Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Chế độ hưu trí trong luật bảo hiểm xã hội năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 57 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
---0-0---

TRẦN CẨM TÚ

CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ TRONG LUẬT BẢO HIỂM
XÃ HỘI NĂM 2014

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan báo cáo này là nghiên cứu của riêng tôi.
Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong báo cáo có nguồn dẫn rõ ràng,
các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.

Sinh viên

Trần Cẩm Tú


MỤC LỤC


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ ...... 6
1.1.Khái niệm chế độ hưu trí ............................................................................. 6
1.1.1.Khái niệm, đặc điểm chế độ hưu trí ......................................................... 6
1.1.2.Nguyên tắc cơ bản của chế độ hưu trí ...................................................... 9
1.1.3.Vai trị của chế độ hưu trí ....................................................................... 11
1.1.4.Chế độ hưu trí theo quy định của các quốc gia khác trên thế giới và
những gợi mở cho Việt Nam ........................................................................... 13
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM............... 20
2.1.Lược sử q trình hình thành và phát triển chế độ hưu trí ở Việt Nam .... 20
2.2.Thực trạng pháp luật Việt Nam về chế độ hưu trí .................................... 22
2.2.1.Chế độ hưu trí trong loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc ...................... 22
2.2.2.Chế độ hưu trí trong loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện .................... 30
2.3. Thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí ở Việt Nam ....................................... 32
2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 32
2.3.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chế độ hưu trí .............................. 36
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM GĨP PHẦN HỒN THIỆN
CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014 ....... 42
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam..... 42
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về chế
độ hưu trí ......................................................................................................... 43
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức triển khai thực hiện
chế độ hưu trí ở Việt Nam. .............................................................................. 45
KẾT LUẬN .................................................................................................... 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 51



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BQTL

: Bình quân tiền lương


MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
Chế độ hưu trí là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội quan trọng

nhất của hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam. Bảo hiểm xã hội
nói chung và chế độ hưu trí nói riêng đều góp phần bảo đảm cho quyền con
người được thực hiện một cách trọn vẹn, xác đáng nhất. Bảo hiểm xã hội là
một loại chế độ pháp định nhằm bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền
đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự tài trợ, bảo hộ
của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thật nghiệp, hết tuổi lao động theo quy
định của pháp luật. Qua thời gian dài tổ chức thực hiện, chế độ hưu trí cũng
với các chế độ bảo hiểm xã hội khác đã và đang đảm bảo cho người lao động
những điều kiện nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.

Chế độ hưu trí đã bắt đầu xuất hiện từ thời kỳ phong kiến với các
quy định hết sức sơ khai và áp dụng chủ yếu đối với một số viên chức và một
số chức danh trong bộ máy chính quyền. Hệ thống hưu trí Việt Nam chính
thức được hình thành từ năm 1962. Ngày 27/12/1961, Nghị định 218/CP về
ban hành điều lệ tạm thời về ác chế độ BHXH đối với công nhân viên chức
nhà nước được ban hành, nghị định này được coi là văn bản gốc về bảo hiểm
xã hội đối với cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước. Sau đó là sự ra đời của
Bộ luật lao động năm 1995 và đến năm 2006, chương Bảo hiểm xã hội trong
Bộ Luật Lao động được tách ra thành Luật Bảo hiểm xã hội; trong đó, chế độ
hưu trí có quy định tại một mục riêng với 13 Điều.
Trong hơn 40 qua, chế độ hưu trí ln có một vị trí quan trọng, góp
phần vào việc ổn định đời sống của công nhân viên chức, lực lượng vũ trang
và gia đình họ làm cho họ yên tâm lao động sản xuất, thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ chính trị của đất nước. Sự ra đời và phát triển của các chính sách về

1


hưu trí nói riêng và chính sách bảo hiểm xã hội nói chung có tầm quan trọng
lớn đối với xã hội do sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển đa ngành nghề, dẫn
đến nhu cầu về bảo hiểm xã hội ngày càng tăng cũng như số lượng người về
hưu ngày càng nhiều thì đời sống của họ ln là mối quan tâm lớn của Đảng
và nhà nước ta. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi một số quy định trong
Luật bảo hiểm xã hội có hiệu lực kể từ thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2018,
vấn đề hưu trí lại càng nhận được sự quan tâm nhiều hơn.
Để có thể đảm bảo đạt hiệu quả cao trong việc quy định các chế độ
dành cho người tham gia lao động đã về hưu thì việc xây dựng và hồn thiện chế
độ hưu trí là điều hết sức cần thiết. Từ thời kỳ bao cấp cho đến thời kỳ cơng
nghiệp hóa-hiện đại hóa ngày nay, theo cùng với sự phát triển của đất nước là sự
đa dạng hóa của các loại ngành nghề, dẫn đến yêu cầu về nguồn lao động ngày

càng tăng cao. Nguồn lao động càng lớn, địi hỏi phải có những chính sách càng
tiến bộ, theo kịp với yêu cầu của thời đại, bảo đảm sự ổn định cho chính nguồn
lao động đó. Đồng thời, việc nghiên cứu và đánh giá tính khả thi và hạn chế của
những quy định được áp dụng tại thời điểm năm 2018 cũng rất cần thiết nhằm
giúp cho việc thực hiện bảo hiểm xã hội đạt hiệu quả cao.
Xuất phát từ tầm quan trọng của chế độ hưu trí, thực trạng pháp luật
cũng như thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí ở Việt Nam, việc đi sâu nghiên
cứu các quy định pháp luật hiện hành về chế độ hưu trí có sự tham chiếu, so
sánh với pháp luật quốc tế để tìm ra những thiếu sót, hạn chế; ngun nhân
của hạn chế và đề ra giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ hưu trí về mọi mặt
trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Chính vì lý do đó, tơi đã chọn đề
tài “ Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014” làm đề tài tốt
nghiệp với hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào công tác nghiên cứu trong
lĩnh vực pháp luật về bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ hưu trí nói riêng.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế độ hưu trí là một trong những chế độ quan trọng nhất trong hệ

thống các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam nói riêng và trên phạm vi thế

2


giới nói chung. Chính vì vậy, đề tài hưu trí ln nhận được sự quan tâm,
nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau; nhận được sự theo dõi, tìm hiểu
của nhiều thành phần trong xã hội. Có thể kể đến một số cơng trình sau:
-

Tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng với bài viết: “Góp ý vào Dự


thảo Luật bảo hiểm xã hội: Hồn thiện chế độ bảo hiểm hưu trí”, Tập chí
Nghiên cứu lập pháp, số 8/2005;
- Tác giả Trần Phương Thảo và Nguyễn Anh Tuấn với bài viết: “Hệ
thống hưu trí trên thế giới: kinh nghiệm quốc tế và xu hướng cải cách”, Tạp
chí Tài chính-Bảo hiểm, số 3/2013;
-

Tác giả Bùi Cẩm Hường với bài viết: “Nỗ lực cải cách hệ thống

hưu trí Việt Nam: Bảo hiểm hưu trí tự nguyện và Bảo hiểm hưu trí bổ sung”,
Tạp chí Tài chính- Bảo hiểm, số 3/2013;
- Tác giả Bùi Ngọc Thanh với bài viết: “Kiến nghị sửa đổi chế độ hưu
trí trong Luật bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19/2013;
- Tác giả Đặng Như Lợi với bài viết: “ Cải cách Luật bảo hiểm xã hội
để mở rộng bảo hiểm hưu trí đối với người cao tuổi”, Tạp chí Lý luận chính
trị số 12/2014.
Ngồi ra, có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu khá như:
- Tác giả Trần Cơng Dũng với cơng trình: “Góp phần hồn thiện chế
độ hưu trí trong pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”, Khoa Luật
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002;
- Tác giả Lê Ngọc Linh với cơng trình: “Cải cách chế độ bảo hiểm
hưu trí trên thế giới và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2008;
- Tác giả Nguyễn Thị Hiên với công trình: “Những điểm mới về chế
độ bảo hiểm hưu trí của Luật Bảo hiểm xã hội 2006”, Trường đại học Luật Hà
Nội năm 2007.
-

Tác giả Lê Ngọc Linh với công trình: “Bảo hiểm hưu trí-Thực


trạng và kiến nghị”, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2015.

3


Có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu trên đều tập trung tìm hiểu,
nghiên cứu về chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội qua mỗi thời kỳ. Tuy
nhiên, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 mới có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2016 và đặc biệt ở phần chế độ hưu trí có những quy định bắt đầu có
hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018; vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “ Chế độ hưu
trí trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014” là cần thiết về cả vấn đề lý luận và
thực tiễn.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài làm rõ các vấn đề sau:
Nghiên cứu, làm rõ nội dung các quy định của pháp luật hiện hành,

đặc biệt là các quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về chế độ hưu
trí, cũng như vai trị và tác động của chế độ hưu trí trong q trình phát triển
kinh tế và xã hội.
Tìm hiểu thực tiễn chế độ hưu trí tại Việt Nam, từ đó rút ra những ưu
điểm và hạn chế, vướng mắc của những quy định đó.
Đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Bảo hiểm xã hội về chế độ hưu trí.
Từ những mục đích trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứ cụ
thể như sau:
Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm của và các chế độ BHXH, trong đó
đi sâu phân tích khái niệm, đặc điểm của chế độ hưu trí.

Nghiên cứu so sánh một số chính sách về chế độ hưu trí trong Luật bảo
hiểm xã hội ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam.
Nghiên cứu thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí ở Việt Nam, từ đó rút
ra những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật về chế độ hưu trí
và thực tiễn thực hiện.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về

chế độ bảo hiểm hưu trí, về thực trạng các quy định của pháp luật về bảo hiểm
hưu trí và thực trạng thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí tại Việt Nam.

4


Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế độ hưu
trí được quy định trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và các văn bản hướng
dẫn thi hành, đồng thời so sánh đối chiếu với chế độ hưu trí của một số nước
trên thế giới, những quy định pháp luật quốc tế về vấn đề này.
5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận Mác – Lênin về duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đồng thời
vận dụng các tư tưởng chủ đạo của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới tư duy
chính trị - pháp lý, về cải cách hành chính tư pháp và về chính sách an sinh xã
hội, trong đó có chế độ bảo hiểm hưu trí.
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ đặt ra, luận văn được thực

hiện dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật biện chứng, kết hợp
logic với phương pháp phân tích, thống kê, so sánh và tổng hợp.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của báo cáo nghiên cứu
Luận văn sẽ góp phần làm rõ và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận và

thực tiễn về hoạt động bảo hiểm xã hội nói chung và về chế độ hưu trí nói riêng.
Đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
chế độ hưu trí và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo hiểm hưu
trí ở Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn có sự thay đổi về cách tính lương
hưu hiện nay
Các kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
việc nghiên cứu, giảng dạy pháp luật về lao động, phần chuyên về BHXH.
7.

Kết cấu của báo cáo nghiên cứu
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận.
Chương 2: Thực trạng chế độ hưu trí ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện chế độ hưu trí
trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ


1.1.

Khái niệm chế độ hưu trí

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chế độ hưu trí
Hệ thống hưu trí là bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội tại
bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Hệ thống hưu trí thơng thường được xây
dựng gồm ba tầng (phúc lợi xã hội, hưu trí bắt buộc, hưu trí tự nguyện) nhằm
đảm bảo diện bao phủ rộng và cung cấp sản phẩm hưu trí linh hoạt, đảm bảo
nhu cầu và quyền lợi cho người cao tuổi. Tùy theo trình độ phát triển kinh tế
và cơ cấu dân số xã hội, hệ thống hưu trí được xây dựng tương đối khác biệt
theo từng quốc gia.
Chế độ hưu trí được hình thành tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới
nói chung bởi những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Thông thường, mỗi
người chỉ có một khoảng thời gian có đầy đủ các điều kiện về sức khỏe và trí
tuệ để tham gia lao động. Vì vậy, dựa vào các nghiên cứu về khả năng lao
động ở các quốc gia trên thế giới, có thể thấy độ tuổi về hưu là tương đối
đồng đều. Từ đó có thể thấy, những người khơng cịn khả năng lao động sẽ
khơng cịn khả năng tự tạo ra thu nhập cho bản thân. Và để đảm bảo lợi ích
cho người lao động khi họ đã tham gia cống hiến sức lao động của mình trong
một khoảng thời gian dài, Nhà nước đã đưa ra các quy định về chế độ hưu trí
nhằm đảm bảo thu nhập cho người lao động khi đã hết tuổi lao động.
Chế độ hưu trí có thể được hiểu theo một vài nghĩa khác nhau:
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì chế độ hưu trí là dạng trợ cấp
cho những người tham gia bảo hiểm xã hội đạt đến độ tuổi cao mà khơng tiếp
tục làm việc bình thường nữa.
Chế độ hưu trí nhằm chu cấp phần thu nhập bị mất cho những người
lao động khi đã kết thúc quá trình lao động, để đảm bảo đời sống cho chính
những người lao động này.


6


Chế độ hưu trí là chế độ bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo thu nhập cho
người lao động hết tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia quan hệ lao động
với mục đích đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân sau
khi đã hồn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội; ổn định đời sống cho
người lao động sau khi họ hết tuổi lao động, góp phần tăng cường sức khỏe và
nâng cao tuổi thọ; thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và xã hội đối với người
lao động không chỉ trong quá trình lao động mà kể cả khi người lao động hết
tuổi lao động; thể hiện đạo lý dân tộc, trình độ văn minh của xã hội.
Chế độ hưu trí là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các
điều kiện và mức trợ cấp cho những người tham gia bảo hiểm hưu trí, khi đã
hết tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia quan hệ lao động.
Có thể thấy, các định nghĩa về chế độ hưu trí nêu trên có sự tương
đồng nhau, là một chế độ bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo thực hiện quyền
lợi hợp pháp của người lao động sau khi đã hồn thành nghĩa vụ lao động
và đóng bảo hiểm xã hội, nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao
động khi khơng cịn khả năng lao động bình thường, hay còn gọi là khi đã
hết tuổi lao động.
Đặc điểm của chế độ hưu trí:
Thứ nhất, chế độ hưu trí là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội.
Tuy nhiên, khác với chế độ thai sản hay chế độ ốm đau..., người lao động tiến
hành đóng bảo hiểm hưu trí ngay trong q trình lao động, nhưng lại được
hưởng ngồi q trình lao động, tức là sau khi đã đáp ứng đủ các điều kiện để
được nghỉ hưu và hưởng lương hưu.
Thứ hai, chế độ hưu trí nhằm tạo ra một khoản thu nhập ổn định cho
người lao động sau quá trình về hưu, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân sau khi đã đóng góp và cống hiến sức lao động của mình

cho xã hội, tạo ra của cải vật chất và phát triển đời sống.
Thứ ba, chế độ hưu trí do Nhà nước thống nhất quản lý và quy định
Thứ tư, để được hưởng chế độ hưu trí, người lao động phải thuộc đối

7


tượng được hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí, đồng thời đáp ứng các điều kiện
theo quy định của pháp luật về tuổi, thời gian đóng bảo hiểm,…
Thứ năm, mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng,
và thời gian đóng bảo hiểm xã hội trong q trình lao động
Bản chất của chế độ hưu trí
Một là, chế độ hưu trí đặt ra với người lao động kể từ thời điểm họ về
hưu cho đến khi họ chết, với mục đích nhằm đảm bảo một khoản lương hưu
cho người lao động khi họ khơng cịn khả năng tạo ra thu nhập do các nguyên
nhân như tuổi cao, sức yếu, khơng cịn khả năng làm việc ở điều kiện bình
thường. Những điều kiện về nội dung cụ thể được quy định trong Luật bảo
hiểm xã hội năm 2014.
Hai là, chế độ hưu trí là một chế độ bảo hiểm xã hội mang tính dài hạn.
Điều này được thể hiện ở hai q trình là q trình đóng và q trình hưởng
lương hưu. Người lao động có trách nhiệm tham gia đóng bảo hiểm xã hội trong
suốt quãng thời gian làm việc cho đến khi đã đủ các điều kiện về tuổi đời và thời
gian tham gia bảo hiểm xã hội thì họ sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng
thời gian tính từ lúc về hưu cho đến khi người lao động chết. Theo đó, thời gian
đóng và hưởng lương hưu có thể chênh lệch nhau nhiều hay ít phụ thuộc vào
tuổi thọ cũng như số năm công tác của từng người lao động.
Ba là, chế độ hưu trí có sự kế thừa giữa các thế hệ lao động trong việc
hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm hưu trí. Đặc trưng này thể hiện nguyên
tắc lấy số đơng bù số ít - một ngun tắc đặc thù của bảo hiểm xã hội. Mọi
người tham gia bảo hiểm xã hội đóng góp cho bên nhận bảo hiểm xã hội và

tích dần thành một quỹ tài chính độc lập dùng để chi trả trợ cấp cho người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập trong các chế độ đã quy định. Số trợ
cấp của họ nhận được thường lớn hơn so với số tiền đóng góp của họ. Điều
này tạo nên cơ chế phải lấy kết quả đóng góp của số đơng người tham gia để
bù cho số ít người được hưởng trợ cấp.

8


1.1.2. Nguyên tắc cơ bản của chế độ hưu trí
Chế độ bảo hiểm hưu trí là một trong những chế độ BHXH, vì vậy, chế
độ hưu trí cũng tn thủ theo những nguyên tắc cơ bản của chế độ bảo hiểm
xã hội và có thêm một số nguyên tắc đặc thù.
Thứ nhất, đảm bảo sự công bằng cho mọi thành viên trong xã hội có
quyền được tham gia và hưởng an sinh xã hội.
Những quy định về chế độ hưu trí nhằm mục đích lớn nhất là đảm bảo
cho người lao động sau khi về hưu một khoản tiền nhằm họ ổn định cuộc
sống. Việc này cần thực hiện đối với mọi người lao động theo nguyên tắc
đóng – hưởng, bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã hội, xây dựng chính sách
khuyến khích nơng dân, lao động trong khu vực phi chính phủ tham giao bảo
hiểm xã hội tự nguyện. Mặc dù khơng cịn khả năng lao động, nhưng họ vẫn
nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Điều này cũng nhằm thể hiện sự quan
tâm của Nhà nước với chính sách xã hội và với tầng lớp hưu trí chiếm một số
lượng khơng nhỏ trong xã hội.
Thứ hai, phân biệt hợp lý chế độ bảo hiểm hưu trí giữa lao động nam
và lao động nữ.
Mặc dù hiện này, nam và nữ là hồn tồn bình đẳng trong các mối quan
hệ, tuy nhiên vì một số lý do sinh học nên chế độ hưu trí giữa lao động nam
và nữ vẫn có sự ưu đãi hơn dành cho nữ giới. Trong Luật bảo hiểm xã hội
năm 2014, ngoài các quy định chung về chế độ bảo hiểm xã hội đối với người

lao động tham gia bảo hiểm xã hội, cịn có quy định riêng đối với lao động nữ
tại Điều 54 về điều kiện hưởng lương hưu của nam là đủ 60 tuổi và nữ là 55
tuổi. Sự chênh lệch thời gian 05 năm về tuổi nghỉ hưu cũng tạo ra sự chênh
lệch 05 năm trong thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Cụ thể, mức lương hưu
hàng năm của người lao động đủ điều kiện theo quy định của Luật bảo hiểm
xã hội được tính bằng 45% mức bình qn tiền lương, tiền cơng tháng đóng
BHXH tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mooixx năm
đóng BHXH được tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, mức tối đa
được hưởng bằng 75%.
9


Tuy nhiên hiện nay theo cách tính mới kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2018, mức hưởng lương hàng tháng của người lao động đủ điều kiện được
tính bằng 45% mức bình qn tiền lương hàng tháng đóng BHXH và tương
ứng với số năm đóng BHXH là: Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16
năm, năm 2019 là 17 năm, năm 2020 là 18 năm,…; Lao động nữ nghỉ hưu
vào năm 2018 trở đi là 15 năm. Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động
được tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%. Vì vậy dù theo quy định trước đây
hay quy định hiện hành, thì cách tính lương hưu của nam với nữ cũng có phần
ưu tiên hơn dành cho lao động nữ.
Trong các nguyên tắc của chế độ hưu trí có ngun tắc đảm bảo sự
công bằng cho mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng an sinh xã hội và
nguyên tắc có sự phân biệt hợp lý chế độ hưởng bảo hiểm hưu trí giữa lao
động nam và lao động nữ. Hai nguyên tắc trên tưởng chừng như có sự đối
nghịch lẫn nhau, tuy nhiên, việc đảm bảo ưu tiên cho lao động nữ có những lý
do liên quan đến thể chất, giới tính khiến việc tạo ưu tiên cho họ mới giúp
thực sự đảm bảo nguyên tắc công bằng.
Thứ ba, nguyên tắc ưu đãi với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định
như người lao động hành nghề có tính chất nặng nhọc độc hại, làm việc ở

vùng xa xôi hẻo lánh, làm việc trong lĩnh vực an ninh quốc phòng,...
Nguyên tắc này quy định người lao động làm những công việc nặng nhọc
độc hại, làm việc ở những vùng sâu vùng xa hoặc làm việc trong lực lượng vũ
trang sẽ được nghỉ hưu sớm hơn nhưng không phải trừ tỷ lệ lương hưu. Trường
hợp người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định trên mà vẫn
muốn tiếp tục làm việc và người sử dụng lao động vẫn có nhu cầu sử dụng thì
người lao động vẫn tiếp tục là việc và tham gia BHXH bắt buộc theo quy định.
Tuy nhiên, nếu họ không muốn tiếp tục làm việc thì sẽ có quyết định nghỉ việc và
lập hồ sơ hưởng lương hưu đối với người đang đóng BHXH gửi cơ quan BHXH
giải quyết theo quy định.Việc này vừa nhằm tạo điều kiện cho người lao động,
đồng thời cũng thể hiện sự công nhận và quan tâm của Nhà nước đối với cơng sức
và sự cống hiến của nhóm đối tượng này.
10


Thứ tư, mức trợ cấp chế độ hưu trí phù hợp với tốc độ tăng trưởng
kinh tế.
Chế độ hưu trí rất quan trọng trong chính sách bảo hiểm xã hội của một
quốc gia, hầu hết người lao động của quốc gia đó đều tham gia chế độ hưu trí
gần như cả cuộc đời mình, tác động đến đời sống vật chất, tinh thần của người
lao động và gia đình của họ cũng như của xã hội. Như vậy, chế độ hưu trí có
ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội của quốc gia đó và ngược lại, Nền
kinh tế đạt trình độ phát triển cao thì mức sống của người lao động, của người
dân và tuổi thọ cũng không ngừng được nâng cao, cấu trúc dân số sẽ có sự
biển đổi. Trong các trường hợp này, tuổi về hưu của người lao động kéo dài.
Tại Việt Nam, theo quy định của pháp luật đã tiến hành tăng số năm
đóng bảo hiểm xã hội khi tính tỷ lệ để hưởng lương hưu, và tăng dần độ tuổi
tính tỷ lệ hưởng lương hưu.
1.1.3. Vai trị của chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí giữ vai trị quan trọng vì đó là vấn đề quan tâm của

người lao động khi tham gia quan hệ bảo hiểm vì hầu hết mọi người tham gia
đều là đối tượng của bảo hiểm hưu trí. Theo dự báo Dân số của Liên hợp quốc
năm 2002 về dân số Việt Nam đên năm 2050, tỷ lệ người già (trên 60 tuổi) sẽ
chiếm khoảng 25% dân số. Vì vậy, việc tạo ra một khoản thu nhập ổn định
cho họ sau quá trình về hưu là rất cần thiết, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân sau khi đã đóng góp và cống hiến sức lao động của
mình cho xã hội, tạo ra của cải vật chất và phát triển đời sống. Từ đó có thể
nhận thấy, chế độ hưu trí có một vai trị to lớn đối trong đời sống xã hội.
Đối với người lao động, bảo hiểm xã hội được coi là điều kiện cho
người lao động được cộng động tương trợ khi xảy ra các rủi ro như ốm đau,
tai nạn,…Và chế độ hưu trí đảm bảo việc thực hiện quyền và lợi ích của
người lao động sau khi họ đã hồn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội.
Xét về tuổi đời, họ đa phần là những người cao tuổi, bị giảm hoặc hết khả
năng lao động. Xét về mặt xã hội, họ là những người đã có đóng góp một
phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

11


Chế độ hưu trí mang tính chất hồn trả và ít nhiều có sự tách biệt giữa
đóng và hưởng vì người tham gia bảo hiểm đóng suốt thời kỳ lao động được
hưởng trợ cấp khi về hưu. Hàng tháng, người lao động đều đóng một khoản
tiền nhất định vào quỹ bảo hiểm xã hội, chính điều này đã góp phần chi tiêu
hợp lý, cân đối hơn nhằm dụ phòng một khoản thu nhập cho tuổi già. Ngồi
ra cịn có thể thấy, bảo hiểm hưu trí là khoản thu nhập chính đáng, nhằm đảm
bảo cho họ cuộc sống ổn định về mặt vật chất và tinh thần sau khi họ đã bị
giảm hoặc khơng cịn khả năng lao động. Khoản trợ cấp này tạo nên tâm lý
thoải mái, không phụ thuộc vào gia đình và người thân, giúp họ khơng mặc
cảm là gánh nặng của gia đình và xã hội.
Đối với người sử dụng lao động, BHXH có tác dụng nhằm ổn định

hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách phân phố các khoản chi phí cho
người lao động một cách hợp lý. Hơn nữa, việc tham gia bảo hiểm xã hội nói
chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng giúp tạo được mối quan hệ tốt với người
lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình đối
với người lao động để họ yên lao động sản xuất.
Việc có một khoản trợ cấp ổn định sau khi hết tuổi lao động sẽ giúp
người lao động tích cực và có động lực làm việc hơn, góp phần tăng năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm và tạo nên lợi nhuận nhiều hơn cho người sử
dụng lao động. BHXH nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng cịn là yếu tố
quan trọng góp phần thu hút, ổn định thị trường lao động, tạo điều kiện phát
triển sản xuất do người lao động có xu hướng lựa chọn những doanh nghiệp
có tham gia BHXH cho người lao động để vào làm việc.
Đối với xã hội, chế độ BHXH thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, của
xã hội, của người sử dụng lao động đối với những người đã có q trình lao
động, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, nay hết tuổi lao động.
BHXH là căn cứ nhằm đánh giá trình độ quản lý rủi ro và mức độ an sinh xã
hội đạt được trong mỗi quốc gia. Đồng thời, nhằm phản ánh trình độ phát
triển kinh tế, xã hội của các nước.

12


Hiện nay, xu hướng già hóa dẫn đến số lượng người nghỉ hưu ngày
càng tăng. Điều này cho thấy rõ vai trị ngày càng quan trọng của chế độ hưu
trí trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Hơn nữa, chế độ bảo hiểm
hưu trí cịn thể hiện được sự quan chăm sóc của Nhà nước, người sử dụng lao
động đối với người lao động, cao hơn nữa là phản ánh trình độ văn minh của
một chế độ xã hội.
Bảo hiểm hưu trí tạo niềm tin tương lai cho người lao động, thúc đẩy
họ gắn bó với cơng việc vào tạo tâm lý n tâm, tích cực làm việc để tăng

thêm nguồn thu nhập và cũng từ đó có điều kiện tăng mức đóng bảo hiểm hưu
trí để khi hết tuổi lao động được nhận tiền lương bảo hiểm hưu trí.
1.1.4. Chế độ hưu trí theo quy định của các quốc gia khác trên thế
giới và những gợi mở cho Việt Nam
Tuổi nghỉ hưu thường được xác định dựa trên tuổi già sinh học của
người lao động. Ở các nước có dân số già (tỷ trọng người già chiếm trên 10%
dân số), lực lượng lao động trong tuổi ít nên thường quy định tuổi nghỉ hưu
cao. Ngược lại, đối với các nhóm nước có dân số trẻ thường quy định tuổi
nghỉ hưu thấp để đổi mới lực lượng lao động.
Nhóm các nước ASEAN: Đây là nhóm các nước có mối quan hệ gần
gũi với Việt Nam về vị trí địa lý, tại đây, tuổi về hưu được pháp luật quy định
cụ thể như sau
Tuổi tiêu chuẩn

Tuổi nghỉ hưu sớm có điều kiện

Nhật Bản

65 cho cả hai giới

khơng

Lào

60 cho cả hai giới

tới 5 năm

Phi-lip-


60 cho cả hai giới

tới 5 năm

pin
tới 10 năm

Hàn Quốc 65 cho cả hai giới
Thái Lan

55 cho cả hai giới

Đài Loan

60 nam 55 nữ

tới 10 năm (nam) tới 5 năm (nữ)

Việt Nam

60 nam 55 nữ

tới 5 năm

13


Indonesia

55 cho cả hai giới


không

Malaysia

55 cho cả hai giới

không

Singapore

62 cho cả hai giới

không

Trung

60 cho nam giới

tới 10 năm (45 cho phụ nữ)

Quốc

50 tới 60 cho phụ nữ

Nguồn: Cơ quan An sinh Xã hội Hoa Kỳ (2016).
Trung Quốc: phụ nữ có chuyên môn nghỉ hưu ở tuổi 60, các phụ nữ hưởng
lương khác nghỉ hưu ở tuổi 55, và các phụ nữ khác nghỉ hưu ở tuổi 50.
Nhóm các nước Tây Âu và Bắc Mỹ:
Tuổi nghỉ hưu tại các quốc gia OECD, thời kỳ 1949-2035

1989

1993

2002

2035

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Nam Nữ

Úc

65

60

65


60

65

62.5

65

65

Áo

65

60

65

60

65

60

65

65

Bỉ


60

60

60

60

60

60

65

65

Ca-na-đa

60

60

60

60

60

60


60

60

Đan Mạch

67

67

67

67

67

67

65

65

Phần Lan

60

60

60


60

60

60

62

62

Pháp

60

60

60

60

60

60

60

60

Đức


65

60

65

60

65

61

65

65

Hy Lạp

60

55

60

55

60

60


65

65

Ai-xơ-len

67

67

65

65

67

67

67

67

Ailen

65

65

65


65

65

65

65

65

Ý

60

55

60

55

57

57

60

60

Nhật Bản


60

56

60

58

60

60

65

65

Lu-xem-bua

65

65

57

57

60

60


60

60

Hà Lan

65

65

65

65

65

65

65

65

Niu Zilân

60

60

62


62

65

65

65

65

14


Na-Uy

67

67

67

67

67

67

67

67


Bồ Đào Nha

65

62

55

55

55

55

55

55

Tây Ban Nha

65

65

60

60

60


60

61

61

Thuỵ Điển

60

60

60

60

61

61

61

61

Thuỵ Sĩ

65

60


65

62

65

63

65

64

Anh

65

60

65

60

65

60

65

65


Mỹ

62

62

62

62

62

62

62

62

Nguồn: Turner (2007).
Từ những số liệu trên, có thể thấy mặc dù trình độ phát triển cũng như
vị trí địa lý của các quốc gia có sự khác biệt, tuy nhiên tuổi nghỉ hưu đều dao
động từ 55 đến 65 tuổi. Trong đó, 1/3 số nước quy định tuổi nghỉ hưu của
nam nữ như nhau, còn lại thường quy định nam cao hơn so với nữ, thường là
05 tuổi.
Ngoài điều kiện về tuổi, thời gian đóng bảo hiểm xã hội cũng có một ý
nghĩa rất quan trọng trong việc xác lập chế độ hưu trí. Các quốc gia đều quy
định thời gian đóng BHXH tổi thiểu và thời gian đóng BHXH dao động từ 15
đến 45 năm. Cụ thể ở các quốc gia như sau:
Ở Trung Quốc, thời gian đóng phí bảo hiểm hưu trí tối thiểu là 20 năm

[2.tr.25]
Thái Lan: Người đến tuổi về hưu (55 tuổi) muốn nhận lương hưu phải
đạt điều kiện đã đóng BHXH ít nhất 15 năm. Trường hợp đóng bảo hiểm
nhiều hơn 15 năm, thì cứ mỗi năm đóng thêm đó, lương hưu sẽ được cộng
thêm 1,5%[25]
Pháp: đóng 150 tháng liên tục [53]
Có thể thấy, việc quy định thời gian đóng góp là khác nhau ở từng quốc
gia, tuy nhiên hầu hết đều quy định mức đóng tối thiểu và phần đóng góp này
phải đủ chi trả các trợ cấp hưu trí ở mức thấp nhất.
Tại Trung Quốc: chế độ hưu trí của Trung Quốc có sự tương đồng với
Việt Nam, được chia thành bảo hiểm hưu trí bắt buộc và bảo hiểm hưu trí tự

15


nguyện. Người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu theo quy định và tham gia ít
nhất 15 năm sẽ được nhận trợ cấp hưu trí hàng tháng. Trợ cấp này gồm 02
phần chính: phần từ quỹ cộng đồng bằng 20% mức tiền lương trung bình năm
trước của người lao động; phần thứ hai là từ tài khoản cá nhân bằng 1/120 của
tổng số tích lũy được. Những người làm việc trước thời gian ban hành chính
sách nói trên sẽ được áp dụng chế độ hưu trí quá độ khi nghỉ hưu và Nhà nước
sẽ điều chỉnh mức độ trợ cấp hưu trí theo sự phát triển kinh tế. Những người
tham gia hưu trí cơ bản trước năm 2011, khi đã đến tuổi về hưu mà vẫn chưa
đóng đủ 15 năm BHXH nhưng nhiều hơn 10 năm, thì có thể trả nốt trong một
lần để đạt đủ tiêu chí hưởng lương hưu theo cơ chế hiện tại, hoặc chuyển số
tiền đó cho các dự án ở nông thôn hoặc cho những người khơng có lương hưu
ở thành phố [4].
Tại Nhật Bản, người tham gia bảo hiểm có thể nhận lương sớm từ 60 –
64 tuổi, nhưng mức lương hưu sẽ giảm đi bằng 0,5% nhân với số tháng nhận
lương hưu sớm, ngược lại nếu nhận lương hưu muộn từ 66 – 70 tuổi, mức

lương hưu sẽ tăng lên là 0,7% nhân với số tháng muộn. Người lao động tham
gia chế độ bảo hiểm cho người lao động sẽ nhận được trợ cấp lương hưu cơ
bản và lương hưu tính trên cơ sở tiền lương đóng bảo hiểm [17, tr.4]
Tại Mỹ, những người lao động đã về hưu sẽ được hưởng tiền trợ cấp
tuổi già từ quỹ Social Security. Đối với những người đã từng đi làm, mức tiền
trợ cấp tuổi già được tính từ số năm đi làm và mức lương trong những năm
đó, tương tự như đối với bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam. Khi lĩnh lương, họ sẽ
trích lại 6,2% lương và người trả lương góp thêm 6,2% lương nữa để nộp vào
quỹ Social Security. Ngoài ra, họ cịn có tài khoản hưu trí, mỗi người sẽ tự
quyết định trích bao nhiêu phần trăm lương của mình để gửi vào tài khoản
hưu trí. Tài khoản này được giao cho công ty quản lý quỹ hoặc công ty bảo
hiểm nhân thọ quản lý. Số tiền trích vào quỹ hưu trí sẽ khơng chịu thuế thu
nhập cho tới khi được rút ra dùng [25]

16


Tại Đan Mạch, chế độ hưu trí được phân làm hai loại: loại đầu tiên đảm
bảo lương hưu phổ thông cho tất cả những người trên 65 tuổi. Tính đến năm
2015, số tiền tối đa một người nhận được rơi vào khoảng 10.081USD. Để
nhận được loại lương hưu trên, một cá nhân phải đăng ký sống ở Đan Mạch
trong 40 năm trong khoảng độ tuổi từ 15 đến 65. Nếu cư trú ít hơn, cá nhân đó
vẫn được nhận lương hưu nhưng sẽ bị giảm theo tỷ lệ. Loại thứ hai là lương
hưu đóng góp, đây là loại lương hưu bắt buộc các cơng ty phải đóng góp cho
nhân viên của mình trong độ tuổi từ 16 – 65 và với thời gian là việc hơn
9h/tuần. Người sử dụng lao động sẽ phải thanh tốn 2/3 só tiền đóng góp cố
định. Số tiền này sẽ giảm xuống tương ứng với người làm việc bán thời gian.
Ngồi ra cịn có lương hưu dựa trên thỏa ước giữa nhà tuyển dụng và người
lao động. Thơng thường người lao động đóng góp khoảng 9-17% lương của
họ [25]

Tại Canada, tình trạng hưu trí của mỗi người là khác nhau, quy tắc
chung là mọi người cần ít nhất là 70% thu nhập trước khi nghỉ hưu để có thể
sống một cách thoải mái trong thời kỳ nghỉ hưu. Hệ thơng hưu trí của Canada
gồm 03 tầng, điều này tạo nên sự linh hoạt và đa dạng cho nhiều đối tượng
khác nhau có thể áp dụng. Tầng thứ nhất là tầng an sinh tuổi già (OAS) đảm
bảo sự hỗ trợ cơ bản cho những người từ 65 tuổi đáp ứng được một số đòi hỏi
cơ bản về thời gian cư trú. Quỹ này được tài rợ bằng nguồn thu thuế của
Chính phủ liên bang. Tầng thứ 2 là chế độ trợ cấp hưu trí ở Canada (CPP)
đảm bảo sự hỗ trợ bổ sung trên cơ sở thu nhập và đóng góp cho người từ 60
tuổi trở lên. Đây là chế độ bảo hiểm xã hội đóng góp dựa trên thu nhập. Tầng
thứ 3 là trợ cấp hưu trí tư nhân và tiết kiệm cá nhân, một số chương trình
được hỗ trợ về thuế, như trợ cấp hưu trí nghề nghiệp. Mức hưởng thơng
thường cho một người 65 tuổi ở Canada là một trợ cấp hàng tháng bằng 25%
lợi tức trung bình. Nếu trợ cấp được nhận trước tuổi 65, số tiền nhận được bị
giảm 0,5% cho mỗi tháng tính gộp giữa lúc bắt đầu trợ cấp và tháng sau ngày
sinh nhật thứ 65 của người được hưởng. Những người lùi việc chuyển trợ cấp

17


của mình giữa 65 và 70 tuổi sẽ thấy trợ cấp của mình được điều chỉnh tăng lên
0,5% cho mỗi tháng tính gộp giữa tháng sau ngày sinh nhật thứ 65 và tháng
bắt đầu trợ cấp. Như vậy có thể thấy, mức tối đa được nhận là 30% [23,tr.17]
Tại Pháp, có năm loại lương hưu được áp dụng. Thứ nhất là trợ cấp tối
thiểu: trợ cấp này áp dụng cho những người già khơng có đủ tiền sinh sống
(những người này khơng bắt buộc đã tham gia quỹ hưu trí trước đây). Thứ
hai là lương hưu Nhà nước: thu 6,65% lương từ người lĩnh lương và 8,3% từ
người trả lương để trả cho người về hưu. Mức lương hưu nhận được không
quá 50% lương cao nhất trước khi nghỉ hưu. Thứ ba là lương hưu bổ sung:
người lĩnh lương và người trả lương đóng thêm để khi về hưu nhận được thêm

một khoản công với khoản lương hưu nhà nước ở trên để có được thu nhập 7080% thu nhập trước khi nghỉ hưu. Thứ tư là lương hưu tự nguyện tập thể: loại
lương này có quy định về người lĩnh lương và người trả lương góp tiền vào quỹ
đầu tư để sinh lợi đến khi về hưu lấy ra dùng, tiền để trong quỹ không phải trả
thuế thu nhập. Và thứ năm là lương hưu tự nguyện cá nhân: cá nhân gửi tiền
vào quỹ đầu tư, tiền để trong quỹ không phải trả thuế thu nhập [19]
Những gợi mở cho Việt Nam
Thơng qua những số liệu và phân tích về chế độ hưu trí của các nước
trên thế giới nói chung, có thể thấy nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Tuy
nhiên, các mơ hình áp dụng cho chế độ hưu trí cũng đa dạng, phong phú tạo
nên nhiều lợi ích hơn cho người tham gia lao động khi đã về hưu. Từ đó có
thể đưa ra những nhận xét nhằm gợi mở cho việc hoàn thiện hơn chế độ hưu
trí ở Việt Nam.
Dựa trên các quy định về chế độ hưu trí ở các nước trên thế giới, có thể
thấy xu hướng đa dạng hóa về tổ chức thực hiện, về nội dung và phương thức
tiến hành trong chế độ hưu trí là rất phổ biến. Tham gia hoạt động trong hệ
thống hưu trí khơng chỉ có các tổ chức của nhà nước mà cịn có các tổ chức
khác ngoài nhà nước. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để mọi
thành viên trong xã hội đều có thể tham gia vào chế độ hưu trí.

18


Các quốc gia trên thế giới đều có xu hướng xây dựng một hệ thống hưu
trí có tính ổn định và bền vững hơn trong tương lai. Có thể thấy, về hệ thống,
các chương trình hưu trí tự nguyện đang được xây dựng và chú ý phát triển
hơn. Về tính chất, các chương trình hưu trí có xu hướng chuyển đổi từ
phương thức mức hưởng xác định trước sang mức đóng xác định. Việc xây
dựng một hệ thống hưu trí đa tầng như tại Canada, Pháp, Nhật cũng tạo nên
một nền móng vững chắc, tránh tình trạng tập trung vào một hệ thống quỹ đầu
tư duy nhất.

Xu hướng hệ thống hưu trí có sự tham gia của nhiều đơn vị trung tâm
như đơn vị giám sát, đơn vị quản lý tài sản, tổ chức đầu tư (ngân hàng, công ty
bảo hiểm, cơng ty chứng khốn, tổ chức tín dụng,…) đơn vị quản trị cũng ngày
càng trở nên phổ biến hơn. Việc nghiên cứu về việc sắp xếp và tổ chức bộ máy,
vị trí làm việc, cơ chế tiền lương, tiền thưởng đối với công chức, người làm
việc trong hệ thống bảo hiểm xã hội cảu các nước sẽ là cơ sở thực tiễn để đề
xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo hiểm xã hội cũng như hoàn thiện
chức năng, nhiệm vụ hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.
Các quốc gia đều đưa ra các nhiều loại quỹ hưu trí nhằm giảm tải sự
mất cân bằng của quỹ hưu trí bắt buộc, điều đang gây cản trở và được dự
đoán là sẽ mất cân bằng trong tương lai tại Việt Nam. Việc hình thành quỹ
hưu trí tự nguyện và bổ sung được đặt ra ở hầu hết các quốc gia. Việt Nam có
thể học hỏi việc mở rộng và tăng cường chế độ bảo hiểm hưu trí tự nguyện
cho người lao động. Với lý do nguồn lao động chủ yếu hiện nay đang có công
việc chưa thực sự ổn định, làm việc theo thời vụ và họ lại chiếm một số lượng
rất lớn trong tổng số người tham gia lao động trên cả nước. Nhóm đối tượng
này khơng tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, vì vậy, để đảm bảo quyền
lợi cho họ, vấn đề về chế độ bảo hiểm hưu trí tự nguyện đặt ra là rất cần thiết.

19


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM
2.1. Lược sử quá trình hình thành và phát triển chế độ hưu trí ở Việt Nam
Chế độ hưu trí nhằm mục đích đảm bảo ổn định về mặt kinh tế đối với
những người tham gia lao động đã kết thúc quá trình lao động với những điều
kiện được quy định cụ thể. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam
dân chủ cộng hịa, các chính sách về bảo hiểm xã hội đã được ban hành . Các
quy định về nội dung của chế độ hưu trí cũng dần được hình thành và hồn

thiện theo thời gian kể từ giai đoạn năm 1945 đến nay.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1961, các văn bản pháp luật có những
quy định về bảo hiểm xã hội được ban hành như: Sắc lệnh số 29- SL ngày 12
tháng 03 năm 1947 về các chế độ đối với công nhân làm việc tại các xưởng kĩ
nghệ, hầm mỏ, thương điếm và tư nhân. Trong sắc lệnh này có các điều kiện
quy định về chế độ thai sản, chế độ trợ cấp ốm đau. Sắc lệnh số 76-SL ngày
20 tháng 05 năm 1950 về quy chế công chức, Sắc lệnh số 77-SL ngày 22
tháng 05 năm 1950 về quy chế công nhân, hai sắc lệnh này ngoài những quy
định về quan hệ lao động của cơng chức và cơng nhân cịn có những quy định
về bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật ở thời kì này mới quy
định những nét có tính ngun tắc về bảo hiểm xã hội. Các chế độ BHXH như
chế độ bệnh nghề nghiệp, hưu trí, trợ cấp mất sức lao động chưa có quy định
toàn diện.
Giai đoạn từ 1961 đến 1994: Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối
với công nhân viên chức Nhà nước ban hành kèm theo nghị định 218/CP ngày
27 tháng 12 năm 1961 đã đánh dấu một bước chuyển biến lớn của pháp luật
bảo hiểm xã hội Việt Nam nói chung và chế độ hưu trí nói riêng. Từ việc cịn
sơ sài và chưa tồn diện về nội dung quy định, bản Điều lệ đã có những quy
định cụ thể, đặc biệt là về quỹ bảo hiểm xã hội được chính thức thành lập
thuộc Ngân sách Nhà nước.

20


Trong đó, chế độ bảo hiểm hưu trí được quy định bằng các văn bản
dưới luật và áp dụng cho cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước, lực lượng
vũ trang hưởng lương từ ngân sách nhà nước đối với các nhà máy, xí nghiệp,
cơng nơng, lầm trường được hoạch tốn vào giá thành hoặc phí lưu thơng.
Các chính sách về bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chế độ bảo hiểm hưu trí cũng
dần được hồn thiện về nội dung bao gồm: phạm vị điều chỉnh, đối tượng áp

dụng, nội dung quy định cũng như hình thức văn bản quy phạm.
Giai đoạn từ 1995 đến nay: Năm 1995, bảo hiểm xã hội đã được điều
chỉnh bằng Bộ luật lao động, bao gồm các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Và đặc biệt, vào năm 2006, chương Bảo
hiểm xã hội trong Bộ Luật lao động được tách thành Luật Bảo hiểm xã hội,
trong đó quy định thêm chế độ bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm hưu trí tự
nguyện. Chế độ hưu trí cũng đã có sự thay đổi và dần hoàn thiện hơn sau
những lần sửa đổi, bổ sung. Về loại hình bảo hiểm xã hội cũng đã quy định
bởi hai hình thức rõ ràng hơn là hình thức bắt buộc và hình thức tự nguyện.
Thời điểm này, các nội dung về chế độ hưu trí được quy định cụ thể và rõ
ràng hơn, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với các chính sách
xã hội của quốc gia. Cụ thể, việc tách vấn đề bảo hiểm xã hội thành Luật bảo
hiểm xã hội 2006 và hiện nay là 2014 đã tạo nên bước tiến quan trọng.
Tại Điều 34, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có khẳng định: “ Cơng dân
có quyền được đảm bảo an sinh xã hội”, đồng thời trong báo cáo trọng điểm
của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng chúng ta cần nỗ lực nhiều hơn
để thực hiện hóa quyền an sinh xã hội cho tất cả mọi người. Và chế độ hưu trí
là một phần quan trọng cần được quan tâm. Trên thế giới hiện nay có khoảng
68% người trong độ tuổi hưu trí nhận được trợ cấp hưu trí, lương hưu; điều
này có liên quan chặt chẽ đến việc mở rộng các hệ thống hưu trí có đóng góp
và khơng có đóng góp tại nhiều nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình.
Tính trung bình trên tồn cầu, chi tiêu cho trợ cấp hưu trí và các loại hình
phúc lợi khác cho người cao tuổi chiếm khoảng 6,9% GDP, trong đó có sự

21


×