức giao tiếp,....
1.4. Hành trình sáng tạo văn chương của Nguyễn Nhật Ánh
Nguyễn Nhật Ánh vừa là tên thật cũng vừa là bút danh. Ông sinh ngày
07/05/1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ, ơng theo học tại các
trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ năm 1973, Nguyễn Nhật Ánh
chuyển vào sống tại Sài Gịn, theo học ngành Sư phạm.
Có thể nói, cho đến thời điểm này, Nguyễn Nhật Ánh đã đóng góp cho nền
văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều thể loại, trong khoảng 15
năm, ông đã có trên 40 tập truyện ngắn viết cho thiếu nhi.


9

“Mắt biếc” là một trong các truyện dài viết về câu chuyện tình u tuổi học trị
của Ngạn giành cho Hà Lan nhẹ nhàng nhưng sâu lắng và được bầu chọn là tác phẩm
hay nhất của Nguyễn Nhật Ánh. Mặc dù tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm
1990 được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Nhật Ánh, được
dịch giả Kato Skae dịch để giới thiệu với độc giả Nhật Bản nhưng đến năm 2019

“Mắt biếc” quay trở lại nhờ “cú đúp” của bộ phim chuyển thể cùng tên, nó tạo nên
làn sóng lớn thu hút mọi độc giả tranh nhau tìm đọc tác phẩm.
1.5. Tiểu kết chương 1
Ở chương 1, chúng tôi giới thiệu một số vấn đề lý thuyết về chiếu vật và chỉ
xuất chiếu vật; phạm trù xưng hô; giao tiếp và hoạt động giao tiếp hưởng đến việc
lựa chọn và sử dụng các phương tiện xưng hô của người Việt nói chung cũng như
trong tác phẩm văn học nói riêng.
Trên cơ sở vận dụng những lý thuyết đã trình bày ở trên, chúng tơi tập trung
nghiên cứu, tìm hiểu các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện dài “Mắt biếc”
của Nguyễn Nhật Ánh. Qua đó thấy được nét đặc sắc trong việc sử dụng các phương
tiện xưng hô của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.


10

CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT CÁC PHƯƠNG TIỆN XƯNG HÔ TRONG
TRUYỆN “MẮT BIẾC” CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
2.1. Kết quả khảo sát, thống kê và phân loại
Khảo sát các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện Mắt biếc của Nguyễn
Nhật Ánh, chúng tôi thu được kết quả sau:
Sự phân bố
Số lượng xuất hiện

STT

Tần số sử dụng

Các đơn
vị từ vựng làm
phương tiện xưng hô

1

Danh từ thân tộc

26

34,21

320

43,66

2

Danh từ chỉ tên riêng

25

32,89

235

32,06

3

Đại từ nhân xưng

10


13,16

144

19,64

4

5,26

22

3,0

11

14,48

12

1,64

76

100%

733

100%


4
5

Danh từ chỉ nghề nghiệp
– chức vụ
Kiểu loại xưng hô khác
Tổng số

2.2. Hoạt động của các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện “Mắt biếc”
của Nguyễn Nhật Ánh
2.2.1. Xưng hô bằng danh từ thân tộc
Theo kết quả khảo sát, danh từ thân tộc đứng vị trí thứ 1 với 26/76 các phương
tiện dùng để xưng hô, chiếm 34,21 % trong tổng số các từ vựng dùng để xưng hô và
đứng nhất với 320/733 lượt sử dụng, chiếm 43,66 % trong tổng số lượt sử dụng các
phương tiện dùng để xưng hô trong truyện Mắt biếc của Nguyễn Nhật Ánh.
Các phương tiện xưng hô bằng danh từ thân tộc trong tác phẩm “Mắt biếc”:
cháu (99 lượt), chú (85 lượt), anh (22 lượt), em (19 lượt), mẹ cháu (18 lượt), ….
Xét về cấu tạo, danh từ xưng hô chia thành 5 nhóm:


11

- Nhóm danh từ thân tộc cấu tạo một hình vị: cháu (99 lượt), chú (85 lượt), anh
(22 lượt)…
- Nhóm danh từ thân tộc kết hợp với danh từ thân tộc: Mẹ cháu (18 lượt), ba
cháu (10 lượt), bà ngoại (5 lượt), mẹ chú (2 lượt), bà ngoại cháu (2 lượt), cháu bà (2
lượt)…
- Nhóm danh từ thân tộc kết hợp với đại từ nhân xưng: Cô ta (2 lượt), anh ta (1
lượt), ba nó (1 lượt), chú cháu tơi (1 lượt).
- Nhóm danh từ thân tộc kết hợp với đại từ chỉ trỏ: Cô ấy (1 lượt), ông ấy (1

lượt), bác ấy (1 lượt).
- Danh từ thân tộc kết hợp với đại từ chỉ người: Con gái (8 lượt), Con trai (1 lượt).
2.2.2. Xưng hô bằng danh từ chỉ tên riêng
Với số lượng 25/76 số lượng xuất hiện, 235/733 tần số sử dụng nhóm xưng hơ
bằng danh từ chỉ tên riêng được xếp thứ 2 trong các phương tiện xưng hô trong tác
phẩm “Mắt biếc” của Nguyễn Nhật Ánh: Ngạn (92 lượt), Hà Lan (82 lượt), anh Dũng
(10 lượt) , Trà Long (6 lượt), Dũng (6 lượt), mẹ Hà Lan (6 lượt), chú Ngạn (5 lượt),
Linh (4 lượt), Bích Hồng (3 lượt),…
Xét về cấu tạo phương tiện xưng hơ bằng danh từ chỉ tên riêng trong “Mắt
biếc” của Nguyễn Nhật Ánh có 4 đặc điểm cấu tạo:
- Nhóm thuần túy tên riêng đứng đầu: Ngạn (92/ 235 lượt), Hà (82/235 lượt),...
- Tiếp đến là nhóm danh từ tên riêng kết hợp với danh từ thân tộc: anh Dũng (10
lượt), mẹ Hà Lan (5 lượt), ba Ngạn (2 lượt), ....
- Nhóm danh từ tên riêng kết hợp với danh từ đơn vị: thằng Hòa (2 lượt), thằng Ngạn
(1 lượt), thằng Liêm (1 lượt).
- Nhóm danh từ tên riêng kết hợp với danh từ chỉ nghề nghiệp: trò Ngọc (1 lượt), thầy
Ngạn (1 lượt), thầy Cải (1 lượt).
2.2.3. Xưng hô bằng đại từ nhân xưng
Đại từ nhân xưng đứng ở vị trí thứ 4 với 10/76 các phương tiện dùng để xưng
hô, chiếm 13,16 % trong tổng số các từ vựng dùng để xưng hô. Với 144/733 tần số
sử dụng, tương ứng 19,64 % trong tổng số lượt sử dụng các phương tiện dùng để
xưng hơ.Ví dụ: mày (39 lượt), tơi (32 lượt), nó (36 lượt), tao (29 lượt),….


12

Xét về cấu tạo phương tiện xưng hô bằng đại từ nhân xưng trong “Mắt biếc”
của Nguyễn Nhật Ánh có 2 nhóm:
- Nhóm đại từ xưng hơ số ít:
+ Các đại từ nhân xưng số ít 1 hình vị: mày (39 lượt), tơi (32 lượt), nó (36 lượt),

tao (29 lượt).
+ Đại từ số ít 2 hình vị cấu tạo đại từ nhân xưng kết hợp với đại từ nhân xưng:
người ta (3 lượt).
- Nhóm đại từ xưng hơ số nhiều:
+ Đại từ nhân xưng kết hợp với danh từ chỉ đơn vị: chúng mình (1 lượt), bọn
tao (1 lượt), tụi nó (1 lượt), tụi mình (1 lượt).
+ Đại từ nhân xưng kết hợp với danh từ chỉ tên riêng: Tụi bạn Hà Lan (1 lượt).
2.2.4. Xưng hô bằng các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ
Khảo sát phương tiện xưng hô bằng các danh từ chỉ nghề nghiệp về số lượng
thấp nhất chiếm 5,26 % (4/76) và xếp thứ 4 về tần xuất sử dụng với 3,0% (22/733).
Với 4 phương tiện xưng hô bằng các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ: “thầy”,
“cô”, “thầy Cải”, “thầy Ngạn” trong truyện dài “Mắt biếc” của Nguyễn Nhật Ánh.
Xét về cấu tạo chia thành 2 nhóm:
- Nhóm thứ nhất là được cấu tạo từ 1 hình vị danh từ thân tộc: Thầy (11 lượt), cơ (9
lượt).
- Nhóm thứ hai được cấu tạo từ 2 hình vị kết hợp danh từ thân tộc và danh từ chỉ tên
riêng: Thầy Cải (1 lượt) và thầy Ngạn (1 lượt).
2.2.5. Nhóm kiểu loại xưng hơ khác
Kiểu loại xưng hô khác, về số lượng đứng thứ 3 chiếm 11/76 các phương tiện
dùng để xưng hô.
Xét về cấu tạo, chúng được chia thành các nhóm sau:
-Danh từ thân tộc kết hợp với đại từ nhân xưng: con bé (1 lượt), con người ta (1
lượt).
- Danh từ đơn vị kết hợp với số từ: hai đứa (1 lượt), cả hai người (1 lượt).
- Đại từ nhân xưng với danh từ đơn vị: thằng bạn (1 lượt), đứa bé (1 lượt).


13

- Danh từ đơn vị kết hợp với đại từ chỉ thị: con bé đó (1 lượt), thằng này (1

lượt).
- Danh từ thân tộc kết hợp với danh từ thân tộc: bà con (2 lượt).
- Từ Thuần Việt kết hợp với đại từ nhân xưng: bồ mày (1 lượt).
- Số từ + đặc điểm, tính chất: Một con bé xinh thật xinh (1 lượt).
2.3. Tiểu kết chương 2
Qua kết quả khảo sát các phương tiện xưng hô được sử dụng trong “Mắt biếc”
được Nguyễn Nhật Ánh sử dụng linh hoạt và rất đa dạng: Danh từ chỉ tên riêng, danh
từ thân tộc, đại từ nhân xưng, danh từ chỉ nghề nghiệp – chức vụ, kiểu loại xưng hơ
khác. Ngồi ra chúng ta còn thấy sự khác nhau về cấu tạo nó nhằm lên sự phong phú
cho chính các đơn vị từ vựng và cho thấy được tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà
văn Nguyễn Nhật Ánh. Xuyên suốt tác phẩm ta thấy Nguyễn Nhật Ánh lựa chọn danh
từ chỉ tên riêng và danh từ thân tộc làm phương tiện xưng hô chủ yếu: Ngạn (92 lượt
sử dụng), Hà Lan (82 lượt), cháu (99 lượt), chú (85 lượt), bà (11 lượt),... Qua đó cho
thấy Nguyễn Nhật Ánh lựa chọn các phương tiện xưng hô gần gũi và quen thuộc với
giao tiếp hằng ngày thể hiện ý đồ, mục đích của tác giả tới người đọc trẻ.


14

CHƯƠNG 3
TỪ NGỮ XƯNG HÔ VÀ CÁCH XƯNG HÔ TRONG TRUYỆN
“MẮT BIẾC” CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH NHÌN TỪ
ĐẶC ĐIỂM DỤNG HỌC – VĂN HÓA
3.1. Các nhân tố chi phối cách xưng hô của nhân vật trong tác phẩm
3.1.1. Nhân tố văn hóa truyền thống trong cách xưng hơ
3.1.1.1. Xưng khiêm hô tôn
Xưng khiêm hô tôn nghĩa là khiêm nhườn trong cách xưng hơ, là khiêm tốn
với chính mình và tơn vinh người khác, là sự ít thể hiện mình, hạ thấp mình hơn vị
thế vốn có của mình khi xưng, đồng thời nâng cao hơn vị thế của người nghe so với
các vị trí mà họ có thể có được trong giao tiếp.

Trong truyện dài “Mắt biếc”, dù Ngạn đã là đồng nghiệp với cô Thung nhưng vẫn
muốn cô Thung gọi bằng em, cho thấy sự khiêm nhườn và sự kính trọng của Ngạn dành
cho cơ Thung. Ngược lại, cơ Thung lựa chọn phương tiện xưng hô “thầy Ngạn” cũng thể
hiện thái độ khiêm nhườn, trân trọng đối với học trị cũ của mình. Ngồi “xưng khiêm
hơ tơn” ra, phép lịch sự cũng được thấy rõ trong cuộc nói chuyện sau:
-“Ơi, thầy Ngạn đó hả? Trơng thầy khác hồi nhỏ dữ ạ!
Ngạn ngại ngùng với cách xưng hô của cô Thung, bối rối nói:
- Cơ đừng gọi em là thầy! Cô cứ kêu em bằng em như hồi xưa!
- Hồi xưa em vẫn thường tranh nhau đi... rót nước cho cơ!” [37, tr.216]
Có thể khẳng định, đây là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc.
3.1.1.2. Xưng hô linh hoạt
“Xưng hô linh hoạt” cũng là một trong những đặc điểm được mọi người dân
Việt sử dụng khá nhiều trong giao tiếp. Xưng hô linh hoạt là tùy vào từng hồn cảnh
mà có cách xưng hơ khác nhau những vẫn dựa trên kiểu xưng hô truyền thống.
Nguyễn Nhật Ánh đã nắm bắt được điều này nên trong tác phẩm “Mắt biếc” ông đã
sử dụng kiểu “xưng hô linh hoạt”.
Ngạn bắt đầu thay đổi cách xưng hô với Hà Lan, khơng cịn xưng là “mày màytao tao”, “nó” nữa mà gọi bằng tên, xưng tơi và chúng mình, có khi lại gọi “con trai”,
“con gái”:


15

- “Hà Lan cười gì vậy?
- Cười Ngạn.
- Tơi sao?
- Rồi Hà Lan sẽ quen. Chẳng lẽ gọi nhau như cũ. Chúng mình đã lớn hết rồi.
- Năm ngối Hà Lan lớn rồi. Năm nay đến lượt tôi. Con trai thường lớn chậm
hơn con gái.” [37, tr.84]
Từ việc xưng hô linh hoạt của Ngạn ta thấy qua thời gian và tùy thuộc vào cảm
xúc Ngạn ý thức được việc xưng hơ mày – tao với người con gái mình thích đem lại

khoảng cách xa hơn và ý thức được khi lớn mình cần chững chạc hơn mình phải thay
đổi cách là xưng bằng tên hoặc tơi thì ngay sẽ gần gũi và trưởng thành hơn.
Việc sử dụng từ xưng hô linh hoạt của các nhân vật cho ta thấy được sự đa dạng,
phong phú trong lớp từ xưng hô của Nguyễn Nhật Ánh xây dựng cho nhân vật.
3.1.2. Vai giao tiếp của các nhân vật trong cách xưng hô
3.1.2.1. Tuổi tác
Tuổi tác là một trong những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng không hề nhỏ,
khi tham gia giao tiếp thì việc nhận thức đầy đủ về tuổi tác đối tượng tham gia giao
tiếp cũng rất được quan tâm. Khi xưng- gọi phải lựa chọn và sử dụng đúng các từ
xưng hô trước một số đối tượng giao tiếp cụ thể.
Khi Ngạn trả lời rằng bị đụng xe, nhỏ Mai và thằng Liêm nói:
- Vậy anh phải bắt người ta bồi thường! [37, tr.178]
Thằng Liêm và nhỏ Mai lựa chọn cách xưng hơ với Ngạn là anh vì thằng Liêm
nhỏ tuổi hơn Ngạn, nhưng nhỏ Mai bằng tuổi Ngạn mà lại xưng anh. Cho thấy nhỏ
Mai lựa chọn cách xưng khiêm hô tôn và thể hiện thái độ lịch sự trong giao tiếp.
3.1.2.2. Vị thế xã hội
Theo quan niệm của xã hội học người Mỹ Robertson: “Vị thế là một vị trí xã
hội”. Một cá nhân có thể có nhiều vị thế xã hội tùy theo cá nhân đó tham gia hoạt
động trong nhiều tổ chức xã hội khác nhau. Trong giao tiếp thơng thường, người có
vị thế cao thì tiếng nói của họ sẽ có trọng lượng hơn.


16

Trong tiết học, cô Thung bỗng dưng than khát nước, vậy là cả một rừng tay
giơ xung phong để đi rót nước cho cơ:
-“Em, cơ!
- Em nè, cơ!
- Nhà em gần, để em đi cho cô!
- Cả lớp như một bầy ong, hò reo, giành giật.” [37, tr.47]

Chỉ một lời than khát nước của cô Thung mà cả lớp ai nấy cũng muốn được
cơ sai đi rót nước. Cả lớp khơng phải vì sợ cơ mà do cơ Thung - một cô giáo dịu dàng,
yêu thương học sinh. Cả lớp rất u thương và q mến cơ. Vì vậy, được đi rót nước
cho cơ là một hạnh phúc và là một vinh dự tột bậc của cả lớp Ngạn.
Từ đó, ta thấy được vị thế xã hội cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương
tiện xưng hô phù hợp nhằm tạo nên sự hiểu quả trong giao tiếp.
3.2. Vai trò của từ ngữ xưng hơ trong việc khắc họa tính cách và tâm lý nhân vật
trong truyện “Mắt biếc” của Nguyễn Nhật Ánh
Thông qua cách xưng hô giữa nhân vật Ngạn và Dũng có thể thấy sự đối lập
giữa hai tính cách. Ngạn thì rụt rè, ngây ngơ và khơng giám thổ lộ tình cảm cịn Dũng
là một người mạnh dạng, thẳng thắn, “một con đực hùng mạnh” khi gặp cơ gái mình
thích. Khi gặp Hà Lan ở nhà Ngạn, Dũng đã để ý Hà Lan và thẳng thắn nói với Ngạn:
-“Mày có con bạn dễ thương ác!
- Bồ mày hả?
- Mày nhường nó cho tao đi!” [37, tr.145]
Và Dũng là một người rất tự tin:
-“Có gì đâu kỳ cục! Tại tao thấy nó có vẻ khối tao hơn là khối mày!” [37,
tr.145]
Cịn Ngạn thì là một người con trai rụt rè, khơng giám nói ra Hà Lan là người
mình thích và tuyên chiến với Dũng. Ngạn lại chọn cách đùn đẩy với các lý do. Việc
đang gọi “Hà Lan” và chuyển sang “cô ấy” ta thấy sự chuyển biến tâm trạng của Ngạn
có vẻ bắt đầu lo lắng và khó chịu vì Dũng:
-“Ở đây khơng có vấn đề chịu hay khơng chịu! Nếu quả thật Hà Lan thích anh
thì đó là quyền của cơ ấy. Tơi chịu hay khơng chịu liệu có ý nghĩa gì!”[37, tr.146]


17

Bằng việc sử dụng các phương tiện xưng hô “anh-tôi”, “mày-tao”…, Nguyễn
Nhật Ánh đã xây dựng thành cơng hình tượng hai nhân vật Dũng – Ngạn có tính cách

đối lập nhau. Một người rụt rè, khơng giám thổ lộ tình cảm với người mình u, hết
lịng vì người mình u. Một người thì mạnh mẽ, đểu cáng, thích ai sẽ tấn cơng lập
tức.
3.3. Xu hướng gia đình hóa trong xưng hơ ngồi xã hội và phép lịch sự trong
truyện “Mắt biếc” của Nguyễn Nhật Ánh
3.3.1. Xu hướng “gia đình hóa” trong xưng hơ ngồi xã hội
“Gia đình hóa” là một lối xưng hơ phổ biến của văn hóa phương Đơng vẫn
đang cịn phát triển mạnh trong giao tiếp ngồi xã hội của người Việt này.
Trong các cuộc thoại với mẹ Hà Lan, Ngạn lựa chọn phương tiện xưng hô
“bác- cháu” mặc dù Ngạn và mẹ Hà Lan không phải họ hàng hay cùng huyết thống
với nhau tạo nên sự thân mật, gần gũi như người trong gia đình. Khi Ngạn về làng
Ngạn đều đến nhà Hà Lan chơi, nhưng hôm nay tơi về khơng có Hà Lan đi cùng nên
bác hỏi:
-“Sao cháu không rủ Hà Lan về?
- Hà Lan bận học thêm, bác ạ!
- Cịn cháu thì sao? Cháu khơng bận học thêm à?
- Cháu cũng có học. Nhưng cháu học ngày khác. [37, tr.140]
Trong giao tiếp người Việt có xu hướng “thân tộc hóa” khi hơ gọi. Sử dụng từ
thân tộc trong xưng hô hằng ngày và trong giao tiếp xã hội là một nét đặc trưng của
người Việt Nam. Thể hiện lối sống trọng tình của người Việt thường hướng tới sự
gần gũi và thương mến giữa các vai giao tiếp.
3.3.2. Phép lịch sự
Xưng hơ lễ phép, có chừng mực sẽ tạo được tính lịch sự tơn trọng trong giao
tiếp. Xưng hơ lịch sự cịn biểu hiện ở tính đúng mực, là cách xưng hơ hợp chuẩn, tn
theo những ước định hoặc chế định của xã hội và có tính khn mẫu riêng trong tiếng
Việt.
Trong truyện dài “Mắt biếc” phép lịch sự được biểu hiện qua các cuộc thoại
khi sử dụng từ xưng hô với thầy giáo của mình phải có “thưa” phía trước. Khi thằng



18

Ngọc ị trong lớp học thì một đứa bàn trên đứng lên tố cáo:
-“Thưa thầy, trò Ngọc ị trong quần ạ!” [37, tr.28]
Hay lúc Ngạn về thăm thầy Phu:
-“Thưa thầy, em mới về!
- Em về chơi được bao lâu?
- Thưa thầy, em về luôn. Em về dạy ở trường tiểu học làng mình.”[37, tr.218219]
Qua các cuộc thoại trên ta thấy khi xưng hơ với người lớn tuổi hơn thì chúng
ta cần phải “dạ thưa” để thể hiện phép lịch sự trong giao tiếp ngồi ra nó cịn tạo cảm
giác thân mật, gần gũi và sự kính trọng của mình đối với đối tượng giao tiếp.
3.4. Văn hóa xưng hơ theo hương Ngữ Nam trong Mắt biếc của Nguyễn Nhật Ánh
Tuy sinh ra ở quê hương Quảng Nam nhưng phần lớn cuộc đời của Nguyễn
Nhật Ánh gắn bó sâu sắc với mảnh đất Nam Bộ. Vì vậy, ơng sử dụng thuần phục
phương ngữ Nam Bộ nên Nguyễn Nhật Ánh đã thành công khi đưa ngôn ngữ đời
sống vào tác phẩm của mình một cách tự nhiên. Chính vì thế nên nhân vật của Nguyễn
Nhật Ánh luôn tạo cho người đọc sự gần gũi, thân thuộc. Bằng cái tài và cái tâm của
người cầm bút, ông đã cố gắng, nổ lực mang đặc sắc văn hóa xưng hơ của Nam Bộ
đến với độc giả trong từng trang viết. Điều đó được thể hiện qua phương tiện xưng
hô và cách xưng hô của các nhân vật.
Phương tiện xưng hô và cách xưng hô trong “Mắt biếc” mang đậm nét văn hóa
Nam Bộ. Người Nam Bộ chuộng lối xưng hô thân mật, dân dã, suồng sã cũng như chính
lối sống của họ vậy. Đối với những người bằng vai phải lứa, hay đối với người nhỏ tuổi
hơn, người Nam Bộ thường xưng “mày – tao” để tỏ sự thân mật như cách xưng hô.
Khảo sát tác phẩm “Mắt biếc”, ta thấy sự xuất hiện của cặp từ xưng hô “màytao” xuất hiện khá nhiều trong nhóm đại từ nhân xưng trong “Mắt biếc”. Cụ thể,
“mày” xếp thứ nhất trong số lần xuất hiện với 39/144 (27,09 %), “tao” xếp thứ tư với
29/144 (20,15 %) trong nhóm đại từ nhân xưng. Biểu hiện:
Đối thoại của Ngạn và Hà Lan bạn học đồng trang lứa:
-“Mày đánh đi, đánh mạnh vào!
- Đánh vậy cũng đòi đánh! Đưa đây tao đánh lại!



19

- Mày đừng lo! Mai mốt mày đánh, tao cầm tay cho mày đánh. Như vậy sẽ mạnh
hơn.“ [37, tr.60]
Hay trong lần Ngạn đến gặp Dũng để nói chuyện về Hà Lan, Nguyễn Nhật Ánh
lựa chọn phương tiện xưng hô “mày-tao” cho nhân vật Dũng:
-“Mày muốn nói với tao chuyện gì?” [37, tr.172]
-“Đủ rồi! Hơm nay mày ăn nói với tao như vậy là đủ rồi! Tao nhắc cho mày nhớ,
tao yêu ai đó là chuyện của tao! Chuyện của tao, mày rõ chưa.” [37, tr.173]
Ngồi ra cịn có các từ xưng hơ khác mang đậm văn hóa giao tiếp của người
Nam Bộ xuất hiện trong “Mắt biếc”: “Ảnh, ông ấy, cô ấy, bác ấy” là lớp từ vựng
Nam Bộ có hiện tượng biến âm so với lớp từ vựng chung tồn dân. Sự biến âm này
được hình thành từ khuynh hướng phát âm đơn giản hóa của người dân Nam Bộ.
Với tình yêu đối với vùng đất và người Nam Bộ, Nguyễn Nhật Ánh đã “chuyển
tải” thành công “chất Nam Bộ” qua lớp từ xưng hô trong sáng tác của mình.
3.5. Tiểu kết chương 3
Kết thúc chương 3, từ xưng hô và cách xưng hô trong truyện dài “Mắt biếc” đã
được làm rõ. Qua đó nêu lên được vai trị của từ ngữ xưng hơ trong việc khắc họa
tính cách, tâm lý của nhân vật và dấu ấn văn hóa xưng hơ trong giao tiếp của người
Nam Bộ. Nét riêng biệt trong việc sử dụng các đơn vị từ vựng làm phương tiện xưng
hô không chỉ làm phong phú thêm hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt mà cịn góp
phần thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh.


20

KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, đã có rất nhiều tác giả và các cơng trình nghiên

cứu tiêu biểu về các tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh. Song nghiên cứu các tác phẩm của
ơng dưới lí luận đặc biệt là phương tiện dùng để xưng hơ và cách xưng hơ thì chưa
được quan tâm. Vì vậy, nghiên cứu phương tiện xưng hô trong trong truyện “Mắt
biếc” của Nguyễn Nhật Ánh là một vấn đề có ý nghĩa lớn khơng chỉ đối với lĩnh vực
văn học mà còn thiết thực đối với cuộc sống.
Người Việt Nam chúng ta có một kho các từ ngữ xưng hô vô cùng phong phú và
đa dạng. Trong hoạt động giao tiếp, tùy vào phạm vi, hoàn cảnh nhất định trong đời sống
mà ta lựa chọn cho mình phương tiện xưng hơ và cách xưng hơ phù hợp. Qua phương
tiện xưng hô và cách xưng hô thể hiện thái độ, tình cảm và hiệu quả trong cuộc giao tiếp.
Ngày nay với sự sáng tạo của người sử dụng phương tiện xưng hô và cách xưng hô trong
giao tiếp ngày càng phong phú, đa dạng hơn và được coi là hệ thống mở. Tuy nhiên, từ
xưng hô trong tiếng Việt là một vấn đề phức tạp, nếu không am hiểu một cách sâu sắc
thì có thể dẫn đến cách hiểu sau, cách dùng không đúng đối với hoạt động giao tiếp, mà
đặc biệt là người nước ngoài muốn học tập và nghiên cứu tiếng Việt. Trên cơ sở đó,
nghiên cứu từ xưng hơ tiếng Việt sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn trong cách hiểu, cách
dùng cho người nước ngoài và cả người Việt.
Đi vào khảo sát trong tác phẩm “Mắt biếc”, chúng tơi nhận thấy rằng có năm
nhóm được sử dụng làm phương tiện xưng hơ, đó là: Danh từ chỉ tên riêng; danh từ
thân tộc; đại từ nhân xưng; danh từ chỉ chức danh, vị thế và nghề nghiệp; kiểu loại
xưng hơ khác. Mỗi nhóm phương tiện xưng hô này đều được sử dụng với tần số nhiều
ít khác nhau, kèm theo đó là dụng ý, ý đồ của nhà văn. Qua việc đi khảo sát, chúng
tôi nhận thấy các từ ngữ xưng hô trong truyện dài ‘Mắt biếc” rất phong phú và đa
dạng. Tùy vào từng nhân vật, tâm trạng và hoàn cảnh của nhân vật mà Nguyễn Nhật
Ánh có cách sử dụng các từ xưng hơ thích hợp. Mặt khác, việc sử dụng các phương
tiện xưng hô và cách xưng hô không chỉ thể hiện thái độ và tính cách nhân vật mà nó
cịn thể hiện được nét đẹp văn hóa trong vấn đề giao tiếp của người Việt, đặc biệt là
dấu ấn sử dụng từ xưng hơ trong văn hóa giao tiếp của người Nam Bộ làm nổi bật
phong cách nghệ thuật của nhà văn.



21

Qua phương tiện xưng hô và cách xưng hô trong truyện dài “Mắt biếc”, chúng
ta thấy được Nguyễn Nhật Ánh đã nắm bắt rất rõ những nhân tố chi phối và nguyên
tắc trong xưng hô của người Việt thể hiện nó vào trong tác phẩm của mình. Đó chính
là tài năng không thể phủ nhận về tác giả Nguyễn Nhật Ánh. Qua tác phẩm chúng ta
nhận thấy được cách xưng hô “xưng khiêm hô tôn” và “xưng hô linh hoạt” là hai đặc
điểm xưng hơ quan trọng trong văn hóa truyền thống Việt Nam, ngồi ra xu hướng
“gia đình hóa” trong xưng hơ ngồi xã hội của người Việt Nam. Bên cạnh đó, từ xưng
hơ trong ‘Mắt biếc” cịn bộc lộ văn hóa giao tiếp của người Nam Bộ.
Từ kết quả khảo sát phương tiện xưng hô và cách xưng hô trong “Mắt biếc” ta
thấy một bức tranh sinh động trong văn hóa người Việt nói chung và văn hóa giao
tiếp người Nam Bộ nói riêng. Bên cạnh đó, nó như một cuốn từ điển để giúp người
nước ngoài và cả người Việt sáng tỏ hơn trong cách hiểu, cách dùng để lựa chọn từ
xưng hô phù hợp trong mọi hoàn cảnh giao tiếp. Mối quan hệ sẽ trở nên tốt đẹp nếu
chúng ta biết tuân thủ các nguyên tắc chuẩn mực trong giao tiếp. Hãy giao tiếp khéo
léo như lời ơng bà ta từng nói “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa
lịng nhau”. Sử dụng từ xưng hô đúng mực thước, đúng vai vế, lịch sự, lễ phép, khéo
léo, khiêm nhường, đúng hoàn cảnh nói năng, đúng mối quan hệ thân - sơ giữa người
nói và người đối thoại để “văn hóa giao tiếp” ln là nét đẹp riêng có trong kho tàng
văn hóa ứng xử của người Việt.



×