Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Từ xưng hô trong một số truyện ngắn của nguyễn công hoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.84 KB, 73 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------

CAO THỊ MAI HƯƠNG

Từ xưng hô trong một số truyện ngắn của
Nguyễn Cơng Hoan

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP


2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ bao đời nay người Việt vốn rất coi trọng việc xưng hô trong giao
tiếp. Lựa chọn từ xưng hơ đúng mực đó là truyền thống văn hóa trong việc thể
hiện thái độ, quan hệ, tình cảm, vị trí của người nói đối với người nghe. Trong
ngôn ngữ tiếng Việt, hệ thống từ xưng hơ rất đa dạng và phong phú trong đó
có danh từ, danh ngữ và các đại từ xưng hơ. Có một vị trí rất quan trọng trong
ngơn ngữ và giao tiếp nên khi nghiên cứu về từ xưng hô sẽ giúp chúng ta hiểu
sâu hơn về danh từ, đại từ cách sử dụng từ xưng hô nhằm điều chỉnh trong
giao tiếp sao cho phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng và mục đích nói năng ứng
xử hằng ngày.
Nguyễn Cơng Hoan là một nhà văn tài năng và cũng là người có một
nhân cách đẹp. Truyện ngắn của ơng đã thu hút được nhiều sự quan tâm, chú
ý của các nhà nghiên cứu, phê bình bởi sự phong phú, đa dạng trong nghệ


thuật xây dựng truyện ngắn. Ông đã rất chú ý đến việc bộc lộ tư tưởng của
mình qua nội dung cũng như khai thác ngơn ngữ. Tìm hiểu từ xưng hô trong
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là một vấn đề thú vị, hấp dẫn khi đi vào
khám phá văn chương của ơng.
Trong thực tế đã có nhiều nhà nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan cũng
như tác phẩm của ông, nhưng cho tới nay tôi vẫn chưa tìm thấy cơng trình cụ
thể nào nghiên cứu về từ xưng hơ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Với
mong muốn hiểu rõ hơn vị trí, giá trị của từ xưng hơ trong ngôn ngữ truyện
ngắn nên tôi đã mạnh dạn đi vào khảo sát Từ xưng hô trong một số truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan.
2. Lịch sử vấn đề


3

Xưng hô từ lâu đã là một vấn đề thú vị và được bàn đến khá nhiều
trong giới ngôn ngữ. Việc nghiên cứu từ xưng hô và cách xưng hô trong tiếng
Việt đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm như: Lê Biên, Diệp Quang Ban,
Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Hữu Quỳnh, Đỗ Thị Kim Liên, Đỗ Hữu Châu…
Hàng loạt các cơng trình nghiên cứu xung quanh vấn đề xưng hơ như:
Đỗ Hữu Châu với Đại cương ngôn ngữ học – tập 2, Nguyễn Đức Thắng với
bài viết Về giới và ngôi ở những từ xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt, Đỗ Thị
Kim Liên với Giáo trình ngữ dụng học ...
Một số bài viết và cơng trình nghiên cứu cũng đã khảo sát việc xưng hô
tiếng Việt như: Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình người Việt (Bùi
Minh Yến), Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình người Việt (Bùi Minh
Yến), Xưng hơ trong tiếng Việt (Hồng Huy), Các biểu hiện của lịch sự chuẩn
mực trong xưng hô (Vũ Tiến Dũng), Cách xưng hô trong tiếng Việt (Phan
Thâm), Từ xưng hơ có nguồn gốc danh từ thân tộc trong giao tiếp tiếng Việt
(Trương Thị Diễm), Nét nghĩa chỉ quan hệ của danh từ thân tộc trong tiếng

Việt (Nguyễn Thị Ly Kha) …
Tác giả Đỗ Hữu Châu coi từ xưng hô là một phương thức chiếu vật
“phạm trù xưng hô hay phạm trù ngôi bao gồm những phương tiện chiếu vật
nhờ đó người nói tự quy chiếu, tức tự đưa mình vào diễn ngơn (tự xưng) và
đưa người giao tiếp với mình (đối xứng) vào diễn ngơn” [8, tr.73]. Qua đó tác
giả đã đưa ra những nhân tố chi phối việc dùng các từ xưng hô trong giao tiếp,
chú ý đến chức năng chiếu vật của các từ xưng hơ.
Với việc tìm hiểu từ xưng hơ, nhiều bài viết đã khảo sát thực tế xưng
hô của người Việt thơng qua những hồn cảnh, những mối quan hệ khác
nhau… và tìm ra những đặc trưng của chúng. Mai Thị Kiều Phượng nghiên
cứu về Từ xưng hô và cách xưng hô trong câu hỏi mua bán bằng tiếng Việt.
Bài viết cho rằng “Hành vi ngôn ngữ xưng hô phải được cộng đồng chấp


4

nhận và có những quy ước nhất định phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, mối
quan hệ cá nhân, truyền thống văn hóa …” [18, tr.15].
Tác giả Lê Biên trong cuốn: Từ loại tiếng Việt hiện đại có phần viết về
đại từ xưng hô, theo tác giả: Những đại từ xưng hơ trong tiếng Việt có thể
chia làm hai lớp (xưng hơ gốc và đại từ hóa). Lớp đại từ hóa lại chia thành
nhiều nhóm khác nhau .
Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung với cuốn Ngữ pháp tiếng Việt,
tập1 có phần viết về đại từ xưng hơ. Các tác giả này chia đại từ xưng hơ thành
2 nhóm: Đại từ xưng hô dùng ở một ngôi xác định và đại từ xưng hô dùng ở
nhiều ngôi linh hoạt. “Đối tượng tham gia quá trình giao tiếp (người, vật)
được chỉ ra một cách chung nhất ở cương vị ngôi trong ý nghĩa của đại từ. Vì
vậy có thể phân biệt đại từ dùng ở một ngôi xác định và đại từ có thể dùng ở
nhiều ngơi khác nhau” [2, tr.111]
Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (2009) đã đề cập đến

vấn đề từ xưng hô, khi bàn về nhân xưng từ tiếng Việt đã chú ý đến lớp nhân
xưng từ đích thực, phân biệt với các lớp từ khác được dùng làm nhân xưng từ.
Cụ thể ông đề cập đến các lớp từ sau: Nhân xưng từ đích thực; Danh từ chỉ
quan hệ thân tộc; Danh từ chỉ chức vị; Một số từ, tổ hợp từ khác.
Bùi Minh Tốn trong Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt. 2007. Hà Nội:
NXBĐHSP cho rằng: Các đại từ xưng hơ, người nói tự xưng (tơi, tao, chúng
ta, chúng mình, chúng tớ), người nói gọi người nghe (mày, chúng mày, mi,…)
hoặc chỉ người được nói tới (nó, hắn, thị, y, chúng, nó). Ngồi ra, trong tiếng
Việt, nhiều danh từ chỉ quan hệ thân tộc được dùng như đại từ xưng hơ: Ơng,
bà, anh, chị, em, cháu,…(dùng rộng trong giao tiếp xã hội). Bùi Minh Toán
cũng nhấn mạnh việc dùng đại từ và nhất là đại từ xưng hô, người Việt rất chú
ý đến việc bày tỏ thái độ, tình cảm của mình đối với người khác. Đó cũng là
một trong những sắc thái riêng của đại từ xưng hô trong tiếng Việt.


5

Đinh Trọng Lạc trong Phong cách học tiếng Việt. 2004. Hà Nội:
NXBGD cho rằng: “Bên cạnh các đại từ nhân xưng (tơi, tao, mày, nó, hắn,…)
trong tiếng Việt cịn dùng những từ chỉ quan hệ gia đình huyết tộc (ơng, bà,
cha, mẹ, con, cháu) để xưng hô”. Đinh Trọng Lạc chú trọng phân tích sắc thái
biểu cảm của hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Việt. Ông cũng nhấn mạnh một
số điểm cần lưu ý là: “Các đại từ nhân xưng của tiếng Việt khơng có sắc thái
trung tính như trong tiếng Pháp, Nga, Hán…” Ông cũng miêu tả cách sử
dụng các từ xưng hô và đại từ nhân xưng trong một số tình huống thân mật,
tình huống xã giao và tình huống thơng báo khách quan.
Trong cuốn Ngữ nghĩa lời hội thoại, Đỗ Thị Kim Liên cũng đã đánh
giá từ xưng hơ có vai trị quan trọng trong hội thoại, đã xác định các nhân tố
chi phối từ xưng hơ và những biểu hiện của từ xưng hơ.
Nói chung, nội dung của các cơng trình nghiên cứu về từ xưng hơ là rất

đa dạng ở mọi khía cạnh trong giao tiếp người Việt. Điểm qua một số cơng
trình trên, chúng tôi thấy xưng hô được nghiên cứu dưới những góc nhìn khác
nhau trong đời sống. Tuy nhiên,theo khảo sát ban đầu của chúng tơi thì các từ
dùng để xưng hô trong một tác phẩm chưa được đề cập nhiều, đặc biệt là hầu
như chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các từ
xưng hô trong các tác phẩm của các tác giả. Kế thừa thành quả các cơng trình
của những nhà nghiên cứu trước đây, chúng tôi hi vọng luận văn này sẽ có
hướng đi mới trong việc tìm hiểu từ xưng hơ của người Việt nói chung và các
tác phẩm văn học nói riêng.
Xung quanh Nguyễn Cơng Hoan đã có nhiều cơng trình nghiên cứu và
đánh giá về con người cũng như tác phẩm của ơng, nhưng ít có cơng trình
nghiên cứu về ngôn ngữ và cụ thể hơn là từ xưng hơ trong truyện ngắn của
ơng. Một số cơng trình ít nhiều đề cập đến ngôn ngữ trong tác phẩm của
Nguyễn Công Hoan: Kĩ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và


6

Nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (Lê Thị Đức
Hạnh), Chất hài trong câu văn của Nguyễn Công Hoan, Lời văn song điệu
trong truyện ngắn của Nguyến Cơng Hoan, Kịch hóa trần thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Cơng Hoan ( Nguyễn Thanh Tú). Nhìn chung, các bài viết trên
đã ít nhiều đề cập đến một số khía cạnh về ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan. Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên
chúng tôi đã đi vào nghiên cứu Từ xưng hô trong một số truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Trong luận văn này chúng tôi tập trung đi vào
nghiên cứu, tìm hiểu Từ xưng hơ trong một số truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan.

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung khảo sát những từ xưng hô
trong những đoạn hội thoại giao tiếp giữa các nhân vật được nhà văn thể hiện
trong truyện ngắn của mình.
Do yêu cầu của đề tài, chúng tơi đi vào tìm hiểu từ xưng hô trong 30
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan gồm: (Sóng vũ mơn, Răng con chó nhà
tư sản, Oẳn tà roằn, Hai thằng khốn nạn, Ngựa người và người ngựa, Thằng
ăn cắp, Báo hiếu trả nghĩa cha, Cụ chánh Bá mất giày, Mất cái ví, Kép Tư
Bền, Cái vốn để sinh nhai, Thầy cáu, Thằng ăn cướp, Một tấm gương sáng,
Thanh! Dạ, Thế cho nó chừa, Thằng điên, Ngậm cười, Đồng hào có ma, Xuất
giá tịng phu, Một tin buồn, Nạn râu, Gánh khoai lang, Quanh cái xác chết,
Chị Liền, Cây mít, Bãi cứt trâu, Thằng Giảng với Đảng, Xóm bên sim, Lưu
manh).
4. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu từ xưng hô trong truyện ngắn Nguyễn Cơng
Hoan, luận văn nhằm: Góp phần nghiên cứu từ xưng hô trong ngôn ngữ giao


7

tiếp tiếng Việt. Nghiên cứu từ xưng hô để thấy được đặc điểm ngôn ngữ và
giá trị sử dụng của chúng trong các truyện ngắn. Đồng thời thông qua việc
nghiên cứu đưa ra một bức tranh chung về từ xưng hô, cách xưng hô của các
vai xưng hô, nhân vật giao tiếp trong truyện ngắn Nguyễn Cơng Hoan. Từ đó
phần nào hiểu thêm về văn hóa xưng hơ của người Việt.
Luận văn cũng nhằm góp phần tìm hiểu những đóng góp của Nguyễn
Cơng Hoan cho nền văn học Việt Nam. Đồng thời, giúp cho người học, người
yêu thích văn của ơng có thêm cách tiếp cận mới trong việc tìm hiểu tác
phẩm. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần trong việc học tập,
nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm văn học của Nguyễn Công Hoan tốt hơn
trong các trường trung học.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu
sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp miêu tả
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần tài liệu tham khảo, phần
nội dung được chia làm ba chương:
Chương I: Những giới thuyết liên quan đến đề tài
ChươngII: Khảo sát từ xưng hô trong một số truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan
ChươngIII: Giá trị biểu đạt của từ xưng hô trong một số truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan


8

NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Hoạt động giao tiếp
1.1.1 Khái niệm ngữ cảnh giao tiếp
Nghiên cứu từ xưng hơ khơng thể đặt ngồi q trình giao tiếp. Theo
Đỗ Hữu Châu, trong giao tiếp bằng ngôn ngữ đáng chú ý là sự có mặt của các
nhân tố giao tiếp sau: ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn. Trong khuôn khổ
phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ xin trình bày nhân tố ngữ cảnh giao tiếp.
Ngữ cảnh giao tiếp là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp
nhưng nằm ngồi diễn ngơn. Nó là một tổng thể của những hợp phần như:
nhân vật giao tiếp và hiện thực ngồi diễn ngơn (hồn cảnh giao tiếp). Đỗ

Hữu Châu đã từng định nghĩa; “Ngữ cảnh là tập hợp các nhân tố giao tiếp:
Nhân vật giao tiếp (người nói, người nghe), hiện thực được nói tới, hồn cảnh
giao tiếp”. Thật vậy, trong giao tiếp yếu tố ngữ cảnh đóng vai trị cực kì quan
trọng. Ngữ cảnh giúp hiểu đúng đích tại lời của người nói và giúp cho việc sử
dụng từ, câu thể hiện hiệu quả khi tạo lập văn bản. Chúng tơi sẽ đi sâu tìm
hiểu cụ thể nhân tố này trong việc ảnh hưởng đến việc lựa chọn các từ dùng
để xưng hô trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan.
1.1.1.1 Nhân vật giao tiếp
“Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp
bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, các diễn ngơn qua đó
mà tác động vào nhau. Đó là những người tương tác bằng ngơn ngữ.”
[8,tr.15]


9

Nhân vật giao tiếp đóng vai trị quan trọng trong q trình giao tiếp, nó
có thể thúc đẩy hoặc tự kết thúc cuộc thoại do đó nó chính là linh hồn của
cuộc thoại.
Trong giao tiếp, các nhân vật tham gia giao tiếp có sự khác nhau về lứa
tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội và tâm lí cũng khác nhau.
Hơn nữa, các phương tiện xưng hơ trong tiếng Việt rất phong phú và mang
màu sắc biểu cảm. Việc lựa chọn các phương tiện xưng hô sao cho phù hợp
với đối tượng giao tiếp không chỉ thể hiện mối quan hệ, mà còn thể hiện
“chuẩn mực lịch sự trong giao tiếp của người Việt”.
1.1.1.2 Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là một trong những yếu tố chủ đạo chi phối hoạt
động giao tiếp của con người. Đó là thế giới thực tại với tất cả những nhân
tố xã hội - ngôn ngữ ảnh hưởng đến việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện
ngôn ngữ, như: hiểu biết về thế giới xã hội, văn hố, tơn giáo, lịch sử, phong

tục, tập quán, trình độ học vấn, kinh nghiệm xã hội, thói quen sử dụng ngơn
ngữ, phạm vi giao tiếp (cơng sở, gia đình, ngồi xã hội, trong các vùng lãnh
thổ riêng...), đề tài, chủ đề hay hình thức giao tiếp....
Trong phạm vi đề tài, xin thu hẹp lại hồn cảnh giao tiếp cụ thể: nói ở
đâu, trong trình trạng tâm lí như thế nào, mối quan hệ thân mật hay xã giao,
nghiêm túc hay cười cợt…
1.1.2 Khái niệm hội thoại
Hội thoại là một hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của
con người. Vấn đề hội thoại đã được nghiên cứu và được đặc biệt quan tâm
trong ngữ dụng học. Xoay quanh khái niệm “hội thoại”, chúng ta có thể kể
đến khái niệm của một số tác giả sau:
Đỗ Hữu Châu đưa ra khái niệm “hội thoại” một cách bao quát và rộng
lớn, có thể áp dụng cho nhiều loại hình ngơn ngữ: “Hội thoại là hình thức


10

giao tiếp thường xun, phổ biến của ngơn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở
của mọi hoạt động ngơn ngữ khác. Hội thoại là khái niệm dành cho mọi hình
thức hội thoại khác nhau”. [7, tr.201]
Theo từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Hội thoại là sử dụng một ngôn
ngữ để nói chuyện với nhau”.
Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn
ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh
nhất định mà giữa họ có sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành
vi nhận thức nhằm đi đến một mục đích nhất định”.
Tóm lại, hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên căn bản, phổ
biến của ngôn ngữ. Hội thoại rất quan trọng trong cuộc sống, nhưng là ngơn
ngữ, nó vẫn chỉ là một công cụ. Cách sử dụng công cụ ấy sẽ góp phần vào kết
quả của các cuộc giao tiếp.

1.2 Phạm trù xưng hô
1.2.1 Khái niệm từ xưng hô
Từ xưng hô bao gồm các từ, ngữ, được sử dụng để xưng hô trong giao
tiếp. Từ xưng hô trong tiếng Việt rất đa dạng về chủng loại, linh hoạt và giàu
màu sắc biểu cảm trong sử dụng. Vì thế, từ xưng hơ cần được xem xét trong
hoạt động giao tiếp, trong mối quan hệ trực tiếp giữa những người giao tiếp,
trong mối quan hệ trực tiếp giữa những người giao tiếp mới bộc lộ đầy đủ giá
trị thực của chúng.
Khái niệm phạm trù “xưng hô” cũng được hiểu và lý giải theo nhiều
cách khác nhau. Nói đến từ xưng hơ người ta thường đề cập đến hai nhóm:
Đại từ xưng hơ đích thực và danh từ thân tộc chuyển hóa thành từ xưng hơ.
Trong từ điển tiếng Việt của Hồng Phê (chủ biên) định nghĩa “xưng hơ
là tự mình xưng mình và gọi người khác là gì đó khi nói với nhau để biểu thị


11

tính chất của mối quan hệ với nhau”. Định nghĩa xưng hô của từ điển tiếng
Việt là định nghĩa chỉ ra hoạt động nói một cách khái qt.
Cách xưng hơ của người Việt rất phong phú và linh hoạt, ngoài các đại
từ xưng hơ, tiếng Việt cịn có một số lượng khá lớn danh từ và một số ít các
loại từ khác được sử dụng làm từ xưng hô.
Vũ Tiến Dũng khi viết “Các biểu hiện của lịch sự chuẩn mực trong xưng
hô” cho rằng “Xưng hô là một hoạt động diễn ra liên tục, thường xuyên trong
khi trò chuyện và là lời của người nói lẫn người nghe. Hành động xưng hô chỉ
diễn ra trong cuộc thoại và một người có thể “và thường” thực hiện cả hai
hoạt động xưng (tự quy chiếu mình) và hơ (quy chiếu đến người đối thoại).
Ngôi thứ ba không phải là nhân vật hội thoại do đó nhân vật này khơng tham
dự vào hoạt động xưng hô. Như vậy, chức năng xưng hô là chỉ thị người nói,
người nghe trong một cuộc hội thoại” [9, tr.32]

Theo Trương Thị Diễm, hệ thống từ xưng hơ trong tiếng Việt bao gồm
2 nhóm lớn là: Đại từ nhân xưng và những yếu tố xưng hô phi đại từ nhân
xưng.
Diệp Quang Ban và Nguyễn Hữu Quỳnh quan niệm từ xưng hô bao
gồm từ chuyên dùng để xưng hơ (đại từ xưng hơ đích thực) và các đại từ xưng
hô lâm thời (danh từ thân tộc).
Theo Đỗ Thị Kim Liên : “Từ xưng hô là những từ dùng để xưng hô
giữa các nhân vật khi giao tiếp. Xưng hơ được xem là một phạm trù, đó là
phạm trù ngơi” [16, tr.174]
Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống số 3 năm 2007 có bài Cần phân biệt từ
xưng hơ với đại từ xưng hô của Nguyễn Thị Trung Thành. Trong bài báo này,
Nguyễn Thị Trung Thành khẳng định : “Khái niệm từ xưng hơ có nội hàm
rộng hơn khái niệm đại từ xưng hô. Từ xưng hô trong tiếng Việt gồm có các
loại sau : đại từ dùng để xưng hô, danh từ chỉ quan hệ họ hàng dùng để xưng


12

hô, danh từ chỉ chức danh, nghề nghiệp. Như vậy, đại từ xưng hô chỉ là một
bộ phận nhỏ nằm trong từ xưng hô” .
Tác giả Phan Ngọc Tưởng trong luận án tiến sĩ của mình đã mạnh mẽ
quả quyết rằng: “Những đại từ nào chỉ rõ vai nhân vật tham gia trực tiếp vào
hành vi xưng hô mới được coi là những đại từ xưng hô thực thụ… Đại từ
xưng hô ngôi thứ 3 không phải là từ xưng hơ” ( dẫn theo Trương Thị Diễm
[10, tr.22] ) .
Ngồi ra một số tác giả lại nghiên cứu từ xưng hơ dưới góc độ văn hóa
như: Cao Xn Hạo trong cuốn Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, có phần viết
về mấy vấn đề văn hóa trong xưng hơ của người Việt. Hay Trần Ngọc Thêm
trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam có phần viết về văn hóa giao tiếp và nghệ
thuật ngơn từ. Tác giả cũng có nói qua về đặc điểm hệ thống từ xưng hô tiếng

Việt như: Tính chất thân mật hóa (trọng tình cảm), tính chất cộng đồng hóa,
tính tơn ti “xưng nghiêm – hơ tơn”, nghi thức trọng cách nói lịch sự…
Tóm lại, từ xưng hơ là những từ dùng để tự xưng mình và hô (gọi)
người khác trong khi giao tiếp nhằm biểu thị tính chất của mối quan hệ giao
tiếp với nhau. Trong hoạt động giao tiếp, các vai giao tiếp phải trực tiếp giao
thiệp với nhau bằng lời, trong đó các phương tiện xưng hô sẽ được sử dụng.
Từ xưng hô tiếng Việt không chỉ dùng để “xưng” và “hô” nhằm định vị
mối quan hệ giữa các đối tượng khi giao tiếp mà cịn là phương tiện biểu đạt
tình cảm, góp phần tạo nên nhịp cầu giao cảm giữa đôi bờ tâm hồn. Nhiều nhà
nghiên cứu đã nói về sự phong phú của lớp từ xưng hơ tiếng Việt. Sự phong
phú đó không chỉ cho thấy ở số lượng từ xưng hô mà cịn thể hiện bởi cách
xưng hơ. Và trong q trình tìm hiểu đó, việc dùng các từ để “xưng” và “gọi”
nhau góp phần thể hiện bao cung bậc tình cảm của người trong cuộc. Qua đó
thử cảm nhận về sắc thái biểu cảm của lớp từ rất đa dạng và phong phú này
cùng vẻ riêng trong cách nói năng của người dân.


13

So với các ngôn ngữ khác, hệ thống từ xưng hô trong ngôn ngữ tiếng
Việt nhiều về số lượng, đa dạng về xuất xứ và kiểu cấu tạo, uyển chuyển về
cách dùng. Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, hệ thống từ xưng hô ấy đã thể
hiện rõ nhiều nét đặc trưng cho văn hóa ứng xử của cộng đồng dân tộc Việt.
Tơi thấy mỗi nhà ngiên cứu có những cách định nghĩa và đưa ra những lý luận
khác nhau cho chính kiến của mình, riêng tơi cũng tán thành với quan điểm:
Hệ thống từ xưng hô ấy bao gồm từ xưng hô chuyên dụng (tức các đại từ nhân
xưng) và các từ xưng hô không chuyên dụng (từ ngữ thuộc các từ loại khác
được lâm thời dùng để xưng hô - chủ yếu là danh từ chỉ quan hệ thân tộc,
danh từ chỉ quan hệ xã hội, từ xưng hô bằng họ tên, từ xưng hô bằng từ chỉ
nghề nghiệp chức danh, xưng hô bằng các từ xưng hô khác).

1.2.2 Phương tiện xưng hô
1.2.2.1 Đại từ nhân xưng (nhân xưng từ đích thực)
Đại từ nhân xưng là những đại từ chỉ người, dùng để xưng gọi các
thành viên tham gia giao tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp, bao gồm đại từ nhân
xưng ngôi thứ nhất, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai và đại từ nhân xưng ngôi
thứ ba.
Từ điển Bách khoa Việt Nam 1995 ghi rõ “Đại từ nhân xưng (cịn gọi
là đại từ xưng hơ) là đại từ dùng để tự xưng (ngôi thứ nhất), để gọi người đối
thoại (ngôi thứ hai), để gọi người hay sự vật thứ ba (ngôi thứ ba). Đại từ
nhân xưng gồm số ít và số nhiều”.
Theo tác giả Lê Biên đại từ nhân xưng (xưng hô) được chia làm hai
lớp:
- Đại từ nhân xưng (xưng hơ) đích thực: tơi, tao, tớ, hắn, họ …
- Đại từ hóa dùng để xưng hơ : đó là những từ nguyên là danh từ đã trở
thành đại từ thực sự: tơi, tớ, mình … những danh từ lâm thời đảm nhận chức
năng đại từ đó là những danh từ chỉ người trong quan hệ thân thuộc được lâm


14

thời dùng làm đại từ nhân xưng (xưng hô): ông, bà, cơ, dì, chú, bác, cậu, anh,
dượng, mợ.
Diệp Quang Ban cho rằng: “Đại từ nhân xưng là những từ dùng để
chỉ người hay vật tham gia quá trình giao tiếp. Theo đó: “Đại từ xưng hơ
dùng thay thế và biểu thị các đối tượng tham gia quá trình giao tiếp”. [2,
tr.111]. Theo ơng thì đối tương tham gia q trình giao tiếp (người, vật) được
chỉ ra một cách chung nhất ở cương vị ngôi (đại từ xưng hô dùng ở một ngôi
xác định: ngôi 1, ngôi 2, ngôi 3 và đại từ xưng hô dùng ở nhiều ngôi linh
hoạt).
Nguyễn Hữu Quỳnh viết: “Đại từ xưng hô là đại từ dùng để xưng hô

hoặc thay thế và trỏ người. Đại từ xưng hô trong tiếng Việt bao gồm các đại
từ chuyên dùng để xưng hô và các đại từ xưng hô lâm thời, mượn các danh từ
biểu thị quan hệ thân tộc hay quan hệ xã hội” (dẫn theo Đỗ Thị Kim Liên
[16, tr.174].
Theo Phạm Ngọc Thưởng thì “những đại từ nào chỉ rõ vai nhân vật
tham gia trực tiếp vào hành vi xưng hô mới được coi là những đại từ xưng hô
thực thụ”. (dẫn theo Trương Thị Diễm [10, tr.22] ). Do đó, trong tiếng Việt,
những đại từ chỉ ngôi thứ nhất (tôi, tao, tớ,...) và đại từ chỉ ngôi thứ hai (mày,
mi...) mới được coi là đại từ xưng hơ thực thụ.
Theo Trương Thị Diễm thì: “Tiếng Việt có trên 20 đại từ nhân xưng
chun dùng: tơi, tao, tớ, ta, người ta, mày, bay, người, ngài, mình, nó, hắn,
vị, gã, thị, ả, chúng, họ, chúng tôi, chúng ta, chúng nó, chúng mày, bay, nàn g,
chàng, thiếp, ngươi…”[16, tr.25].
Nhìn chung, khi nghiên cứu về đại từ nhân xưng trong tiếng Việt, các
nhà Việt ngữ đều thống nhất quan điểm đó là: “Đại từ nhân xưng có chức
năng thay thế, chỉ trỏ. Trong xưng hô, việc sử dụng các đại từ nhân xưng


15

khơng thật phổ biến vì chúng mang sắc thái thân mật, suồng sã hoặc khơng
kính trọng”
Theo chúng tơi, đại từ nhân xưng là những đại từ chỉ người, dùng để
xưng gọi các thành viên tham gia giao tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp, bao gồm
đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai và đại từ nhân
xưng ngơi thứ ba. Nhìn chung, đại từ nhân xưng trong tiếng Việt thường
xuyên được thay thế bằng các danh từ như: anh, chị, ông, bà, cha, mẹ, ngài,
nàng, chàng, cậu, mợ … tạo thành những sự chuyển đổi phong phú nhằm diễn
đạt các ý nghĩa biểu cảm và tu từ rất tinh tế.
1.2.2.2 Từ xưng hô lâm thời

Theo quan điểm của các nhà Việt ngữ trước đây trong các giáo trình và
sách nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt như Cao Xuân Hạo (2001); Nguyễn
Đức Thắng (2002) đều cho rằng: Bên cạnh nhóm đại từ nhân xưng đích thực
dùng trong xưng hơ, người Việt cịn dùng các đại từ nhân xưng lâm thời gồm
các danh từ thân tộc, danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp để xưng hô.
Diệp Quang Ban trong “Ngữ pháp tiếng Việt. 2009 NXBGD” cho rằng:
“Nhân xưng từ là những từ không mang nghĩa, chúng thuộc vào số những từ
dùng để quy chiếu…Việc xưng hô theo ngơi trong tiếng Việt có điểm riêng là
khơng chỉ dùng nhân xưng từ mà còn dùng các lớp từ khác làm từ chỉ ngơi”.
[1,tr.519].
Ơng quan niệm: “Bên cạnh các nhân xưng từ đích thực, trong xưng hơ
người Việt cịn sử dụng các lớp từ sau: Danh từ chỉ quan hệ thân tộc, danh từ
chỉ chức vụ, một số từ, tổ hợp từ khác”. Ơng cũng nhấn mạnh: “Trong xưng
hơ, chính lớp từ thứ hai tức danh từ chỉ quan hệ thân tộc cho thấy rõ nhất
nghĩa liên nhân của nhân xưng từ trong tiếng Việt”. [1. tr.520].
Ơng cịn cho rằng: “Trong tiếng Việt, việc dùng từ nhân xưng trong
xưng hơ khơng thật phổ biến, vì chúng đem lại sắc thái khơng kính trọng,


16

chúng mang nhiều tính thân mật, suồng sã” [1,tr.521]. Chính vì vậy ơng đưa
ra quan niệm là: “Trong xưng hơ hàng ngày, thay vì việc sử dụng các nhân
xưng từ đích thực thì người Việt sẽ sử dụng các danh từ thân tộc và danh từ
chỉ chức vụ để xưng hơ với nhau”[1, tr.521]. Ngồi ra, Diệp Quang Ban cịn
đề cập đến một số từ ngữ khác dùng trong xưng hô. Như vậy, Diệp Quang
Ban đã đề cập đến việc dùng nhân xưng từ đích thực và các lớp từ khác được
dùng trong xưng hơ. Ơng chẳng những phân biệt nhân xưng từ đích thực với
các lớp từ khác được dùng làm nhân xưng từ, mà ơng cịn chú ý đến sắc thái
của các từ này trong xưng hô của người Việt.

Thật vậy, trong giao tiếp người Việt thường mượn các từ chỉ quan hệ
gia đình, nghề nghiệp, chức vụ, học hàm, học vị,…để xưng gọi, đặc biệt là
các từ chỉ quan hệ gia đình chiếm số lượng lớn và xuất hiện trong nhiều môi
trường hoạt động của con người. Trong giao tiếp, người Việt có xu hướng
“thân tộc hóa” khi hô gọi. “Từ xưng hô và cách xưng hô trong câu hỏi mua
bán bằng tiếng Việt” (Mai Thị Kiều Phượng (2004) “Từ xưng hô và cách
xưng hô trong câu hỏi mua bán bằng tiếng Việt”) .
Theo Trương Thị Diễm thì hệ thống từ xưng hơ trong tiếng Việt ngồi
nhóm đại từ nhân xưng cịn có nhóm những yếu tố xưng hô phi đại từ nhân
xưng. “Bên cạnh các đại từ nhân xưng chuyên dùng, tiếng Việt còn sử dụng
một số lượng lớn các từ và ngữ khác để xưng hơ. Trong số này có: Danh từ
chỉ quan hệ thân tộc, danh từ chỉ quan hệ xã hội, danh từ chỉ chức vụ xã hội
cao hoặc những nghề nghiệp đặc biệt, tổ hợp từ gồm danh từ chỉ quan hệ
thân tộc và đại từ chỉ định, danh từ riêng mà cụ thể là tên riêng của nhân vật
giao tiếp hoặc tên của các người thân, các kết hợp giữa từ xưng hô với tên,
chức danh với tên…”. [10.tr 26]


17

* Xưng hô bằng danh từ thân tộc
Trong tiếng Việt, danh từ thân tộc là các danh từ chỉ những người trong
gia đình, họ hàng thuộc các thế hệ, lớp tuổi, thứ bậc tôn ti (riêng bốn từ: vợ,
chồng, dâu, rể khơng dùng). Đó là các từ: “Ơng, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, chú,
bác, cơ, dì, con, cháu,…” và cả một số danh từ chỉ bạn bè hay ngôi thứ như:
“Bạn, đồng chí, ngài, vị,…” được dùng trong xưng hô. Khi trở thành từ xưng
hô, các danh từ thân tộc đã biểu thị vị trí của các nhân vật trong giao tiếp là
người nói, người nghe hay người được nói tới. Đó chính là phạm trù ngơi.
Hơn nữa, danh từ thân tộc không chỉ nhằm biểu thị phạm trù ngơi mà cịn
nhằm thơng báo gián tiếp về tuổi tác, vị thế xã hội, tình cảm,…giữa các nhân

vật tham gia giao tiếp.
Từ ngữ xưng hô thân tộc sản sinh trong quan hệ giao tiếp giữa gia đình
với gia đình trong chừng mực những gia đình đó phải có quan hệ huyết thống,
hôn nhân hay pháp luật, gồm nhiều thế hệ, nhiều thành viên. Nó là tiểu lớp từ
phản ánh quan hệ thân tộc, chuyên dùng để chỉ các mối quan hệ tương hỗ
giữa các thành viên trong gia tộc khi tiến hành giao tiếp ngơn ngữ với nhau,
có khả năng phân loại và miêu tả các quan hệ thân tộc.
Về bản chất danh từ chỉ quan hệ thân tộc đã phản ánh rõ nét quan hệ
các thành viên trong gia đình người Việt, từ ngữ xưng hơ thân tộc có thể chia
làm hai loại:
- Từ ngữ xưng hô nảy sinh trong nội bộ giao tiếp gia đình gồm hai thế hệ
cha mẹ, con cái, anh chị em, thuộc quan hệ huyết thống bố mẹ, con trai, con
gái, anh, chị em.
- Từ ngữ xưng hô thân tộc sản sinh trong quan hệ giao tiếp giữa gia đình
với gia đình trong chuẩn mực gia đình đó phải có quan hệ huyết thống hôn
nhân hay pháp luật gồm nhiều thế hệ, nhiều thành viên như ơng, bà, cơ, dì,
chú, bác.


18

Như vậy từ xưng hô thân tộc là tiểu lớp từ phản ánh quan hệ thân tộc,
chuyên dùng để chỉ các mối quan hệ tương hỗ giữa các thành viên trong gia
đình khi tiến hành giao tiếp ngơn ngữ với nhau.
Trong gia tộc, cơ sở để gắn kết mọi người là dựa trên quan hệ về mặt
huyết thống trực tiếp hay gián tiếp của các thành viên. Do đó xưng hơ trong
gia tộc khơng chỉ với mục đích xưng hơ mà cịn thực hiện chức năng miêu tả.
Theo đó, Đỗ Hữu Châu đã chia các danh từ thân tộc thành ba nhóm:
- Nhóm 1: u, bầm, cha, má ... (dùng để xưng hơ).
- Nhóm 2: anh, chị, em, chú, bác ... ( dùng để xưng hô và để miêu tả quan hệ).

- Nhóm 3: anh trai, em gái, chị dâu ... (dùng để miêu tả quan hệ). [ 8,tr 76]
* Xưng hơ bằng những từ thân tộc ngồi xã hội
Danh từ thân tộc làm phương tiện xưng hô không chỉ được sử dụng
trong gia đình mà cịn được sử dụng một cách rộng rãi và chiếm ưu thế trong
các mối quan hệ xã hội, giới nghiên cứu gọi đó là xu hướng “gia đình hố”
các danh từ thân tộc trong xưng hơ.
Bởi vì, trong giao tiếp, người nói thường hướng tới người đối thoại với
hai thái độ: Lịch sự hoặc không lịch sự, gắn với các kiểu sắc thái biểu cảm:
Trang trọng, trung hịa, thân mật, suồng sã và thơ tục, khinh thường. Trong
khi đó, các đại từ nhân xưng đích thực trong tiếng Việt ít mang sắc thái trung
tính chủ yếu mang sắc thái không lịch sự. Mặt khác, trong giao tiếp, xưng hô
thường thể hiện ở hai phạm vi: Xưng hơ trong gia tộc và xưng hơ ngồi xã
hội. Hơn nữa, điểm đặc biệt trong giao tiếp của người Việt là quan hệ giữa
người và người trong gia tộc chuyển thành quan hệ giữa người và người trong
xưng hơ ngồi xã hội. Nên bên cạnh những danh từ thân tộc được sử dụng
trong gia đình cịn có lớp từ xưng hơ thân tộc ngồi xã hội.
Xưng hơ bằng những từ thân tộc ngoài xã hội là cách xưng hô với
những người phi huyết thống bằng các danh từ thân tộc. Trong tiếng Việt,


19

phần lớn các danh từ biểu thị quan hệ thân tộc đều có thể chuyển hóa thành từ
xưng hơ ngồi xã hội. Điều đó phản ánh rõ nét tính chất gia đình hóa xa hội
trong quan hệ giao tiếp của người Việt
Tiếng Việt có các từ biểu thị quan hệ thân tộc (cụ, ơng, bà, bố, mẹ, bác,
chú, cơ, dì, cậu, mợ, anh, chị, em, con, cháu … được sử dụng trong xưng hơ
ngồi xã hội.
* Xưng hơ bằng họ tên
Cũng như xưng hô bằng đại từ nhân xưng, xưng hơ bằng họ tên thường

khơng nói lên tiêu chí, vị thế và đặc trưng xã hội của người tham gia giao tiếp.
Tuy nhiên, trong tiếng Việt, khi nào dùng họ tê, khi nào dùng tên, khi nào
dùng cả họ và tên đều có tác dụng thể hiện sắc thái trang trọng hay suồng sã
của cuộc thoại.
Họ tên được dùng trong giao tiếp với sắc thái ý nghĩa trung tính, thể
hiện sự bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, trong các môi
trường giao tiếp khác nhau, nhằm thể hiện các sắc thái tình cảm hoặc trân
trọng, hoặc thân mật, suồng sã mà bản thân cách xưng hô bằng họ hoặc tên
hoặc cả họ và tên không thể hiện hết được, người ta thường kết hợp họ/ tên
hoặc họ tên với các thành tố biểu thị xưng hô khác để tạo thành cụm từ dùng
để xưng hô lâm thời, như đại từ nhân xưng, danh từ chỉ quan hệ thân tộc,
danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ hoặc các từ xưng hô thông dụng.
Thông thường một cấu trúc đầy đủ về tên của người Việt bao gồm ba
yếu tố: họ + tên đệm (lót) + tên riêng. Tuy nhiên, vì vai trị của tên lót khơng
có tính bắt buộc nên nhiều khi có thể vắng mặt. Việc sử dụng họ và tên riêng
trong xưng hô ở tiếng Việt cũng có nhiều điều đáng lưu ý. Trong tiếng Việt,
cả ba yếu tố (họ + tên đệm + tên riêng) đều có thể đứng độc lập làm từ xưng
hơ tuy nhiên, mức độ sử dụng của chúng cũng khác nhau


20

Dùng họ để xưng hô chủ yếu phổ biến trong xã hội phong kiến. Hiện
nay cách xưng hô này chỉ tồn tại trong giao tiếp của người nước ngoài ở Việt
Nam.
Việc dùng tên riêng để xưng hô khá phổ biến trong giao tiếp
của người Việt, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mối quan hệ giữa các cá
nhân, hoàn cảnh giao tiếp ... Xưng hô bằng tên riêng giúp tạo sự thân mật và
đạt hiệu quả giao tiếp cao. Tuy nhiên, trong hồn cảnh giao tiếp có tính quy
thức và đối với những người có vị thế xã hội cao hơn mình hay căn cứ vào

“chức vị trong gia đình... mà chủ thể giao tiếp thường có sự kết hợp “danh
từ thân tộc, danh từ chỉ quan hệ xã hội + tên riêng”. Ví dụ: cậu Việt, cơ
Hằng,...;
* Xưng hô bằng từ chỉ nghề nghiệp, chức danh
Từ chỉ nghề nghiệp là từ chỉ những công việc được coi là nguồn sống
chính mà cá nhân theo đuổi, chẳng hạn như: công nhân, nông dân, giáo viên,
bác sĩ …
Từ chỉ chức danh là từ chỉ những học hàm, học vị để phân biệt đẳng
cấp của cán bộ công chức như: giáo sư, thạc sĩ, tiến sĩ …
“Khi sử dụng từ xưng hơ người nói có thể sử dụng từ xưng hơ chỉ nghề
nghiệp, chức vụ, từ chỉ quan hệ thân tộc của người nghe (do người nói quy
chiếu) để gọi người nghe với mục đích đề cao, tơn trọng người nghe, hoặc tỏ
thái độ lịch sự” [16, tr 180]
Thật vậy, trong xưng hô danh từ chỉ nghề nghiệp, chức danh thường
được dùng trong hồn cảnh giao tiếp có tính quy thức để miêu tả đối tượng
giao tiếp. Trong tiếng Việt, khi giao tiếp, lớp từ chỉ nghề nghiệp (như: giáo
viên, học sinh, bộ đội, cơng nhân...) thường khơng đứng một mình. Người ta
ít sử dụng các phát ngơn như: học sinh ơi, cơng nhân kia ... mà phải có các
danh từ thân tộc đi kèm, như: em học sinh ơi, bác bảo vệ ơi... Việc kết hợp


21

này khơng chỉ tạo sự thân mật mà cịn mang ý nghĩa miêu tả, chỉ thị đối
tượng. Ngược lại, lớp từ chỉ chức vị lại có thể đứng độc lập để xưng hô mà
không cần yếu tố đi kèm nào. Điều đặc biệt là lớp từ chỉ chức vị thường chỉ
được dùng ở một phía, khi người có chức vị thấp dùng để “hơ” với người có
chức vị cao hơn mình.
* Xưng hơ bằng những danh từ chỉ quan hệ xã hội
Ngồi các nhóm chính, trong tiếng Việt cịn sử dụng một số kiểu loại

xưng hô khác lâm thời làm phương tiện xưng hơ. Tính lâm thời thể hiện ở
nhóm này khá rõ nét, nếu tách các yếu tố này khỏi ngơn cảnh thì ta khó xác
định được vai trị của yếu tố đó (nhất là đối với các cụm từ lâm thời làm
phương tiện xưng hô).
Theo của chúng tôi, để cho giao tiếp phát triển và tạo sự hứng thú đối
với đối phương, ngồi các nhóm đóng vai trị là từ xưng hơ chủ yếu trên thì
chủ thể giao tiếp cịn sử dụng rộng rãi các nhóm từ sau:
- Các danh từ chỉ nơi chốn: đây, ấy, đó, đằng ấy, đằng này ...
- Các danh từ chỉ quan hệ xã hội: bạn, đồng chí, đồng niên ...
- Một số động từ, tính từ chuyển hố như: cưng, nhỏ, bé, mập, móm…
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tơi tập trung vào nhóm từ
xưng hơ danh từ chỉ quan hệ xã hội với từ xưng hô thông dụng: Đồng chí.
Từ “đồng chí” vốn là từ ghép hợp nghĩa biểu thị, những người có cùng
chí hướng, có cùng mục đích, cùng lí tưởng. Từ “đồng chí” xuất hiện cùng
với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện tinh thần đoàn kết của
những con người cùng chung lí tưởng, cùng khát vọng.
Từ “đồng chí” mang màu sắc chính trị rõ rệt khơng phân biệt độ tuổi và
giới tính cũng như khơng phân biệt vị thế xã hội cao thấp, mọi người đều có
thể xưng hơ là “đồng chí” với những độ tuổi khác nhau có tiểu đồng chí, lão
đồng chí. Với những người lạ mặt mặc dù chưa rõ thân thế của người ta vẫn


22

có thể xưng bằng từ đồng chí vừa thyaan mật, vừa trang trọng, được người
nghê chấp nhận một cách thoải mái.
1.3 Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn của ông
1.3.1 Về Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu,
xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc tỉnh Hưng Yên,

trong một gia đình nho học. Ơng thân sinh là Nguyễn Đạo Khang làm huấn
đạo. Vì nhà nghèo lại đơng anh em nên năm lên bốn tuổi, Nguyễn Công Hoan
được người bác nuôi là Nguyễn Đạo Quán cho ăn học, ông là người ln
chăm sóc việc học hành cho con cháu, thích sưu tầm tục ngữ, ca dao, soạn
sách dạy chữ nho với đề tài Việt Nam. Bà nội ông hay dạy truyền khẩu nhiều
thơ phú, truyện cổ dân gian cho các cháu nên niêm luật của thơ ca, thanh điệu
của ngôn ngữ và sự say mê văn học đã thấm dần vào ông ngay từ hồi thơ ấu.
Năm lên 6 tuổi, Nguyễn Công Hoan học chữ nho, rồi chuyển sang học
chữ Pháp. Khi 9 tuổi ông bắt đầu lên Hà Nội học trường Bưởi. Năm 1922 ông
thi đỗ vào trường sư phạm và đến năm 1926 thì đi dạy học. Xuất thân từ gia
đình quan lại lép vế, sống trong cảnh bị chén ép luôn chứng kiến được bao
cảnh xấu xa thối nát của bọn quan lại, chính điều này đã tác động đến tư
tưởng của ông sau này. Bước vào đời nhà văn phải nếm trải nhiều mất mát và
chịu nhiều ngược đãi của chế độ. Chính hồn cảnh đó đã đem đến cho nhà
văn một vốn ống dồi dào để cống hiến cho độc giả những trang viết hay về
cuộc sống.
Ông bắt đầu viết văn từ năm 1920 lúc đang học ở trường Bưởi. Năm
1923 (20 tuổi), ơng có tập truyện ngắn đầu tiên (Kiếp hồng nhan) được xuất
bản. Đầu năm 1930 ơng có nhiều truyện đăng báo được mọi người chú ý và
đến năm 1935 (tập Kép Tư Bền ra đời) thì nổi tiếng khắp Trung, Nam, Bắc.


23

Nguyễn Cơng Hoan khi lớn lên đã có nhiều năm làm nghề dạy học,
trong lúc vừa dạy học vừa viết văn có đụng chạm đến bộ máy cai trị của thực
dân và có thời gian tham gia Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học và các tổ
chức khác nên ông ln bị mật thám theo dõi. Ơng đã mấy lần bị bắt và phải
chuyển nhiều nơi. Lê Thị Đức Hạnh đã nói “Với người khác thì đó là điều
đáng ngại, nhưng với Nguyễn Cơng Hoan thì dường như “thượng đế” đã ban

cho ơng một “ân huệ” có dịp “đi thực tế” để tích lũy vốn sống nhiều mặt về
cái xã hội đương thời”.[11, tr.18]
Là người có trực quan nhạy bén, có tấm lịng trung thực, có lương tâm
trong sạch, Nguyễn Công Hoan luôn cảm thấy băn khoăn, day dứt trong lòng.
Để giải tỏa những nỗi niềm ấy, là một người vốn có năng khiếu văn chương
lại được ảnh hưởng văn học của gia đình nên ơng đã dùng ngịi bút viết văn
châm biếm để đả kích nhằm vào những sự tàn ác, bất công trong xã hội. Từ
những nỗi đau của đời người đến sự dồn nén bức bối của đời mình đã khiến
lịng ơng quặn thắt. Lê Thị Đức Hạnh đã từng viết “Cho nên với Nguyễn
Công Hoan từ trước đến sau, viết văn là để giải bày tâm sự và tỏ thái độ đối
với cuộc sống, chứ ông chưa bao giờ “có ý định viết văn để được gọi là nhà
văn”. Ơng chỉ khiêm tốn nhận mình là “người viết văn”. [11, tr.19]
Ngoài việc viết văn và dạy học, Nguyễn Cơng Hoan cịn tích cực tham
gia hoạt động kháng chiến và giữ nhiều chức vụ khác nhau nhưng ngịi bút
viết văn của ơng vẫn khơng bao giờ biết ngừng nghỉ. Dù cho dạy học, viết văn
hay tham gia cách mạng thì Nguyễn Cơng Hoan vẫn ln là con người thẳng
thắn, nhân hậu. Trong cuộc đời dù có nhiều lúc chán nản nhưng ơng ln
sống vui vẻ, hịa mình vào đời sống xã hội. Cũng chính điều này đã giúp ông
thấy được hiện thực cuộc sống xung quanh, đặc biệt là bộ mặt thật của bọn
quan lại. Tuy vậy trong cuộc sống Nguyễn Công Hoan luôn luôn khiêm tốn
giản dị nhân ái và độ lượng. Ơng từng viết “Tơi chịu ảnh hưởng của các bậc


24

tiền thân không nhỏ” (Đời viết văn của tôi, tr 50) dẫn theo Lê Thị Đức Hạnh
[11, tr.41]. Ông chịu khó đọc và thẳng thắn khen người đi trước, thường động
viên khích lệ, khi cần cũng sẵn sàng giúp đỡ những người cầm bút ở thế hệ
trẻ. Khi nhìn người, nhìn việc, ơng thường nhìn mặt tốt nhiều hơn. Với bản
thân ơng khơng thích tự đề cao cũng khơng thích ai khen mình quá đáng. Sau

gần 60 năm cầm bút, ngày 6/6/1977 ông đã qua đời, sự ra đi của ông là niềm
mất mát lớn lao của nền văn học nước nhà và để lại niềm thương tiếc khôn
nguôi cho bao thế hệ bạn đọc.
Một tài năng và một nhân cách đẹp như Nguyễn Công Hoan thật xứng
đáng với một vị trí trang trọng trong văn học nước nhà.
1.3.2 Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan được nhắc đến trước hết là một bậc thầy truyện
ngắn trong dòng văn học hiện thực phê phán. Thế giới truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan đa dạng, phong phú như một “bách khoa thư”, một “tấn trị đời”.
Truyện ngắn Nguyễn Cơng Hoan có nhiều nét giống với truyện cười dân gian,
tiếp thu được truyền thống lạc quan của nhân dân, muốn dùng tiếng cười như
một “vũ khí của người mạnh” để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ vãng.
Nói đến Nguyễn Cơng Hoan là nói đến “một đời văn lực lưỡng”. Ơng
khơng chỉ có những đóng góp to lớn cho sự hình thành và phát triển của trào
lưu văn học hiện thực phê phán mà cịn có cơng xây dựng nên một nền văn
xuôi Việt Nam hiện đại.
Nguyễn Công Hoan bắt đầu nghiệp văn chương từ những năm 1920 với
những truyện ngắn đầu tay Kiếp hồng nhan, Sóng vũ mơn, Cơ hàng nước…
lấy đề tài từ những chuyện xung quanh trong cuộc sống. Những truyện ngắn
này tuy không mấy tiếng vang và còn nhiều hạn chế về cả nội dung và nghệ
thuật nhưng đây có thể coi là một dấu ấn quan trọng, bộc lộ tinh thần, tư
tưởng cơ bản của ông trong việc có ý thức dân tộc, chống sự bất cơng vơ lí và


25

có khuynh hướng trào phúng. Và thời kì này cũng có thể coi là thời kỳ tập
dượt quan trọng và hứa hẹn một tài năng nảy nở sau này.
Những năm 1930 - 1935 thì tài năng của Nguyễn Cơng Hoan thực sự
nở rộ. Bám sát vào cuộc sống, những truyện ngắn có giá trị mang ý nghĩa phê

phán, châm biếm mạnh mẽ ra đời như: Ngựa người và người ngựa, Răng con
chó của nhà tư sản, Thế là mợ nó đi Tây… Và cùng với sự ra đời của Kép Tư
Bền, nhà văn đã vượt lên vị trí hàng đầu trong số những người viết văn hiện
thực và góp phần thúc đẩy khuynh hướng văn học này phát triển thành một
trào lưu mạnh mẽ. Mỗi truyện ngắn thời kì này là một câu chuyện, một mảnh
đời, một kiếp người trong xã hội. Tất cả hợp thành một thế giới rộng lớn bao
quát đầy đủ xã hội cũ suy đồi.
Với nghệ thuật viết truyện ngắn, phải nói rằng Nguyễn Cơng Hoan là
người có nhiều khả năng và kinh nghiệm. Truyện của ông thường rất ngắn.
Lời văn khúc chiết, giản dị. Cốt truyện được dẫn dắt một cách có nghệ thuật
để hấp dẫn người đọc.
Nguyễn Công Hoan là một nhà văn viết sớm và viết nhiều, truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan hợp thành một bức tranh rộng lớn, khá đầy đủ về xã
hội cũ. Hầu hết các tầng lớp trong xã hội thực dân phong kiến đều có mặt:
nơng dân, cơng nhân, tiểu tư sản, trí thức, thầy thuốc, nhà văn, nhà giáo, các
nghệ sĩ, tư sản, nhà buôn, địa chủ, quan lại, cường hào, học sinh, cô đào, đứa
ở, phu xe, kẻ cắp…
Bước sang thời kì mặt trận dân chủ 1936 – 1939, Nguyễn Công Hoan
viết càng mạnh mẽ, sắc sảo, đề tài khai thác thêm đa dạng, đa diện hơn trước.
Ông khai thác cả một đề tài mà trước đây chưa có điều kiện đề cập tới, vạch
mặt, kể tội, đi sâu vào từng bản chất xấu xa của bọn thực dân. Trong đó đáng
chú ý phải kể đến truyện ngắn “Bước đường cùng”, “Cái thủ lợn”, “Đồng


×