Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIÊU LUẬN QTNNL đánh giá nguồn nhân lực chất lương cao tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.54 KB, 14 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay nguồn nhân lực con người trở thành yếu tố trung tâm, quyết định nhất đối với sự phát
triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC) là bộ phận tinh hoa nhất,
gồm những người có trình độ học vấn và chun mơn cao, có khả năng thích ứng nhanh với mơi
trường lao động và sự thay đổi của khoa học, cơng nghệ, có khả năng vận dụng, sáng tạo tri thức
khoa học, có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt. NNLCLC không chỉ là yếu tố quyết định trực tiếp
năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, mà còn là yếu tố quyết
định thịnh suy của mỗi quốc gia.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố phát triển kinh tế rất nhanh tại Việt Nam,
cùng với đó thành phố Hồ Chí Minh sẽ đối diện với những khó khăn nhất định để phát triển kinh
tế. Một trong những yếu tố quyết định sự phát triển và cạnh tranh đó chính là nguồn chất xám
hiện tại ở thành phố Hồ Chí Minh. Và nhân tố quyết định đến sự khác biệt để phát triển kinh tế
đó chính là ở nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời nguồn nhân lực chất lượng, trình độ cao
sẽ ảnh hưởng có tính quyết định đến chất lượng, tốc độ và hiệu quả phát triển của nền kinh tế, xã
hội, đặc biệt trong thời đại cạnh tranh toàn cầu và hội nhập kinh tế thế giới,
Chính vì những điều quan trọng nêu trên nên tôi chọn đề tài đánh giá nguồn nhân lực chất lương
cao tại thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu, nhằm giúp tơi học tốt hơn mơn Nguồn nhân lực
và đánh giá được tình hình cung cầu thị trường lao động để có định hướng tốt cho bản thân sau
khi tốt nghiệp bậc đại học.
Bài tiểu luận này chủ yếu đánh giá thực trạng tình hình số lượng lao động là nguồn nhân lực chất
lượng cao qua nhiều năm, vì việc phát triển cùng với đào tạo và phân bố nguồn nhân lực chất
lượng cao cần trải qua một quá trình lâu dài.


CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO
1.1 Các khái niệm:
Các tài liệu nghiên cứu gần đây cho thấy các tác giả khi tiếp cận khái niệm nguồn nhân lực chất
lượng cao đều thiên về cách nhìn nhận, chỉ ra các tiêu chí để xác định nguồn nhân lực chất lượng
cao.
Sự phát triển của phân công lao động có quan hệ chặt chẽ với q trình phát triển của khoa học


cơng nghệ. Từ đó kéo theo sự hình thành các nguồn nhân lực khác nhau theo hương phát triển
của phân công lao động xã hội.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm chỉ những người lao động cụ thể, có trình độ lành
ngành (về chun môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể, theo tiêu thức phân loại lao
động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (đại học, trên đại học, lao động kỹ thuật lành nghề); có
kỹ năng lao động giỏi và khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của cơng
nghệ sản xuất kinh doanh; có sức khỏe và phẩm chất tốt; có khả năng vận dụng sáng tạo những
tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất
lao động, chất lượng và hiệu quả cao.
( Nguồn: />NNL CLC cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao
động, về tính tích cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn nhân lực chất
lượng cao có thể khơng cần đơng về số lượng, nhưng phải đi vào thực chất.
( Nguồn: />1.2 Vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế- xã hội ta hiện nay:
Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động ln ln đóng vai
trị quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế.
Theo nhà kinh tế người Anh , William Petty cho rằng lao động là cha, đất đai là
mẹ của mọi của cải vật chất; C.Mác cho rằng con người là yếu tố số một của LSX. Trong truyền
thống VN xác định ''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ". Nhà tương lai Mỹ Avill Toffer nhấn
mạnh vai trị của lao động tri thức, theo ơng ta "Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất;
Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng khơng những khơng mất đi mà cịn lớn lên" ( Power
Shift-Thăng trầm quyền lực- Avill Toffer)


Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định q trình tăng trưởng
và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai
thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học cơng
nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó NNL được xem là năng lực nội sinh
chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, NNL
với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó khơng bị cạn kiệt nếu biết bồi

dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố
có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với NNL một cách có hiệu quả. Vì vậy, con
người với tư cách là NNL, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung
tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định q trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay một quốc gia có thể khơng giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận
lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện :
+ Một là, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
+ Hai là, quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
+ Ba là, quốc gia đó có đội ngũ cơng nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.
+ Bốn là, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành công
của sự nghiệp CNH, HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một q trình tất yếu
để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cịn thấp, do đó u cầu nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí
lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền
vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm phát triển bền vững
Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao tại thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1 Tổng quan chung về nguồn nhân lực tại thành phố Hồ Chí Minh:

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có lợi thế dân số đông, nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động
khá dồi dào. Theo tính tốn của trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao
động thành phố Hồ Chí Minh, ước tính năm 2015 cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động có
5.898.134 người chiếm 71,59% tổng dân số; lực lượng lao động có 4.243.578 người chiếm
51,51% so với tổng dân số, trong đó lao động đang làm việc chiếm 96,17%. Tổng số lao động
dang làm việc với chuyên môn cao chiếm 15,20%; chuyên môn kỹ thuật bậc trung chiếm 5,90%;
các ngành nghề đơn giản và thợ chiếm 41,40% và các loại công việc khác chiếm 33,1%
Bảng 1: Lao động Thành phố Hồ Chí Minh
Chỉ tiêu
Tổng số người trong độ tuổi lao động
Lực lượng lao động
Tổng số lao động có việc làm
Lao động được giải quyết việc làm

2013
5.734.206
4.122.300
4.024.000
293.228

2014
5.810.565
4.190.525
4.048.000
290.500

2015
5.898.134
4.243.578
4.081.255

291.300

( Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng Cục Thống Kê và tính tốn của Trung tâm
Dự báo Nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP. HCM)
2.1.2 Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP. HCM:
TP. Hồ Chí Minh, từ đổi mới đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn và khá toàn diện.
Trong đó, kinh tế là lĩnh vực nổi bật và tiêu biểu nhất. Nếu như giai đoạn trước đổi mới (19761985) tổng sản phẩm nội địa (GDP) chỉ tăng bình quân 2,7%/năm, thì giai đoạn 1986-2015 đạt
mức bình quân 10,05%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng CNH, HĐH. Thành
phố đã đóng góp 30% trong tổng thu ngân sách quốc gia, 1/3 giá trị sản xuất công nghiệp, 1/5
kim ngạch xuất khẩu, 1/5 quy mô kinh tế của cả nước, trở thành hạt nhân của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam và là đầu tàu kinh tế của cả nước. Tuy nhiên, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố
lần thứ X (2015) đã thẳng thắn chỉ ra một số hạn chế, yếu kém: “chuyển dịch cơ cấu nội bộ
ngành kinh tế còn chậm, tỷ trọng các ngành cơng nghiệp và dịch vụ có giá trị cịn thấp, cơng
nghiệp cịn nặng tính gia cơng… Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế cịn thấp, hàm lượng khoa học, cơng nghệ trong giá trị sản phẩm cịn thấp”. Vì vậy, đổi


mới mơ hình kinh tế theo hướng “Phát triển nhanh dịch vụ, nhất là các ngành có hàm lượng tri
thức, giá trị gia tăng cao, các ngành công nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp công nghệ cao”
là một yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, địi hỏi phải phát huy có hiệu quả
các nguồn lực, trong đó NNLCLC được coi là một khâu đột phá mang tính chiến lược, yếu tố
quyết định hàng đầu để thành phố phát triển nhanh, bền vững.
Từ khi đổi mới đến nay, quy mô đào tạo NNLCLC của thành phố không ngừng phát triển theo
từng năm. Nếu năm 2000 số trường là 18, số sinh viên là 254.695, thì đến năm 2013 là 75 trường
(gấp 4,4 lần) và 519.516 sinh viên (gấp 2 lần). Không chỉ quy mô đào tạo cao đẳng, đại học tăng
nhanh, mà sau đại học cũng tăng lên rất đáng kể. Nếu trước đây, chỉ có một số trường đại học
cơng lập lớn mới đủ điều kiện đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ; thì nay là đại đa số các trường đại học
công lập và ngồi cơng lập. Do đó, số học viên cao học và nghiên cứu sinh thời gian qua có sự
thay đổi rất lớn. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, giai đoạn 2010-2013 trung bình mỗi năm
tăng 15%; tỷ lệ sinh viên sau đại học so với sinh viên đại học tăng từ 14% (năm 2011) lên 17%

(năm 2013). Chất lượng đào tạo NNLCLC cũng được nâng lên, thể hiện ở số lượng sinh viên đại
học và cao đẳng tăng hằng năm. Nếu năm 2005 có 49.437 sinh viên tốt nghiệp, thì đến năm 2011
có 99.476, tăng hơn 2 lần, dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực có chuyển biến theo hướng tích
cực. Trong hệ thống chính trị, đến tháng 6-2012, số người có trình độ đại học trong cán bộ, công
chức, viên chức của các sở, ngành là 52.715, cao đẳng 374, thạc sỹ 1.874 và tiến sỹ là 193, tăng
đáng kể so với trước. Như vậy, sự tăng lên về số lượng, nâng cao về chất lượng đã dẫn đến cơ
cấu lao động có sự chuyển dịch rất tích cực. Lao động trong khu vực nơng, lâm, ngư nghiệp
giảm; công nghiệp, xây dựng, dịch vụ tăng. Cụ thể, giai đoạn 2000-2009: tỷ trọng lao động
ngành nông, lâm, ngư nghiệp từ 6,4% giảm cịn 2,8%; ngành cơng nghiệp, xây dựng từ 41,5%
tăng lên 43,5%; ngành dịch vụ từ 52,1% tăng lên 53,7%.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ mơ hình kinh tế, TP. Hồ Chí Minh đã bộc lộ một số
bất cập, hạn chế: NNLCLC vẫn chưa đáp ứng đủ về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Nguồn nhân
lực chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật hiện còn chiếm tỷ lệ khá cao. Năm 2013, tỷ lệ người
lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo mới đạt 31,6%; so với mục tiêu Đảng bộ thành phố đề
ra là đến cuối năm 2015 phải chiếm 70%, đến năm 2020 chiếm 90%. Sự khan hiếm NNLCLC
đang diễn ra ở tất cả các ngành nghề, thành phần kinh tế. Các ngành công nghệ thông tin, điện điện tử, cơ khí, mới “chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu tuyển dụng”. Đang có sự mất cân
đối giữa quy mô đào tạo NNLCLC với đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật, giữa các


ngành nghề đào tạo khác. Tại thời điểm năm 2011, thành phố có 75 trường đại học và cao đẳng,
trong khi chỉ có 37 trường trung cấp; số sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học là 99.476; trung
cấp chuyên nghiệp chỉ có 46.388. Như vậy, so với bậc trung cấp thì bậc cao đẳng và đại học có
số trường tăng gấp 2 lần, quy mô đào tạo tăng 3,7 lần, số sinh viên tốt nghiệp hằng năm tăng 2,1
lần. Tình trạng quá thừa cử nhân, kỹ sư trong khi đó rất thiếu hụt cơng nhân kỹ thuật. Hơn nữa,
để thực hiện đổi mới mơ hình kinh tế, thành phố chủ trương phát triển mạnh các ngành cơng
nghệ và có nhu cầu cao về nhân lực như: Dệt may - da giày, hóa chất - y dược - mỹ phẩm, điện điện tử - viễn thông - công nghệ thông tin, chế biến thực phẩm… nhưng số sinh viên ra trường
mỗi năm ở những ngành trên mới chỉ chiếm 40%; trong khi các nhóm ngành kinh tế, quản trị kinh doanh lại chiếm tới 60%. Sự mất cân đối không chỉ diễn ra ở bậc đại học, mà còn thể hiện
rõ trong đào tạo sau đại học. Điển hình như tại Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh: “khối ngành
kỹ thuật - công nghệ chiếm 45%, khoa học tự nhiên chiếm 20%, khoa học xã hội và nhân văn
chiếm 20% và kinh tế - quản lý chiếm 15%. Ngoài ra, chất lượng NNLCLC vẫn chưa đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế và quá trình hội nhập của thành phố. Đánh giá về chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực, Đảng bộ thành phố thẳng thắn chỉ ra: “Hệ thống giáo dục còn lạc hậu, nhất là ở
bậc đại học còn bất cập, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng NNLCLC, dẫn
đến tình trạng sản phẩm đào tạo vừa thừa, vừa thiếu”. Mặt khác, theo khảo sát của Trung tâm Dự
báo nhu cầu nhân lực và thơng tin thị trường lao động “chỉ có 80% sinh viên, học viên tốt nghiệp
tại TP. Hồ Chí Minh tìm được việc làm, 20% khơng tìm được việc. Trong tổng số tìm được việc
làm chỉ có 50% là có việc làm phù hợp với năng lực, sở thích”. Như vậy, số sinh viên tốt nghiệp
khơng tìm được việc làm hoặc làm việc không phù hợp với chuyên ngành đào tạo còn chiếm tỷ
lệ khá cao, cho dù nhu cầu lao động của thành phố luôn tăng lên hằng năm. Mâu thuẫn này được
các doanh nghiệp đưa ra là do người lao động không đáp ứng yêu cầu về chuyên môn kỹ thuật;
khả năng sử dụng ngoại ngữ, tinh thần, trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công
dân ở một bộ phận người lao động chưa cao… Vì vậy, sau khi được tuyển dụng, các doanh
nghiệp, cơ quan sử dụng lao động phải mất một thời gian để đào tạo, bồi dưỡng bổ sung; hoặc
đào tạo, bồi dưỡng trước khi sử dụng. Những hạn chế đó khơng chỉ gây ra sự lãng phí lớn về
kinh phí, thời gian đào tạo; mà còn cản trở đến năng suất, chất lượng của quá trình sản xuất, sự
phát triển của xã hội.
Từ thực trạng được nêu trên ta có thể thấy sự mất cân bằng trong sự phân bố cơ cấu NNLCLC ở
thành phố Hồ Chí Minh, rõ rệt nhất có thể thấy đó chính là nguồn lao động trực tiếp đến sản
phẩm hay là năng suất lao động trực tiếp như là công nhân lành nghề, kĩ thuật viên với trình độ


chuyên nghiệp, phần lớn các trường đại học đào tạo những người lao động là chuyên viên gián
tiếp với số lượng lớn nhưng sự hiệu quả và năng suất làm việc thật sự không rõ rệt. Với tốc độ
của hội nhập đó chính là sự phát triển rất nhanh của các ngành cơng nghiệp tại thành phố Hồ Chí
Minh kèm theo đó mơi trường kinh tế đang rất cần những công nhân kĩ thuật được đào tạo một
cách chuyên nghiệp để phục vụ cho sự khan hiếm kĩ thuật viên ở các ngành kĩ thuật, cơ khí. Bên
cạnh đó, là thực trạng đào tào nguồn nhân lực chất lượng cao ở các trường đại học còn chưa tốt
cũng là phần nào làm cho chất lượng của nguôn nhân lực không cân đối.
Theo Trung tâm dự báo nhu cầu Nhân lực và thông tin thị trường lao động thành phố Hồ Chí
Minh những phân tích chỉ số cơ cấu cầu và cơ cấu cung nhân lực theo trình độ nghề trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Mình Q IV năm 2015 sẽ nêu rõ lên thực trạng nguồn nhân lực chất lượng
cao tại đây.
BẢNG 2: PHÂN TÍCH CHỈ SỐ CƠ CẤU CẦU NHÂN LỰC THEO TRÌNH ĐỘ NGHỀ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Q IV NĂM 2015

STT

Trình Độ

Lao động chưa qua
đào tạo
2 Sơ cấp nghề
Công nhân kỹ thuật
3
lành nghề
4 Trung cấp (CN-TCN)
5 Cao đẳng (CN-CĐN)
6 Đại học
7 Trên đại học
Tổng số ( 100% = Số người)
1

Chỉ số
Quý III/2015(%)

Chỉ số
Quý IV/2015(%)

So sánh chỉ số (%)


24.56

21.79

40.57

8.06

7.28

43.03

11.90

15.11

101.20

20.74
18.24
16.20
0.29
36,317

23.08
13.88
18.51
0.35
57,535


76.27
20.57
80.92
90.57
21,218

Tổng số doanh nghiệp : 5.053
Tổng số việc làm trống : 57.535
Nguồn dữ liệu trên tổng hợp phân tích từ :
- Nhu cầu việc làm trên hệ thống thông tin điện tử
-Nhu cầu việc làm trên hệ thống Báo chí


-Nhu cầu việc làm qua hệ thống giới thiệu việc làm, dạy
nghề
-Nhu cầu việc làm doanh nghiệp gửi trực tiếp

( Nguồn: Trung tâm dự báo nhu cầu Nhân lực và thơng tin thị trường lao động TP. Hồ Chí Minh)

BẢNG 3: PHÂN TÍCH CHỈ SỐ CƠ CẤU CUNG NHÂN LỰC THEO TRÌNH ĐỘ NGHỀ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
QUÝ IV NĂM 2015
STT
1
2
3
4
5
6

7

Trình Độ
Lao động chưa qua đào tạo
Sơ cấp nghề
Công nhân kỹ thuật lành nghề
Trung cấp (CN-TCN)
Cao đẳng (CN-CĐN)
Đại học
Trên đại học
Tổng số ( 100% = số người )

Chỉ số
Quý III/2015(%)
1.70
0.65
0.80
8.43
23.29
63.00
2.12
13,764

Chỉ số
Quý IV/2015(%)
0.91
0.79
0.92
8.69
25.60

59.99
3.10
17,750

So sánh chỉ số
(%)
-30.77
55.56
49.09
32.93
41.73
22.79
88.36
3,986

Tổng số người tìm việc: 17.750
Nguồn dữ liệu trên tổng hợp phân tích từ:


Nhu cầu việc làm trên hệ thống thông tin điện tử



Nhu cầu việc làm trên hệ thống Báo chí



Nhu cầu việc làm qua hệ thống giới thiệu việc làm, dạy nghề




Nhu cầu việc làm gửi đăng ký trực tiếp tại Trung tâm
( Nguồn: Trung tâm dự báo nhu cầu Nhân lực và thông tin thị trường lao động TP. Hồ Chí Minh)

Từ những số liệu trên ta có thể thấy tình hình thực tiễn q III, q IV cơ cấu cầu và cung
nhân lực trình độ nghề nghiệp có sự chênh lệch rõ rệt, cơ cấu cầu chiếm tỉ lệ lớn trong khi
đó cơ cấu cung lại có những con số nhỏ hơn rất nhiều. Lượng cầu thì lớn mà lượng cung lại
không hề đáp ứng đủ lượng lao động có trình độ theo từng ngành nghề khác nhau trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh mà các doanh nghiệp có nhu cầu. Cụ thể hơn, lao động chưa
qua đào tạo nguồn cung thiếu tận 22,86% tương đương với 8685 người, trong đó cơng nhân


kỹ thuật lành nghề lượng cung cũng thiếu đến 4211 người. Nhưng nhìn vào số lượng nhu
cầu việc làm của người lao động có trình độ trên đại học lại lớn hơn so với lượng cầu 186
người dư thừa một lượng khơng hề nhỏ, bên cạnh đó là lượng lao động với trình độ đại học
cung cũng trên cầu nhân lực từ các doanh nghiệp tận 2787 người. Những nhận định trên
cũng chỉ ra rằng lượng cung và cầu nhân lực có trình độ có sự chênh lệch rõ rệt, cho ta thấy
lượng lao động chưa có trình độ chiếm phần lớn trong thị trường lao động, còn lại những lao
động được qua đào tạo lẫn có trình độ cao lại chiếm ít trên thị trường lao động. Tuy nhiên,
số lượng cầu nhân lực đối với công nhân kỹ thuật lành nghề lại lớn hơn rất nhiều so với số
lượng cung lao động công nhân kỹ thuật lành nghề, không những vậy lượng lao động có
trình độ đại học và trên đại học sau khi kết thúc đào tạo lại cung cấp một lượng dư ra so với
lượng cầu từ các doanh nghiệp.
Từ những kết luận trên khẳng định thấy nguồn nhân lực chất lượng cao trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh tương đối dồi dào nhưng phân bố cơ cấu khơng đồng đều kéo theo đó là
chất lượng thật sự nguồn nhân có trình độ và được cho là nguồn nhân lực chất lượng cao
cũng khơng chính xác, khả năng thích ứng và tư duy của những lao động
Theo báo điện tử Vietnamnet và Careerbuilder.vn tổng hợp được rằng: “Hiện nay, TPHCM
đứng trước thực trạng thiếu trầm trọng nguồn lao động có trình độ chun mơn ở hầu hết
các ngành, do chỉ có 50% lao động mới qua đào tạo”.

Theo tờ báo điện tử (HCM CityWeb) – Ông Huỳnh Thành Đạt, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia
TPHCM, cho rằng trong xu thế phát triển của thời đại tồn cầu hóa với tri thức và cơng nghệ là
nền tảng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định góp phần giải quyết các
thách thức hiện hữu, phát triển TPHCM năng động và sáng tạo.
Trong bài tham luận góp ý cho dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ TP trình bày tại phiên
họp Đại hội Đại biểu Đảng bộ TP lần thứ X sáng ngày 15-10, ông Đạt cho rằngTPHCM – một
thành phố lớn của cả nước và là một trong 50 thành phố lớn trên thế giới hiện nay đã và đang
đứng trước nhiều thách thức; cùng các vấn đề mới nảy sinh như: ngập nước, kẹt xe, ơ nhiễm
khơng khí và tiếng ồn... là những trần giới hạn, thách thức sự phát triển bền vững của TP.
Để vượt qua những khó khăn, thách thức nêu trên trong điều kiện nguồn lực về tài chính và hạ
tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế; kinh nghiệm của các nước và thành phố lớn trên thế giới
cho thấy chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới có thể giải quyết những thách đố của thời đại
tồn cầu hóa và hội nhập, ơng Đạt nhấn mạnh.
Ơng nhận xét, q trình thực hiện 6 chương trình đột phá của TP, trong đó có “Chương trình
nâng cao chất lương nguồn nhân lực”, trong 5 năm qua đã đạt nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên
trong dự thảo Báo cáo chính trị của Đảng bộ TP nhìn nhận những vấn đề cịn hạn chế, đó là “việc
triển khai thực hiện một số chương trình nhánh của Chương trình nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực còn chậm, chưa sát hợp với thực tế; một số chỉ tiêu đến nay chưa đạt 50% kế hoạch”.
Với nhận thức nguồn nhân lực chất lượng, trình độ cao sẽ ảnh hưởng có tính quyết định đến chất
lượng, tốc độ và hiệu quả phát triển của nền kinh tế, xã hội, đặc biệt trong thời đại cạnh tranh toàn
cầu và hội nhập kinh tế thế giới, ơng đồng tình với việc Đại hội Đảng bộ TP lần thứ X tiếp tục chọn
“Chương trình nâng cao chất lương nguồn nhân lực” là chương trình thứ nhất trong 7 chương trình


đột phá của TP giai đoạn 2015-2020 với yêu cầu: “Vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chung,
vừa chú trọng xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao gắn với phát triển khoa học - công nghệ;
tập trung cho những ngành, lĩnh vực có hàm lượng cơng nghệ, giá trị gia tăng cao, có vai trị quyết
định, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của TP”.
Ơng cho rằng, trước địi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế và yêu cầu phát triển bền vững,
TPHCM phải nhận thức rằng giáo dục đại học tiên tiến sẽ mang lại những bước “nhảy năng

lượng” và những “xúc cảm sáng tạo” để tạo ra các giá trị cao cho công cuộc đổi mới và phát triển
của TP. Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục và phát triển kinh tế của 75 quốc gia, các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra rằng nguồn nhân lực của một quốc gia là yếu tố cốt lõi cho sự phát triển của
quốc gia đó. Nó được sử dụng như là một tiêu chuẩn cốt lõi để đo sự phát triển kinh tế và sự hiện
đại của một quốc gia. Hiện nay, tại Việt Nam, tiêu chí này cũng được sử dụng như là một trong
các tiêu chí chính để đánh giá sự phát triển của một TP.
Trên địa bàn TPHCM hiện nay có 67 trường đại học, cao đẳng và học viện, góp phần quan
trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng đáp ứng các yêu cầu phát triển của
TP. Một trong những thách thức trong đảm bảo đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay
của các trường đại học Việt Nam nói chung, các trường đại học trọng điểm trên địa bàn TPHCM
nói riêng đó là: thiếu hụt tài chính cho mỗi chi phí đơn vị đầu tư cho giáo dục đại học, để đầu tư
chiều sâu cho các ngành khoa học mũi nhọn, để liên kết, hợp tác với các trường đại học hàng đầu
thế giới, các tổ chức nghiên cứu đỉnh cao để chuyển giao khoa học và công nghệ cho Việt Nam và
đào tạo ra những nhà khoa học xuất sắc; khó có thể cạnh tranh bằng cơ chế đãi ngộ và trả lương
cao với các nhà khoa học hàng đầu thế giới so với các trường đại học nước ngoài; tài sản, cơ sở vật
chất đã được nhà nước đầu tư vẫn chưa đáp ứng và theo kịp sự phát triển của công nghệ hiện đại.
2.1.3 Nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt và phân bố không đồng đều nguồn
nhân lực chất lượng cao tại thành phố Hồ Chí Minh
Q trình hội nhập quốc tế ln đặt ra những đòi hỏi khách quan đối với nguồn nhân lực về
số lượng cũng như những năng lực và phẩm chất cần thiết của người lao động. Nó địi hỏi
nguồn nhân lực phải có một mặt bằng chung về trình độ cao hơn.
Nếu như trước đây người lao động chỉ cần có đức tính tốt, cần cù, trung thành và có tinh
thần trách nhiệm. Thì ngày nay, nền kinh tế trong thời kì hội nhập địi hỏi người lao động
ngồi trình độ chun mơn lành nghề, phải có tính sáng tạo, có khả năng phân tích, tinh thần
đồng đội, có trình độ ngoại ngữ và cơng nghệ thơng tin, am hiểu luật pháp… Điều đó lại phụ
thuộc chủ yếu vào vấn đề giáo dục – đào tạo.
Tuy nhiên hiện nay, vấn đề đào tạo của Thành phố vẫn chưa thật hiệu quả. Trình độ văn hóa
của người lao động đã được nâng cao, hệ thống giáo dục-đào tạo đã được cải tiến nhiều, chất
lượng đội ngũ giáo viên được nâng lên một bước, ngày càng tiếp cận gần hơn với hệ thống
giáo dục quốc tế. Tuy nhiên, thực tế chất lượng giáo dục-đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng

được yêu cầu của các doanh nghiệp. Tình trạng đào tạo lại và đào tạo mới các ngành nghề là
rất lớn cho tất cả các loại lao động, trong đó đặc biệt là đội ngũ công nhân kĩ thuật. Trong
khi các doanh nghiệp đang thiếu đội ngũ công nhân kĩ thuật nhất là cơng nhân kĩ thuật lành
nghề thì xu hướng của thị trường lại dư thừa loại lao động được đào tạo từ các trường cao


đẳng, đại học và xu thế hiện nay thanh niên vẫn lựa chọn vào các trường cao đẳng, đại học
hơn là các trường đào tạo nghề.
Ngoài ra, mặc dù lao động nhập cư là nguồn cung cấp nhân lực chủ yếu cho thành phố.
Nhưng lao động nhập cư chủ yếu từ nông thôn lên thành thị mà chất lượng nguồn lao động
có sự chênh lệch lớn giữa khu vực nơng thôn và thành thị (ở Việt Nam lao động thành thị đã
được đào tạo chiếm 30,9% trong khi ở nông thơn chỉ có 9%). Lao động từ nơng thơn lên
thành thị mục đích chính khơng phải là học nghề, học việc mà là tìm kiếm việc làm. Tuy
nhiên, do khơng có trình độ nên họ chỉ làm những cơng việc mang tính chất thời vụ, bn
bán hoặc những cơng việc khơng địi hỏi trình độ CMKT vì vậy cơng việc rất bấp bênh và
dễ thất nghiệp.
2.1.4 Những khó khăn và thuận lợi gặp phải khi thực hiện đề tài đánh giá nguồn
nhân lực chất lượng cao tại thành phố Hồ Chí Minh
2.1.4.1 Thuận lợi:


Nguồn dữ liệu rất nhiều thơng số lẫn bài báo nhận định để có thể đánh giá
dựa trên những chỉ tiêu



TP. Hồ Chí Minh là thành phố lớn nên việc tìm hiểu số liệu khá là nhanh
chóng và dễ dàng




Đây là đề tài sát thực với nhu cầu bản thân để tìm hiểu cơ hội việc làm trong
tương lai.

2.1.4.2 Khó khăn:


Đây là một đề tài hay nhưng lại là đề tài tương đối khó để đánh giá chính xác.



Cịn phần lớn đánh giá thiếu sự định tính



Đề tài tương đối nhiều tư liệu vì thế sẽ khó khăn trong việc chọn lọc và thể
hiện trong bài tiểu luận



Đề tài bắt buộc người viết phải có nhiều sự tìm hiểu và chọn lựa thơng tin


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÀ CẢI THIỆN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế thành phố trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần được ưu tiên
hàng đầu. Để nâng cao chất lượng nhân lực của TPHCM, cần chú trọng thực hiện một số giải
pháp như sau:

3.1. Giải pháp về giáo dục đào tạo và thu hút nguồn nhân lực
Thành phố đang hướng đến các ngành kĩ thuật cao nhưng nguồn nhân lực kĩ thuật cao lại đang
thiếu. Sự kết hợp giữa các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để tạo nguồn lao động phù hợp cịn
chưa tốt. Vì vậy, thành phố cần triển khai thực hiện tích cực, nhất quán các chính sách khuyến
khích tài năng, thu hút nhân tài, nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục – đào tạo của thành phố.
Giải pháp trước mắt để xóa khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng lao động là cần có sự phối hợp
giữa. Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp. Muốn làm được điều này, nhà trường phải nâng
cao chất lượng đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo sát với yêu cầu thực tiễn;
Nhà nước cần có chính sách thơng thống, phù hợp và doanh nghiệp phải hỗ trợ nhà trường trong
quá trình đào tạo để đi sát với nhu cầu thực tế. Để chương trình phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phát huy hiệu quả, thành phố cần có chính sách, chế độ đãi ngộ thích đáng đối với
những người có trình độ cao, nhất là đội ngũ trí thức trẻ và những tài năng trẻ nói chung. Bên
cạnh việc thu hút nguồn lực chất lượng cao trong nước, cần có chính sách thu hút và huy động
đội ngũ trí thức Việt kiều và du học sinh về nước làm việc để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
3.2. Giải pháp thu hút đầu tư và phát triển khoa học công nghệ
Tập trung phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu dạy và học theo hướng hiện
đại, đón đầu sự phát triển của xã hội, hội nhập với khu vực và thế giới, phù hợp với yêu cầu đào
tạo nguồn nhân lực của Thành phố. Thành phố cần đẩy mạnh hình thức xã hội hóa giáo dục, huy
động vốn đầu tư trong nước và ngoài nước để xây dựng các trường dạy nghề chất lượng cao, đổi
mới trang thiết bị dạy học. Xây dựng chiến lược, kế hoạch đổi mới cơng nghệ để nâng cao sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ có hàm lượng chất xám cao. Tập trung nguồn vốn đầu tư cho phát triển
khoa học công nghệ, cho những ngành mũi nhọn của thành phố như cơ khí chế tạo, điện tử CNTT, hóa chất – cao su, chế biến lương thực, thực phẩm…
3.3. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao một cách bền vững, thành phố cần phải nhanh
chóng cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo trong tất cả các cấp, kể cả các trường dạy nghề, sao
cho đồng bộ và hợp lí; đồng thời đổi mới nội dung phương pháp đào tạo phù hợp với nhu cầu
của thị trường. Xây dựng được đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục và dạy nghề có trình



độ chuyên môn cao. Cần đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, gắn nội dung
đào tạo trong nhà trường với hoạt động thực tiễn của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và các
lĩnh vực khác. Cần chú trọng nâng cao trình độ ngoại ngữ, cơng nghệ thông tin cho người lao
động để họ chủ động hơn trong q trình hội nhập. Cơng tác dự báo nhu cầu và thông tin thị
trường lao động cũng phải chính xác, khoa học, định hướng tốt để giúp các trường đại học, cao
đẳng hoạch định chiến lược đào tạo.
3.4. Đối với các ngành kinh tế
Chú trọng đẩy mạnh đầu tư vào các ngành cơng nghiệp có hàm lượng tri thức và cơng nghệ cao,
có lợi thế cạnh tranh, giá trị gia tăng lớn và thân thiện với môi trường. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tại các KCN – KCX: tăng cường thu hút đầu tư, phát triển cơng nghiệp hiện đại, ít
thâm dụng lao động.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Trịnh Duy Oánh, Số 7(73) năm 2015, Tạp Chí Khoa Học Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ
Chí Minh;
- Trung tâm dự báo nhu cầu Nhân lực và thông tin thị trường lao động TP. Hồ Chí Minh;
/>- />- o/index.php/sphcm/article/viewFile/20307/17793
- />- />


×