Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Bán đảo Ả rập phần 26 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.58 KB, 6 trang )

Bán đảo Ả rập

Hậu quả lâu dài của cuộc chiến tranh ( chương 26 )

Sự thảo luận về hòa bình vào lúc kết thúc chiến tranh là lần đầu
tiên người Arab và người Do Thái chính thức gặp gỡ trong một
cuộc thảo luận công khai trực tiếp kể từ sau cuộc chiến tranh năm
1948.

Ở mức độ chiến lược, khi kết thúc chiến tranh, Israel giành lại
được lãnh thổ ở cao nguyên Golan và bao vây tập đoàn quân số 3
của Ai Cập. Một số người tin rằng lệnh ngừng bắn ngăn chặn Israel
giáng một đòn tàn độc nhất, như một báo cáo của quân đoàn hải
quân Mỹ xác nhận: “Họ lúc này đang ở vị trí là mối đe dọa với hậu
phương và các vùng tiếp tế của toàn bộ quân đội Ai Cập. Phần lớn
nhờ các nỗ lực của Liên Xô, nước lo lắng về một thất bại nghiêm
trọng của Ai Cập, hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc mới áp đặt lệnh
ngừng bắn ngày 22-10”.

Báo cáo cũng biện luận rằng phía Arab đã thành công trong việc
gây bất ngờ với Israel và các cơ quan tình báo toàn thế giới: “Hoàn
toàn từ góc nhìn quân sự, thì thành công quan trọng nhất của Arab
là sự bất ngờ chiến lược đã đạt được. Trong khi điều này được trợ
giúp ở mức độ không nhỏ bởi các sai lầm của tình báo Israel và
ban lãnh đạo chính trị, quân sự đất nước này, chủ yếu vẫn phải
công nhận kế hoạch nghi binh cực kỳ phức tạp của người Ai Cập.
Họ đã thành công trong việc thuyết phục bộ chỉ huy Israel rằng các
hoạt động quân sự rầm rộ ở bờ tây kênh đào trong suốt mùa hè và
mùa thu năm 1973 không là gì khác ngoài một chuỗi các chiến
dịch huấn luyện và diễn tập. Sự nghi binh này chắc phải được coi
là một trong số những kế hoạch nghi binh nổi tiếng trong lịch sử


quân sự. Kế hoạch thành công không chỉ ở mức độ tình báo Israel
mà còn với các cơ quan tình báo trên toàn thế giới”.
Đối với các quốc gia Arab (đặc biệt là Ai Cập), tổn thương tinh
thần của thất bại trong cuộc chiến Sáu Ngày đã được chữa lành.
Trên nhiều phương diện, nó cho phép họ đàm phán bình đẳng với
Israel. Tuy nhiên, dù cuộc chiến đã bắt đầu theo chiều hướng mà
các nhà lãnh đạo Arab mong muốn, nhưng kết thúc chiến tranh họ
mới chỉ giành lại được phần lãnh thổ hạn chế ở mặt trận Sinai,
trong khi Israel lại giành thêm phần lãnh thổ trên cao nguyên
Golan nhiều hơn lúc trước chiến tranh. Và dù cũng có một thực tế
là Israel đã giành được chỗ đứng vững chắc ở vùng đất châu Phi
phía tây kênh đào, nhưng chiến tranh đã giúp thuyết phục nhiều
nước trong thế giới Arab rằng Israel không thể bị đánh bại về mặt
quân sự, do đó củng cố cho các hành động hòa bình. Cuộc chiến
thực sự chấm dứt tham vọng của người Arab trong việc hủy diệt
Israel bằng sức mạnh.

Cuộc chiến gây ra hậu quả choáng váng với dân chúng Israel. Sau
chiến thắng của họ trong cuộc chiến Sáu Ngày, quân đội Israel trở
nên kiêu ngạo. Những thất bại đột ngột và gây sốc xảy ra lúc chiến
tranh bắt đầu đã giáng một cú đòn tâm lý kinh hoàng cho người Do
Thái, những người đã nghĩ rằng họ có đội quân uy quyền tối cao
trong khu vực. Tuy nhiên, họ bắt đầu nhận ra một điều kinh ngạc,
hầu như chưa từng xảy ra, đã thay đổi hoàn toàn những gì họ có: “
Hoảng loạn từ những đòn tấn công bất thình lình từ 2 mặt trận với
một số lượng lớn quân đội vẫn chưa được huy động, và bị đe dọa
bởi những sự thật choáng váng trên chiến trường, Israel lúc này
như một quốc gia hùng mạnh sắp phải quỳ gối đầu hàng. Tuy
nhiên, trong vòng vài ngày, nó đã lấy lại sự thăng bằng và trong
gần 2 tuần, nó đã đe dọa thủ đô của cả 2 kẻ địch, một thành tựu

hầu như không xảy ra trong lịch sử”.

Tuy nhiên, ở Israel, tỷ lệ thương vong lại khá cao. Tính theo đầu
người, Israel phải chịu thiệt hại gấp 3 lần trong chiến trận so với
Mỹ đã gánh chịu trong gần một thập kỷ giao tranh ở Việt Nam.

Để trả đũa việc Mỹ ủng hộ Israel, các thành viên Arab của tổ chức
OPEC, đứng đầu là Saudi Arabia, đã quyết định giảm sản lượng
dầu 5% mỗi tháng vào ngày 17-10. Vào ngày 19-10, tổng thống
Nixon cho phép viện trợ quân sự 2,2 tỉ đô la dành riêng cho Israel.
Đáp lại, Saudi Arabia tuyên bố cấm vận với Mỹ, sau đó được
nhiều nước xuất khẩu dầu khác tham gia, và mở rộng cấm vận với
cả Hà Lan và các quốc gia khác, gây ra cuộc khủng hoảng năng
lượng năm 1973.

Thành công ban đầu của cuộc chiến đã gia tăng mạnh mẽ uy tín
của Sadat, tạo cho ông quyền lực vững chắc ở Ai Cập vào cơ hội
để đề xướng nhiều cải cách mà ông thấy cần thiết. Trong những
năm sau đó thì điều này lu mờ dần, và cuộc bạo loạn lương thực
chống chính phủ ở Cairo năm 1973 đã có khẩu hiệu là: “Người anh
hùng của cuộc vượt kênh, bữa ăn sáng của chúng tôi đâu?”

Những ảnh hưởng sau đó ở Israel

Một làn sóng phản đối chính phủ Israel đã bắt đầu 4 tháng sau khi
chiến tranh kết thúc. Phong trào này được lãnh đạo bởi Motti
Ashkenazi, chỉ huy của công sự Budapest, ở cực bắc pháo đài Bar-
Lev và là công sự duy nhất không bị Ai Cập chiếm giữ trong suốt
cuộc chiến. Sự giận dữ đối với chính phủ (và đặc biệt là bộ trưởng
quốc phòng Dayan) gia tăng. Shimon Agranat, chủ tịch tòa án tối

cao Israel, đã được yêu cầu đứng đầu một cuộc điều tra, gọi là ủy
ban Agranat, về những sự kiện dẫn đến chiến tranh và những thất
bại trong vài ngày đầu tiên.

Ủy ban Agranat đã công bố những phát hiện sơ bộ của họ vào ngày
2-4-1974. Sáu người sau bị buộc phải chịu trách nhiệm cho những
thất bại của Israel:

- Tham mưu trưởng lực lượng phòng vệ Israel (IDF) David Elazar
được đề nghị bị sa thải, sau khi ủy ban nhận thấy ông gánh “trách
nhiệm cá nhân cho những đánh giá về tình trạng và sự chuẩn bị
chiến đấu của IDF”.

- Giám đốc tình báo Aluf Eli Zeira, và cấp phó của ông, người
đứng đầu cơ quan nghiên cứu, chuẩn tướng Aryeh Shalev, được đề
nghị bị sa thải.

- Trung tá Bandman, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu tình báo
quân sự Aman đặc trách về Ai Cập, và trung tá Gedelia, giám đốc
tình báo của bộ chỉ huy miền nam, được đề nghị chuyển khỏi công
tác tình báo.

- Shmuel Gonen, chỉ huy mặt trận phía nam, được đề nghị bị giáng
chức. Ông bị buộc rời khỏi quân đội sau sự công bố bản báo cáo
cuối cùng của ủy ban, vào ngày 30-1-1975, trong đó đã phát hiện
ra rằng “ông đã thất bại trong việc thực hiện nhiệm vụ một cách
thích đáng, và gánh chịu nhiều trách nhiệm đối với tình thế hiểm
nghèo mà quân đội của chúng ta gặp phải”.

Mặc dù bản báo cáo đã xóa sạch trách nhiệm của thủ tướng Meir

và bộ trưởng quốc phòng Dayan, nhưng những lời kêu gọi từ chức
dành cho họ (đặc biệt là với Dayan) ngày càng trở nên mạnh mẽ
hơn.

Cuối cùng, vào ngày 11-4-1974, Golda Meir đã từ chức. Chính phủ
của bà cũng làm theo, bao gồm cả Dayan, người trước đó đã đề
nghị được từ chức 2 lần và đều bị Meir bác bỏ. Yitzhak Rabin,
người đã dành phần lớn thời gian làm cố vấn cho Elazar, trở thành
người đứng đầu chính phủ mới, được bầu vào tháng 6.

Vào năm 1999, vấn đề được lật lại bởi ban lãnh đạo chính phủ
Israel để ngăn chặn những thiếu sót tương tự lại lặp lại. Hội đồng
an ninh quốc gia Israel đã được thành lập để cải thiện sự phối hợp
giữa các cơ quan an ninh và tình báo khác nhau.

Hiệp ước trại David

Chính phủ của Rabin bị dính phải 2 vụ bê bối, và ông đã buộc phải
ra đi vào năm 1977. Đảng Likud cánh hữu, dưới sự lãnh đạo của
Menachem Begin, đã chiến thắng trong cuộc bầu cử sau đó. Điều
này đánh dấu một sự thay đổi lịch sử trong bối cảnh chính trị
Israel, lần đầu tiên từ khi nhà nước này được thành lập, liên minh
cầm quyền trong chính phủ không do đảng Lao Động lãnh đạo.

Sadat, người tham gia cuộc chiến nhằm mục đích lấy lại Sinai từ
tay Israel, ngày càng nản lòng trước những bước đi chậm chạp của
tiến trình hòa bình. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1977 của
phóng viên CBS News là Walter Cronkite, Sadat thừa nhận rằng
ông đã mở một cuộc đối thoại mang tính xây dựng về hòa bình,
bao gồm cả một chuyến viếng thăm cấp nhà nước. Đây dường như

là một sự trút hết cõi lòng mình của ông, và trong cuộc phỏng vấn
sau đó cũng với phóng viên này, thủ tướng cứng rắn Begin – có lẽ
không muốn bị so sánh là không thiện chí như Sadat – đã nói rằng
ông rất sẵn lòng tiến tới mối quan hệ tốt đẹp hơn và đã đề xuất một
lời mời cho một chuyến viếng thăm như vậy. Vì vậy, vào tháng 11
của năm đó, Sadat đã tiến hành một bước đi chưa có tiền lệ là thăm
Israel, trở thành nhà lãnh đạo Arab đầu tiên làm như thế và coi như
đã công nhận nhà nước Do Thái.

Hành động này đã khởi động cho một tiến trình hòa bình. Tổng
thống Mỹ Jimmy Carter đã mời cả Sadat và Begin đến một hội
nghị thượng đỉnh ở trại David để đàm phán về sự hòa giải cuối
cùng. Cuộc hội đàm được tổ chức từ ngày 5-17 tháng 9 năm 1978.
Cuối cùng, cuộc hội đàm đã thành công, và Israel cùng Ai Cập ký
hiệp ước hòa bình Israel-Ai Cập năm 1979. Israel rút quân và các
khu định cư khỏi bán đảo Sinai, đổi lại là mối quan hệ bình thường
từ phía Ai Cập và một nền hòa bình lâu dài.

Nhiều nước trong cộng đồng Arab đã giận dữ khi thấy Ai Cập hòa
bình với Israel. Ai Cập bị khai trừ ra khỏi liên đoàn Arab. Sự căng
thẳng của Ai Cập với các nước Arab láng giềng lên đến cực điểm
vào năm 1977 trong cuộc chiến tranh ngắn ngủi Libye-Ai Cập.

Anwar Sadat đã bị ám sát 2 năm sau đó, vào ngày 6-10-1981, khi

×