Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tieu luan TTHCM ve xay dung dang CSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.94 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC LÃNH TỤ CỦA ĐẢNG

TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Học viên :
Lớp

:

Hà Nội – 2018


MỞ ĐẦU

Trong tồn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về Đảng Cộng sản
là một trong những bộ phận quan trọng nhất. Tư tưởng ấy được thể hiện ở những
luận điểm chủ yếu: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nòng cốt, là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là
Đảng của dân tộc Việt Nam, là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam Đảng phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu
mới của giai cấp vô sản, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm công tác xây
dựng đảng trong sạch, vững mạnh. người là tấm gương sáng về rèn luyện phẩm
chất, đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt
Nam cho mỗi chúng ta noi theo. Trong bài diễn văn tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày


thành lập Đảng Bác viết: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Đảng ta là đạo đức
vì ngồi lợi ích của giai cấp, của dân tộc đảng ta khơng có lợi ích nào khác. Nói
đảng ta là văn minh vì đảng ta là tổ chức của những người ưu tú nhất của xã hội,
tổ chức đảng bao gồm những người có năng lực, trí tuệ cao, có trình độ văn hóa,
lý luận chính trị đủ sức tiên phong dẫn đường cho cả dân tộc đi theo con đưởng
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn: Xây dựng nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
Với bản chất cách mạng và khoa học, Đảng ta đã không ngừng chăm lo xây
dựng Đảng, kiên cường lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi gian nan thử thách, đưa
cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vẻ
vang của dân tộc. Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - một Đảng đạo
đức và văn minh, cách mạng và khoa học - là vấn đề có tính ngun tắc, là quy
luật của cách mạng XHCN, là nhân tố bảo đảm sự phát triển đúng đắn của đất
nước.

2


Nhận thức được tầm quan trọng của nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng Cộng sản, vai trị lãnh đạo trực tiếp, tồn diện tuyệt đối của
Đảng ta trong điều kiện đảng cầm quyền hiện nay, em lựa chọn đề tài: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam” làm tiểu luận kết
thúc mơn học.
Kính mong được thầy, cơ giáo góp ý để em hoàn thiện hơn tiểu luận này.

3


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chi Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam có cơ sở từ lý luận từ
chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, đặc biệt là học thuyết về Đảng kiểu
mới của V.I. Lênin.
Trong quá trình xây dựng học thuyết về cách mạng vô sản, c. Mác và Ph.
Ăngghen chú ý tới việc thành lập các Đảng Cộng sản ở những nước tư bản chủ
nghĩa để lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động lật đổ chế độ tư bản
chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được đặt
ra như một vấn đề bức thiết, Lênin phát triển nhiều luận điểm của c. Mác về
cách mạng trong điều kiện các nước thuộc dịa. Luận điểm về Đảng kiểu mới của
Lênin khơng chỉ nhằm xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp vơ
sản rồi giải phóng quần chúng lao động, giải phóng con người mà cịn nhằm
trước hết giải phóng dân tộc rồi giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Lênin
nhấn mạnh vai trị của Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa trong việc giải quyết
quyền lợi giai cấp gắn liền với quyền lợi dân tộc: giải quyết vấn đề dân tộc và
vấn đề dân chủ trên lập trường cách mạng triệt để của giai cấp vô sản.
Năm 1919. V.I. Lênin sáng lập ra Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản bộ tham
mưu của giai cấp vô sản thê giới. Từ đây, cùng với lý luận của Lênin, Quốc tế
Cộng sản đóng vai trị quan trọng thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vơ sản.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ tìm thấy ở đây
con đường cứu nước đúng đắn, mà còn nhận thức được sự cần thiết phải có một
đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản. Cuối tháng 12-1920, Người đã tán thành Quốc tế III
và là người dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây
là sự phát triển lơgích tất yếu của tư duy Nguyễn Ái Quốc từ khi ra đi tìm đường
cứu nước và đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác - Lênin.

4


1.2. Cơ sở thực tiễn
Hồ Chí Minh tiếp nhận ánh sáng Cách mạng Tháng Mười cả giá trị lý luận
và thực tiễn. Thực tiễn lớn nhất ở đây là dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích
Nga, cách mạng đã thành công. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng
sản ra đời. Từ đó, nhiều Đảng Cộng sản được thành lập ở các nước và gia nhập
Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Nhật Bản ra
đời năm 1921. Đảng Cộng sản Triều Tiên ra đời năm 1925. Đảng Cộng sản Ấn
Độ và Đảng Cộng sản Thái Lan ra đời năm 1928...
Từ sau năm 1920. Hồ Chí Minh tiếp tục theo dõi các sự kiện quốc tế tiếp
tục nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn, tranh thủ các diễn đàn quốc tế,
thông qua các phương tiện báo chí để truyền bá tư tưởng về đảng vào phong trào
cách mạng Việt Nam. Người tích cực hịa mình vào phong trào cách mạng thế
giới mà trước hết là tham gia vào các tổ chức có tính chất quốc tế như tham gia
sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa được tổ chức ở Pari năm 1921. Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức được tổ chức ở Quảng Châu năm 1925...
Từ năm 1921, đặc biệt là từ khi về hoạt động ở Trung Quốc đến đầu năm
1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái
Quốc là chuấn bị chu đáo các yếu tố về chính trị, tư tưởng và tổ chức để cho ra
đời Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Việc tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên được thành lập năm 1920 đánh dấu mốc quan trọng trong hoạt động thực
tiễn của Nguyễn Ái Quốc. Thông qua tổ chức tiền thân này, Nguyễn Ái Quốc có
điều kiện đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên theo chủ nghĩa Mác - Lênin để
hướng đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng mới - con
đường cách mạng vô sản. Cùng trong thời gian ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc
đã chọn người gửi vào học Trường Quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu và
Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva để sau đó về
nước hoạt động. Đây cũng là một trong phương cách để đưa chủ nghĩa Mác Lênin du nhập trực tiếp vào Việt Nam một cách nhanh chóng, từng bước làm

cho phong trào cơng nhân chuyển nhanh từ tự phát sang tự giác.
Từ năm 1925, với sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, có
Cộng sản đồn làm nịng cốt. “quả trứng bắt đầu nở ra con chim non cộng sản”,
một cơ sở lúc đầu còn nhỏ bé nhưng sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn. Từ đây,
chủ nghĩa Mác - Lênin từng bước du nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, kết hợp với
5


phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam dẫn tới việc xuất hiện
ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ; tháng
6-1929. An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ tháng 8-1929 và Đơng Dương Cộng
sản liên đồn, tháng 1- 1930. Đây là cơ sở thực tiễn trực tiếp và quan trọng nhất
để từ đó Nguyễn Ái Quốc chủ động để thống nhất ba tổ chức thành một tổ chức
duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam bất đầu
chuyển sang một bước ngoặt mới chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách
mạng kéo dài mấy thập kỷ đầu thế kỷ XX. Từ đây, phong trào giải phóng dân
tộc Việt Nam tiến hành theo con đường cách mạng vô sản.
1.3. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại, là một
bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là một sự
kiện đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng CỘng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân
dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị được

xây dựng ngay từ khi được thành lập (trong đó xác định đúng đắn con đường
cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vơ sản) chính là
cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam – môt Đảng vừa mới được thành lập nhưng
đã giương cao được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải
quyết tốt nhất tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh
đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát
triển mới cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm
bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng
chung tư tưởng và hành động để hoàn thành thắng lợi cuộc cách mang dân tộc
dân chủ, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây cũng

6


là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, con đường cách mạng
Việt Nam trong suốt 88 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương coi cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới đã tranh thủ được
sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại và đã làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng
Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

7


CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Vai trò lãnh đạo và bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mệnh trước hết “phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của
Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp
công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của
Đảng dựa trên cơ sở Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng,
thực hiện vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tuy số lượng ít so với
dân số nhưng giai cấp cơng nhân có đầy đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo đất
nước thực hiện những mục tiêu của cách mạng.
Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam
đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, xây dựng đất nước hịa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, nên được toàn thể nhân dân lao động và cả dân
tộc thừa nhận và đi theo. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, trở
thành Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền, nhưng là quyền do nhân dân ủy
nhiệm, nhân dân mới thực sự là chủ. Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân. Hồ Chí Minh sáng lập Đảng ta
cũng đồng thời là tác giả đầu tiên soạn thảo Chánh cương vắn tắt của Đảng,
Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, Đảng chân chính cách mạng phải

8



là Đảng tiên phong về lý luận, khoa học, lại còn phải tiêu biểu cho đạo đức cách
mạng trong sáng, chí cơng vơ tư, tồn tâm tồn ý vì nhân dân và dân tộc.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
2.2.2. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh tập hợp những bài giảng ở các lớp
huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925 - 1927), Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng Việt Nam ''Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có
bàn chỉ nam''.
“Chủ nghĩa'' mà Người đề cập ở đây là hệ thống lý luận để Đảng Cộng sản
lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Đối với
đảng cách mạng ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khăng định rằng, đó là chủ
nghĩa Mác - Lênin, Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln ln nhất qn quan điểm đó.
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ví chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Đảng ta như
''trí khơn'' của con người, như ''bàn chỉ nam'' của con tàu đã nói lên vai trò hết
sức quan trọng của Đảng trong hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương,
định ra mục tiêu cần đạt tới, định ra các phương pháp cách mạng cho phù hợp,
tổ chức thực hiện có hiệu quả để đạt mục tiêu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng giáo dục toàn Đảng vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần chân lý là cụ
thể, cách mạng là sáng tạo. Do đó, trong suốt quá trình hoạt động của mình,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đứng vững trước mọi thử thách, xứng đáng là lực
lượng lãnh đạo đất nước.

Khi khẳng định Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý những vấn đề sau
đây:
9


Một là, phương pháp học tập, nhận thức, nâng cao trình độ lý luận Mác Lênin phải ln phù hợp với điều kiện, hồn cảnh, trình độ của từng đối tượng.
Hai là, phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin cho
phù hợp với từng lúc và từng nơi, từng lĩnh vực, từng đối tượng; đề phòng và
khắc phục cả giáo điều lẫn xa rời các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin.
Ba là, Đảng phải luôn luôn học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của
các đảng cộng sản khác, đồng thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn cách
mạng để làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bốn là, Đảng ta phải đấu tranh chống những luận điểm cơ hội, xuyên tạc
xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin.
Năm là, Đảng ta phải dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin để xây dựng
khối đoàn kết trong phong trào cộng bản quốc tế.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này được phản ánh rõ
nhất trong bản Di chúc khi Người mong Đảng ta “ra sức hoạt động, góp phần
đắc lực vào việc khơi phục lại khối đồn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý có tình''.
2.2.3. Thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta tuân thủ
những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng vơ sản kiểu mới. Có nhiều nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó có những nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ
- Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
- Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
- Kỷ luật nghiêm minh, tự giác
- Đồn kết, thống nhất trong Đảng

2.2.4. Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện tư cách cán bộ, đảng viên
Một trong những biểu hiện rõ nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về rèn
luyện Đảng Cộng sản Việt Nam để cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức, của
văn minh, là Người ''rèn'' đạo đức cán bộ, đảng viên trong thực tế chứ không chỉ
dừng lại những quy định trong Điều lệ Đảng.

10


Xây dựng Đảng về mặt đạo đức cách mạng là một nội dung đặc sắc trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, là bước phát triển sáng tạo
của Người so với học thuyết của V I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ và
cơng tác cán bộ của Đảng
Trong quá trình xây dựng Đảng, đội ngũ cán bộ và cơng tác cán bộ chiếm
vị trí quan trọng hàng đầu có vai trị quyết định thành cơng tới tồn bộ công tác
xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: cán bộ là cái gốc của mọi công
việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém. Quần
chúng nhân dân là những người làm nên lịch sử. Nhưng, mặt khác, những cán
bộ lãnh đạo, quản lý lại là đầu tàu, có tác dụng hướng dẫn, tập hợp vận động
nhân dân để hành động đạt mục tiêu của cách mạng. Với ý nghĩa như vậy,
chúng ta có thể hiểu rằng cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của xã hội, có vai trị
cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta. Luận điểm khái quát nhất của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ là: cán bộ là người lãnh đạo,
là đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra yêu cầu đối với cán bộ, đảng viên
Yêu cầu về tư cách:
Trong hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ, đảng
viên, vấn đề tư cách được Người nhấn rất mạnh. Trong tác phẩm Đường Kách

mệnh (năm 1927), ở trang đầu tiên, Hồ Chí Minh đã nêu ra 23 điều về Tư cách
của một người kách mệnh. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều dịp đề cập
với nội dung rất phong phú về vấn đề này, nhưng có ba nội dung chủ yếu có tính
bao qt tồn bộ các mặt của nó mà Người hay nêu đó là: Một là: Suốt đời phấn
đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng. Hai là: Cán bộ, đảng viên phải đặt quyền lợi
của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết. Ba là: Cán bộ phải có một
đời tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống.
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực:
Cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng trong sáng. Cán bộ, đảng
viên phải tuyệt đối trung thành với cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải có năng
lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải có mối liên hệ mật thiết
11


với nhân dân. Cán bộ phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt.
Cán bộ, đảng viên phải có phong cách tốt.
Làm tốt cơng tác cán bộ: Phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn
và sử dụng đúng cán bộ. Phải “khéo dùng cán bộ”, ''dùng người đúng chỗ, đúng
việc''. Phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương hẹp hòi. Phải chú
trọng đến công tác đề bạt cán bộ- Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
2.2.5. Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân
Cơ sở lý luận và thực tiễn
Đảng ta sinh ra từ trong lòng dân tộc Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết trong bài báo Dân vận (tháng 10-1949) rằng: ''Đoàn thể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên'' (Chữ Đoàn thể viết hoa năm 1949 được
hiểu là Đảng Cộng sản Đơng Dương lúc Đảng hoạt động bí mật). Sự ra đời của
Đảng chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Như vậy, Đảng ta là một bộ phận
của toàn thể dân tộc Việt Nam. Vấn đề mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản - Giai

cấp công nhân - Nhân dân, Dân tộc Việt Nam là mối quan hệ ''3 trong 1'', mỗi
thành tố đều nằm trong một cái chung không thể tách rời. Song mỗi thành tố
cũng có chức năng, nhiệm vụ, có ''sứ mệnh'' riêng. Tất cả những thành tố đó
cũng như sự hoạt động, tương tác của chúng đều có tính hướng đích: độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, yêu cầu của tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân xuất phát từ bản chất của vấn đề mối quan hệ bền chặt
vốn có, là yêu cầu tự nhiên của Đảng ta trong quy luật ra đời và phát triển của
Đảng.
Nhân dân có vai trị cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị - xã hội. Có thể
nói rằng, quyền lực của dân đứng ở vị trí tối thượng trong hệ thống quyền lực
của đất nước. Tất cả quyền lực trong xã hội Việt Nam đều được cấu tạo trên cơ
sở quyền lực của nhân dân và đều xuất phát từ vị trí, vai trị của nhân dân. Tất cả
các tổ chức của Đảng ta, từ cấp cao nhất cho đến cấp cơ sở, đều hoạt động trên
cái nền nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ
thống bộ máy Đảng, cũng như các chi bộ - các tế bào của Đảng - là tổ chức gần
dân nhất, nằm trong nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Dân
là gốc, sức mạnh của Đảng ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Vì thế, các
12


tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên phải chăm lo xây dựng và tăng cường mối
quan hệ gắn bó với dân. Đây là yêu cầu đối với mọi tổ chức Đảng, mọi cán bộ,
đảng viên ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ Đảng cầm quyền
thì yêu cầu này càng đặc biệt nổi rõ hơn.
2.3. Những thành tựu, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng
Thành tựu
Đảng đã động viên và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành được những thắng lợi vĩ đại.
Những thành tựu đạt được trong hơn 30 năm đổi mới là to lớn và có ý

nghĩa lịch sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra
khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có
nhiều thay đổi, sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề
để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Thành tựu to lớn đó là cơng sức của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn, trong
đó vai trị lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định, có sự đóng góp của đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi thực hiện đường lối đổi mới
đến nay, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được coi trọng hơn.
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”. Việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng đã tạo được sự
chuyển biến nhất định trong việc ngăn chặn sự suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; bước đầu khắc phục được một số hạn
chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và thực hiện các nguyên tắc tổ chức,
sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, ngun tắc tự phê bình và
phê bình.
Hai là, cơng tác tư tưởng, lý luận có bước tiến mới.
Về cơng tác lý luận: đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn của công cuộc đổi mới; bước đầu làm rõ những giá trị bền vững của chủ
13


nghĩa Mác - Lê-nin, những vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù hợp với
thực tiễn đất nước và thời đại; đã tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh của
Đảng, góp phần làm sáng tỏ nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Về công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng: nhiệm vụ xây dựng
chuẩn mực, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cán bộ, đảng viên gắn với
nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng được coi trọng. Công tác đấu tranh chống
các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch đã chủ động hơn.
Ba là, công tác tổ chức, cán bộ được triển khai tương đối đồng bộ.
Tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước được sắp xếp, kiện toàn theo
hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nhất
là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và các loại hình doanh
nghiệp.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành. Nhiều
chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về cơng tác cán bộ được thể chế hóa thành
các quy chế, quy định. Các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng, thực hiện chính sách cán bộ đã được triển khai đồng bộ.
Đội ngũ cán bộ được bổ sung về số lượng, chú trọng nâng cao chất lượng. Trình
độ lý luận, chun mơn, nghiệp vụ; năng lực lãnh đạo, tổ chức, điều hành công
việc... ngày càng được nâng cao. Công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo
đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng được coi trọng.
Bốn là, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng từng bước được
nâng cao.
Năng lực lãnh đạo thể hiện ở việc hoạch định đường lối, nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn đúng đắn, sát với thực tế phát triển của đất nước. Sức
chiến đấu của Đảng được nâng cao thể hiện ở chỗ làm cho từng cán bộ, đảng
viên, từng tổ chức và cấp ủy đảng có ý chí vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất, đạo đức, dũng cảm đấu tranh
với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi
đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan; kiên quyết đấu tranh chống các tư
tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch.
Năm là, phương thức lãnh đạo của Đảng có bước đổi mới.
14



Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều đổi mới và đạt được những kết quả
quan trọng. Phong cách, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng và đảng viên đã
được đổi mới theo hướng khoa học, công khai, dân chủ, sát cơ sở hơn. Đồng
thời, phát huy mạnh mẽ vai trị, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các
tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trị của Nhà nước.
Hạn chế, yếu kém
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng
trong những năm qua vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Văn kiện Đại hội XI của
Đảng khẳng định: "Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà
còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém
trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước". Vấn
đề này tiếp tục được đề cập trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của BCH trung
ương đảng khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Đó
chính là sự suy thối của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và cả những
yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ vẫn chậm được khắc phục,
làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Điều lo ngại hiện nay là tình
trạng: " một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc..."
ngày càng trở nên trầm trọng. Chất lượng học tập và tổ chức thực hiện các chỉ
thị, nghị quyết của đảng ở nhiều nơi chưa đạt yêu cầu, có nhiều nơi thực hiện
theo kiểu đối phó, làm lấy lễ !
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên, chủ yếu là do việc thực hiện đổi mới

kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động
của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế; chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về
lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận mới cho cán bộ, đảng viên. Đặc

15


biệt, cịn thiếu những cơ chế, chính sách đồng bộ, khoa học để chủ động ngăn
ngừa những vi phạm.

16


CHƯƠNG 3
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TA HIỆN NAY
3.1. Hết lịng, hết sức vì sự nghiệp cách mạng, phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân, vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của đồng bào
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu
tranh giải phóng, giành độc lập dân tộc và phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Mục tiêu cao cả đó đã được xác định ngay từ Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng (tháng 02-1930). Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là mục đích thiêng
liêng của Nhà nước cách mạng do Đảng lãnh đạo. Mỗi cán bộ, đảng viên, công
chức phải thấu hiểu sâu sắc lý tưởng cách mạng của Đảng để sống và làm việc
thật sự với tinh thần phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Lý tưởng, mục tiêu
của Đảng trở thành chuẩn mực đạo đức cách mạng, định hướng phấn đấu, rèn
luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức. Ở mọi thời kỳ đấu tranh cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo toàn dân tộc phấn đấu vì
những giá trị liêng liêng đó. Nhiều thế hệ đảng viên cộng sản đã đi đầu trong sự
nghiệp đấu tranh, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, chấp nhận sự hy sinh

trong hoạt động bí mật, trong lao tù của đế quốc, thực dân và trong chiến đấu
trực diện với kẻ thù, cùng đồng bào, chiến sĩ giành chiến thắng. Hồ Chí Minh
ln ln nhấn mạnh, đạo đức cách mạng là biết đặt lợi ích của cách mạng, của
Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, trước hết, thật sự dĩ công vi thượng.
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, đòi hỏi
Đảng phải coi trọng việc giáo dục, rèn luyện lý tưởng vì nước vì dân, trách
nhiệm phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân đối với mọi cán bộ lãnh đạo, quản
lý, công chức ở tất cả các cấp, các lĩnh vực công tác. Là đảng duy nhất cầm
quyền, nên Đảng càng cần phịng ngừa những biểu hiện độc đốn, chạy theo
chức quyền, đặc quyền, đặc lợi, phai nhạt lý tưởng, tham muốn vật chất, hưởng
thụ. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp như
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng chỉ ra đã kéo dài qua nhiều
nhiệm kỳ, chậm được khắc phục, sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng và sự tồn vong của chế độ. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
17


và năng lực cầm quyền của Đảng đòi hỏi phải tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng về mọi mặt. Trong đó, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng được đặt lên
hàng đầu; cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên phải
gương mẫu trước quần chúng.
3.2. Thực sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, kiên quyết chống
chủ nghĩa cá nhân
Cần phân biệt chủ nghĩa cá nhân với lợi ích cá nhân chính đáng. Lợi ích
cá nhân chính đáng thuộc về quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được Hiến pháp và pháp luật công nhận, tôn trọng và
bảo vệ. Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ, khơng chế độ nào tơn trọng và chăm lo
tới lợi ích chính đáng của con người như chế độ xã hội chủ nghĩa.

Người cũng kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bởi nó là mầm
mống của các bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật,
hẹp hịi, v.v. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã chỉ rõ
những biểu hiện về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ
hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng,
lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc, có ngun nhân từ tác động khách quan, nhưng
chủ yếu là từ nguyên nhân chủ quan. Đó là, cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng,
rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng,
trước nhân dân; kỷ cương, kỷ luật khơng nghiêm; giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống cịn hình thức. Vì vậy, việc chỉnh đốn Đảng, sửa chữa khuyết
điểm phải bắt đầu từ những vấn đề đó.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là q trình loại bỏ mặt tiêu cực của chủ nghĩa
cá nhân; đồng thời, bảo vệ và quan tâm tới lợi ích chính đáng của cá nhân, làm
cho nhân cách con người phát triển tồn diện, kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân
chính đáng và lợi ích của tập thể. Để phịng ngừa chủ nghĩa cá nhân, đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên phải tự mình rèn luyện theo chuẩn mực: cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư; các tổ chức đảng phải coi đây là nội dung lãnh đạo, giáo
dục cán bộ, đảng viên một cách thường xuyên, liên tục, với mọi đối tượng. Đồng
thời, phải tiếp tục quán triệt, học tập lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về năm
điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Theo đó, Nhân là thật thà thương u, hết lịng
giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Nghĩa là ngay thẳng, không tư tâm, không làm việc
18


bậy, khơng có gì phải giấu Đảng. Trí là khơng có việc làm mù quáng, cho nên
đầu óc trong sạch, sáng suốt.Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan
làm ; thấy khuyết điểm có gan sửa chữa; cực khổ, khó khăn, có gan chịu đựng,
có gan chống lại những sự vinh hoa, phú q khơng chính đáng. Liêm là không
tham địa vị, không tham tiền tài. Thực hiện những điều đó địi hỏi phải có quyết
tâm cao, vì nó hồn tồn do lịng mình mà ra.

3.3. Nêu cao tinh thần tiền phong, gương mẫu, nói đi đơi với làm
Để hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng Cộng sản phải là tổ chức
tiền phong, phấn đấu kiên cường để hiện thực hóa những mục tiêu thiêng liêng
của cách mạng. Mọi hành động, việc làm gương mẫu của cán bộ, đảng viên có
sức cảm hóa, thuyết phục để tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân
vào trận tuyến đấu tranh. Trong cách mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến,
chính sự hy sinh xương máu của những người cộng sản là tấm gương sáng để
quần chúng đi vào hành động cách mạng và vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
Trong hịa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản luôn có mặt
ở những nơi, những lĩnh vực khó khăn để tổ chức nhân dân xây dựng lại đất
nước, đồng cam cộng khổ, chia sẻ khó khăn cùng nhân dân. Đảng khởi xướng,
lãnh đạo cơng cuộc đổi mới vì sự phát triển đất nước, vì ấm no hạnh phúc của
nhân dân. Đó là điều mọi người dân Việt Nam đều thấy rõ ở đội tiền phong lãnh
đạo của mình. Hiện nay, phần đơng cán bộ, đảng viên vẫn giữ được tính tiền
phong, gương mẫu trước quần chúng nhân dân, làm tròn vai trị, trách nhiệm của
người lãnh đạo. Nhưng vẫn có khơng ít cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ
lãnh đạo, quản lý cao cấp không nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, nói khơng
đi đơi với làm. Họ hô hào chống tham nhũng nhưng lại tham lam, trục lợi cho
bản thân và gia đình. Sự tham lam đã tự giết chết nhân cách, danh dự hoặc nhắc
nhở thực hành tiết kiệm nhưng bản thân lại lãng phí, ăn chơi, hưởng lạc; miệng
nói chống quan liêu nhưng lại sợ đi thực tế tiếp xúc với nhân dân, thờ ơ, vơ cảm
với cuộc sống khó khăn của nhân dân. Những biểu hiện nói nhiều, làm ít, nói
hay, làm kém, hứa rồi khơng làm đã tổn hại đến uy tín của Đảng, trái với bản
chất cách mạng và mục tiêu của Đảng là vì nước, vì dân. Cần nhận rõ rằng, sự
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên là nguy cơ đối với Đảng và là cơ hội để các thế lực thù địch đẩy mạnh

19



chiến lược “Diễn biến hịa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phá
hoại Đảng, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng và khoa học. Đảng luôn
được xây dựng và tự chỉnh đốn để thực sự là đạo đức, là văn minh. Phẩm chất
đó được bồi đắp trên cơ sở của lý luận cách mạng và khoa học là chủ nghĩa Mác
– Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải nắm vững và tinh thông lý luận Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để vận dụng sáng tạo trong thực hành cơng việc. Đồng thời, phải có trình
độ chun mơn, nghiệp vụ vững vàng, năng lực thực tiễn giỏi, phương pháp, tác
phong công tác khoa học, sâu sát cơ sở; lời nói đi đơi với việc làm, đặt lợi ích
tập thể lên trên lợi ích cá nhân, biết quan tâm, chăm lo đến người khác. Ngoài ra,
cán bộ của Đảng còn phải nắm vững khoa học lãnh đạo, quản lý, khoa học chính
trị, kinh tế, xã hội, khoa học nghệ thuật quân sự, tri thức văn hóa, khoa học công nghệ và những tri thức khác.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn minh, văn hiến. Đảng Cộng sản
Việt Nam kế thừa và không ngừng bồi đắp những giá trị truyền thống đó. Văn
minh, văn hiến là sự hội tụ hịa quyện các yếu tố văn hóa, trí tuệ, đạo đức và cái
đẹp. Mỗi bước phát triển và thắng lợi của cách mạng, đất nước và dân tộc gắn
liền với chuẩn mực đạo đức, văn minh của dân tộc và của Đảng. Đạo đức, văn
minh sẽ chiến thắng những cái lạc hậu, bạo tàn, xấu xa, đảm bảo cho Đảng lãnh
đạo thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb. Chính trị quốc
gia, H. 2006.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb. Chính trị

quốc gia, H. 2011.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, H. 2016.
5. Giáo trình học thuyết Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây
dựng Đảng.
5. Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986
- 2016), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2015.
6. Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002.

21


KẾT LUẬN
Xuất phát từ yêu cầu phải có đảng lãnh đạo cách mạng mới thành cơng
triệt để, đồng thời nói rõ lập trường cách mạng của mình đối với một đảng cách
mạng chân chính, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên hệ với dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có
bàn chỉ nam... Bây giờ, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang tiến hành sự nghiệp đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa với nhiều thời cơ và thách thức, vận hội và nguy cơ đan
xen nhau, đang tác động qua lại hết sức phức tạp. Phải tranh thủ nắm bắt thời cơ,
tận dụng vận hội, vượt qua mọi thử thách, đẩy lùi mọi nguy cơ để đưa đất nước
đi lên. Vì vậy, Đảng ta địi hỏi tồn Đảng, tồn dân phải có một sự nỗ lực phi
thường. Sự nỗ lực ấy trước hết tập trung vào việc nâng cao hai mặt trí và đức
của mỗi cán bộ, đảng viên, cũng như nâng cao mặt bằng trí-đức của tồn xã hội.

Phải có cái trí ngang tầm thời đại và cái đức theo gương đạo đức Hồ Chí Minh,
chúng ta mới thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới đi tới được mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”./.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Minh Tuyết (Chủ biên), Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học
viện Báo chí và tun truyền: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, H.2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, H.2005.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, VIII, IX, X, XI,XII, Nxb Chính trị quốc gia.
4. Nguyễn Quốc Bảo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Nxb
Lao động, H.2001.
5. Lê Văn Lý (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nxb Chính trị quốc
gia, H.2002.

23




×