Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.19 KB, 11 trang )

Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

ĐỀ XUẤT CÁC TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH LỖI NGƠN NGỮ QUA KHẢO
SÁT CÁC BẢN DỊCH TỪ HÁN SANG VIỆT CỦA SINH VIÊN Ở TRÌNH
ĐỘ SƠ CẤP
Trần Trƣơng Huỳnh Lê, 2Lê Minh Thanh

1

1

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; 2Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt
Trong quá trình giảng dạy phiên dịch, nhất là đánh giá kết quả học tập phần phiên dịch từ
tiếng Hán sang tiếng Việt. Vì vậy cụ thể hóa thang độ lỗi và thang điểm là một vấn đề cấp
thiết.Nhằm xây dựng thang độ lỗi để xác định kiểu lỗi trong bài tập cũng nhƣ bài thi của
sinh viên, bài nghiên cứu từ dữ liệu thực tế về lỗi sai của bản dịch kết hợp với lý thuyết
dịch Hán Việt, lý thuyết phân tích bản dịch đề xuất một số chuẩn mực để hình thành
thang độ lỗi cho việc đánh giá bản dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt ở trình độ sơ cấp
Từ khóa
phân tích lỗi sai, tiếng Việt, thang độ lỗi, trình độ sơ cấp

1. Mở đầu
Những năm gần đây, vấn đề tiêu chuẩn đánh giá bản dịch và tiêu chí bản dịch đƣợc các nhà
nghiên cứu và đào tạo biên phiên dịch quan tâm và thảo luận. Vận dụng tiêu chuẩn đánh giá
bản dịch vào khâu chấm bài dịch viết của sinh viên nhằm nâng cao tính khách quan cho việc
đánh giá kết quả học tập của sinh viên. ―Việc quyết định về thành quả học tập của ngƣời học
có thể thơng qua so sánh với những ngƣời học cùng học khác (theo chuẩn) hoặc so với mục
tiêu học tập đã đƣợc xác định (theo tiêu chí)‖ (Nguyễn Thành Nhân, 2016, tr.10). Tiêu chí


đánh giá khơng chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá kết quả học tập mà còn giúp
ngƣời dạy và ngƣời học xác định rõ mục tiêu học tập.
Qua các tài liệu nghiên cứu chúng tôi thu thập đƣợc, các nghiên cứu liên quan đến phiên
dịch tiếng Anh đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể trong việc nghiên cứu lý luận cũng nhƣ áp
dụng vào thực tiễn các tiêu chuẩn đánh giá bản dịch. Dựa vào các phƣơng pháp đánh giá bản
dịch Nida (1964), Newmark (1982), Reiss (1989), House (2001) và một số học giả khác mà
các trƣờng đại học có ngành biên phiên dịch đã từng bƣớc xây dựng các tiêu chí đánh giá bản
dịch đƣợc vận dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong công tác biên phiên dịch nhƣ làm căn
cứ cho bản dịch văn học, làm tiêu chí đánh giá biên phiên dịch khi tham gia một hiệp hội dịch
thuật chuyên nghiệp nhƣ Hội đồng Biên dịch và Phiên dịch viên Canada, Hệ thống đánh giá
chất lƣợng ngôn ngữ Canada, Hội dịch thuật Hoa Kỳ (ATA), Tổ chức cấp quốc gia cấp bằng
về lĩnh vực dịch thuật NATTI. Theo Nguyễn Thị Kiều Thu (2016) một danh sách các tiêu chí
đánh giá bản dịch khơng phải chỉ là những lý thuyết suông mà nhằm nâng cao ý thức chung
về sự cần thiết phải có bộ tiêu chí cụ thể để giảm thiểu độ chủ quan của ngƣời chấm bài dịch
viết. Qua đó có thể nhận định việc phân tích lỗi sai bản dịch là một trong những khâu quan
trọng để hình thành bộ tiêu chí đánh giá bản dịch, nhƣng hiện nay trên lĩnh vực dịch thực
hành dịch Hán-Việt còn đang bỏ ngỏ. Theo Lƣu Hớn Vũ (2016) cách kiểm tra, đánh giá biên
phiên dịch ngành Ngôn ngữ Trung Quốc hiện nay vẫn tồn tại tính đơn nhất trong cách ra đề,
tính chủ quan trong tiêu chuẩn đánh giá. Tuy bài nghiên cứu chƣa chỉ rõ đối tƣợng nghiên
cứu, số liệu thực tế về thực trạng thiếu tiêu chuẩn đánh giá, nhƣng cũng đã phần nào phản ánh
đƣợc sự chƣa hoàn chỉnh trong hệ thống đánh giá bản dịch, và cơ bản là lý thuyết phân tích
lỗi sai tiếng Việt khi thực hành dịch Hán-Việt. Dẫn lời Lê Đình Khẩn (2007, tr.28) về công

616


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

tác phiên dịch Hán sang Việt ―Khi so sánh tiếng Hán với tiếng Việt, ngƣời ta thấy chúng rất

giống nhau. Giống về cấu trúc, về hoạt động cú pháp v.v... Đặc biệt trong tiếng Việt có một số
lƣợng lớn từ ngữ vay mƣợn tiếng Hán. Thế là, có ngƣời vội nghĩ rằng vấn đề phiên dịch ViệtHán, hay Hán-Việt chẳng có gì phải bàn. Nó đơn giản lắm. Đó là một kiểu suy nghĩ phiến
diện rất dễ dẫn đến nhầm lẫn. Bởi vì, chỉ ra chỗ khác nhau giữa hai đối tƣợng gần giống nhau
là một công việc cần có sự nghiên cứu tỉ mỉ, kỹ càng và tinh tế, khơng hề đơn giản.‖
2. Cơ sở lý luận
Theo Hồng Văn Vân (2005,tr. 249) ―So với bản thân thông dịch viên, ngƣời đánh giá
chất lƣợng bản dịch thƣờng gặp phải những vấn đề hóc búa hơn nếu họ muốn từ bỏ toàn bộ
cách đánh giá trực cảm và cố gắng làm rõ khái niệm chất lƣợng bản dịch. Trong giảng dạy,
giáo viên hay giảng viên chính là những ngƣời đánh giá chất lƣợng bản dịch, cho dù bản dịch
đó thuộc trình độ sơ cấp, trung cấp hay cao cấp. Do đó nếu khơng có tiêu chí cụ thể để đánh
giá bản dịch thì quá trình nhận xét hay chấm bài thực hành dịch ít nhiều sẽ có phần đánh giá
trực cảm. Cũng theo Hoàng Văn Vân (2005) ngƣời đánh giá bản dịch để hồn thành cơng việc
phải hồn thành ba nhiệm vụ: một là, phải so sánh ngôn ngữ nguồn và ngơn ngữ đích; hai là,
phải tái tạo lại các q trình tâm lý ngơn ngữ dẫn đến ngơn bản ngữ đích; ba là: phải cố gắng
tìm ra các cơng thức để đánh giá sự thỏa mãn liên ngôn bản. Hoàng Văn Vân cho rằng khái
niệm ―tƣơng đƣơng tự nhiên gần nhất‖ của Nida (1974) là mô tả tốt nhất trong đánh giá chất
lƣợng bản dịch, một trong những định nghĩa cho khái niệm này thể hiện bản dịch khi phù hợp
với ngơn ngữ và nền văn hóa của ngữ đích đƣợc xem là bản dịch đạt. Trên bình diện đánh giá
bản dịch, các học giả nƣớc ngoài sử dụng thang đo gọi là tiêu chí đánh giá bản dịch (criteria)
để làm căn cứ chấm điểm tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên hay ngƣời đánh giá bản dịch
làm việc cho các tổ chức dịch thuật tiến hành đánh giá bản dịch một cách khách quan nhất
trong phạm vi có thể. Trong cơng trình nghiên cứu của Yildiz (2020) đã liệt kê tồn bộ q
trình đánh giá bản dịch của các hiệp hội dịch thuật quốc tế có uy tín nhƣ Hội dịch thuật Hoa
Kỳ (ATA), Hội đồng chuyên gia về dịch thuật ngữ và phiên dịch viên (CITTIC), Viện nghiên
cứu biên dịch và phiên dịch (ITI), Tổ chức cấp quốc gia cấp bằng về lĩnh vực dịch thuật
(NATTI) và Viện nghiên cứu của phiên dịch viên khu vực Nam Mỹ (SATI). Trong q trình
đó có một bƣớc gọi là nhận diện lỗi và chấm điểm (marking and grading), mỗi tổ chức nêu
trên đều có một khung tiêu chí lỗi nhằm hƣớng dẫn ngƣời chấm nhận diện lỗi ngôn ngữ
thƣờng gặp. Các khung tiêu chí có nhiều thang đo, nhƣng có thể thấy lỗi ngơn ngữ và lỗi dịch
thuật là một phần quan trọng cho tiêu chí đánh giá bản dịch. Để đánh giá lỗi dịch thuật ngoài

việc xem xét bản dịch, ngƣời đánh giá cần phải quan tâm đến khái niệm ―sự trung thành‖ với
ngôn ngữ nguồn. Trọng tâm của nghiên cứu này là lỗi sai trên ngôn ngữ đích (tiếng Việt).
Melis và Albir (2001) đã đƣa ra một bộ tiêu chí thang độ lỗi – correcting scales và thang
điểm – ratiing scales, đây là cách đánh giá bản dịch trong môi trƣờng giảng dạy. Thang độ lỗi
nhằm xác định kiểu lỗi và thang điểm nhằm đo lƣờng chất lƣợng bản dịch. Nghiên cứu này
chủ yếu phân tích lỗi sai trên bản dịch nên chỉ bàn về việc xác định thang độ lỗi. Newmark
(1998, dẫn lại của Nguyễn Thị Kiều Thu) nhận dạng lỗi bản dịch bao gồm hai loại gồm: lỗi
quy chiếu – referential mistakes và lỗi ngôn ngữ - linguistic mistakes. Lỗi quy chiếu là những
lỗi liên quan đến thực tế, thế giới bên ngoài trong khi lỗi ngôn ngữ bao gồm lỗi ngữ pháp và
lỗi từ vựng. Farrús (2010) sau khi lấy kết quả nghiên cứu định tính từ 10 chuyên gia về lĩnh
vực dịch thuật, đã liệt kê ra một hệ thống lỗi ngôn ngữ làm tiêu chí đánh giá để xác định các
lỗi dịch tự động, trong đó gồm lỗi chính tả (dấu chấm câu, dấu, sai trọng âm, viết hoa chữ cái,
từ nối, khoảng trống, sai từ có gốc tiếng nƣớc ngồi)- Orthographic errors; lỗi hình thái (từ chỉ
giống và hình thái của số nhiều, lƣợc âm cuối, lỗi hình thái của động từ, thay đổi hình thái do
những thay đổi trong cấu trúc cú pháp) - Morphological errors; lỗi từ vựng - Lexical errors (từ

617


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

vựng của ngơn ngữ nguồn và ngơn ngữ đích khơng có sự tƣơng ứng, thiếu từ vựng, khơng
dịch danh từ riêng hoặc dịch khi không cần thiết); lỗi ngữ nghĩa (đa nghĩa, đồng âm, giữa
ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích có cách biểu đạt khác nhau) - Semantic errors; lỗi cú pháp
(lỗi về giới từ, lỗi về mệnh đề quan hệ, trƣờng phức cú, không mang trọng âm, thiếu quán từ
trƣớc danh từ riêng, sắp xếp lại các thành phần cú pháp)- Syntactic errors. Trong mỗi nhóm
lỗi đều liệt kê tƣơng đối cụ thể những ngôn ngữ thƣờng phát sinh lỗi trong quá trình dịch
thuật. Dựa trên các tài liệu chúng tơi thu thập đƣợc, hiện chƣa tìm ra một thang đo độ lỗi cụ
thể nhƣ trên để đánh giá bản dịch từ Hán sang Việt, do vậy chúng tơi mới thực hiện nghiên

cứu này nhằm phân tích lỗi trong bản dịch của sinh viên và đề xuất lỗi ngơn ngữ cụ thể trong
phân tích bản dịch phục vụ mục đích sƣ phạm.
Trong tiếng Việt, lỗi chính tả, từ vựng và ngữ pháp là một vấn đề phổ biến, nhƣng lại
chƣa có nhiều các nghiên cứu khảo sát về hệ thống lỗi nhất là lỗi về từ vựng, do vậy Sở Khoa
học, Công nghệ và Môi trƣờng TP. Hồ Chí Minh đã tài trợ thực hiện đề tài ―Các lỗi chính tả,
từ vựng, ngữ pháp và cách khắc phục (lỗi qua các bài viết trong nhà trƣờng và trên phƣơng
tiện truyền thông)‖ (Hồ Lê, 2002). Nghiên cứu nêu trên là cơ sở lý luận quan trọng trong việc
xác định lỗi tiếng Việt nhất là lỗi trên bình diện từ vựng và ngữ pháp. Bên cạnh đó, các cơ sở
lý luận về ngữ pháp tiếng Việt đƣợc các nhà nghiên cứu đề cập tới trong những sách chuyên
khảo có giá trị nhƣ Hoàng Trọng Phiến (2003), Nguyễn Hữu Quỳnh (2007), Nguyễn Kim
Thản (2008), Diệp Quang Ban (2013) cũng là những cơ sở lý thuyết quan trọng để phân tích
lỗi sai. Ngồi ra, phân tích về lỗi sai trong bản dịch đƣợc các tác giả nghiên cứu trong lĩnh
vực dịch thuật Hán-Việt và có các xuất bản từ năm 2000 trở lại đây gồm: Lê Đình Khẩn
(2007), Trần Thị Thanh Liêm, Trần Hoài Thu (2013) và Nhật Phạm (2019).
2.1. Lỗi ngữ pháp
Căn cứ vào các lý thuyết về ngữ pháp tiếng Việt, hiện tƣợng lỗi ngơn ngữ trên bình diện
ngữ pháp đƣợc trích lọc và phân tích đƣợc từ các mẫu khảo sát gồm các vấn đề ngôn ngữ nhƣ
sau: một là, dịch câu chữ ―把‖ của tiếng Hán; hai là, dịch câu chữ 被‖; ba là, dịch câu có các
giới từ tiếng Hán nhƣ ―在‖, ―跟‖, ―向‖, ―往‖.
Vận dụng lý thuyết về ngữ pháp tiếng Việt, nhóm tác giả đã đƣa ra những luận điểm và
luận cứ để chứng minh lỗi của bản dịch trong cơng trình nghiên cứu ―Phân tích lỗi ngữ pháp
trong q trình thực hành dịch Hán-Việt của sinh viên trình độ sơ cấp ngành Ngơn ngữ Trung
Quốc‖ của nhóm tác giá. Trong bài nghiên cứu này chúng tơi xin trình bày lại một cách xúc
tích tƣờng minh về lỗi ngữ pháp, để đƣa vào tiêu chí chấm bài mơn dịch ở trình độ sơ cấp.
Về câu chữ ―把‖ qua phần thực hành dịch của sinh viên giai đọan sơ cấp, nhóm nghiên
cứu quan sát thấy sinh viên có xu hƣớng đƣa cấu trúc câu chữ ―把‖ dịch thành cấu trúc tƣơng
đƣơng trong tiếng Việt là ―Chủ ngữ+đem+tân ngữ+động từ+thành phần khác‖. Có một số
động từ trong câu chữ ―把‖ khi thực hành dịch thì phù hợp với kết cấu dịch này, nhƣng cách
dịch này không đúng với mọi trƣờng hợp câu chữ ―把‖ trong tiếng Hán và cũng không đúng
với cách hiểu của câu chữ ―把‖

Ví dụ:
(1) 他把钱还给我了。

618


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Dịch chính xác: Anh ấy trả tiền cho tơi.
Sinh viên thực hành dịch: Anh ấy đem tiền trả cho tôi.
Trong câu tiếng Hán chỉ cung cấp thông tin sách đó đƣợc trả lại cho tơi, khơng miêu tả thêm
chủ thể đem trả hay gửi trả, nhƣng qua bản dịch của sinh viên, ngƣời nghe lại đƣợc xác định
là sách này đƣợc trực tiếp hồn trả.
(2) 他把包裹寄了
Dịch chính xác: Anh ấy gửi gói hàng rồi.
Sinh viên thực hành dịch: Anh ấy đem gói hàng gửi rồi.
(3)他把窗户打开。
Dịch chính xác: Anh ấy mở cửa sổ ra.
Sinh viên thực hành dịch: Anh ấy đem cửa sổ mở ra.
Trong ví dụ (1) và (2) cách dịch của sinh viên có thể tạm chấp nhận, nhƣng đến ví dụ
(3) cách dịch trở nên xa lạ với cách biểu đạt tiếng Việt.
Về câu chữ ―被‖ qua phần thực hành dịch của sinh viên giai đọan sơ cấp nhóm nghiên
cứu quan sát thấy sinh viên có xu hƣớng giữ nguyên trật tự cú pháp của ngôn ngữ nguồn
(tiếng Hán) làm câu biểu đạt tiếng Việt chƣa đạt đƣợc mức độ ―nhã‖ của bản dịch.
Ví dụ:
(4) 大碗被他打破了。
ị nó làm vỡ. (-)
ỡ cái tô. (+)
(5) 他被选为副校长。

ấy bị bầu làm phó hiệu trƣởng (-)
ấy đƣợc bầu làm phó hiệu trƣởng. (+)
(6) 那本词典被借走了。
ển từ điển đó bị mƣợn mất rồi. (-)
ển từ điển đó có ngƣời mƣợn rồi. (+)
Theo Lê Đình Khẩn (2007) các giới từ trong câu bị động của tiếng Hán dƣờng nhƣ
khơng có sắc thái biểu cảm, nhƣng tiếng Việt ―bị‖ có biểu cảm âm, cịn ―đƣợc‖ có biểu cảm
dƣơng. Ngoài ra, nhiều trƣờng hợp tuy trong tiếng Hán diễn đạt theo cấu trúc bị động, nhƣng
khi dịch sang tiếng Việt thì khơng nên giữ ngun cấu trúc của ngơn ngữ nguồn. Chỉ vì thói
quen ngơn ngữ khơng cho phép.
Về câu có giới từ ―在‖, ―跟‖, ―向‖, ―往‖, do vị trí của giới từ và những tổ hợp do chúng
tạo nên trong tiếng Hán và tiếng Việt cũng có chỗ giống nhau và đơi khi trái ngƣợc. Qua

619


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

khảo sát các bản dịch của sinh viên, lỗi sai thƣờng xuất hiện với các giới từ nêu trên. Theo
quan sát của nhóm nghiên cứu, ngƣời học ở giai đoạn sơ cấp bị ảnh hƣởng bởi kết cấu ngữ
pháp của ngơn ngữ nguồn, do chỉ theo qn tính dịch theo trật tự tuyến tính của câu nên sự
khác biệt về vị trí của giới từ ảnh hƣởng đến chất lƣợng bản dịch.
Ví dụ:
(7) 张林在上海工作。
Bản dịch của sinh viên: Trƣơng Lâm tại Thƣợng Hải làm việc.
Nên dịch: Trƣơng Lâm làm việc tại Thƣợng Hải
(8) 我跟经理说我的事。
Bản dịch của sinh viên: Tôi cùng giám đốc nói chuyện của tơi.
Nên dịch: Tơi nói với giám đốc chuyện của tôi.

(9)他们向大家说对丌起。
Bản dịch của sinh viên: Tơi hƣớng về các bạn nói xin lỗi
Nên dịch: Tơi xin lỗi mọi ngƣời
(10)大家往东走吧!
Bản dịch của sinh viên: Mọi ngƣời hƣớng về phía đơng đi nhé!
Nên dịch: Mọi ngƣời đi về hƣớng đơng nhé!
Có thể thấy lỗi sai về ngữ pháp trong các bản dịch Hán-Việt chủ yếu do trật tự các thành
phần câu bị đảo lộn hoặc giữ nguyên kết cấu câu từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích. Qua
phỏng vấn sinh viên, hơn 70% ngƣời đƣợc phỏng vấn cho biết sở dĩ đồng tình với cách dịch
theo trật tự từ nhƣ tiếng Hán là do sợ dịch sai trật tự sẽ bị trừ điểm khi làm bài kiểm tra hoặc
dịch theo trật tự cú pháp tiếng Việt sợ sẽ bị sai lệch lớn so với ngôn ngữ nguồn. Theo Cao
Xuân Hạo (2009) đây là những lỗi sai về đặt sai vị trí thành phần câu, dùng đại từ nối và giới
từ, sai trong sử dụng kết cấu ―đƣợc, bị‖ đây là những lỗi sai về lầm lẫn kết câu.
2.2. Lỗi từ vựng
Đối tƣợng khảo sát về các lỗi từ vựng cũng cùng đối tƣợng với các khảo sát về lỗi ngữ
pháp. Đại đa số đối tƣợng đƣợc khảo sát là sinh viên mới tiếp cận với tiếng Hán, lƣợng từ
vựng không nhiều, nên khảo sát về từ vựng chúng tôi chỉ nhằm vào những từ sinh viên đã
hiểu và biết rõ nghĩa của từ, nhƣng khi chuyển ngữ vào tiếng Việt lại xuất hiện lỗi sai. Còn
những lỗi sai do ngƣời học chƣa tri nhận đƣợc nghĩa của từ mới không nằm trong phạm vi
nghiên cứu của chúng tôi. Theo Hồ Lê (2002, tr.19) dựa vào nguyên nhân khách quan thì lỗi
từ vựng có thể phân ra thành những loại sau:
1) lỗi viết sai âm gây ra những sự lẫn lộn về nghĩa; 2) lỗi hiểu sai nghĩa của đơn vị từ
vựng đƣợc sử dụng; 3) lỗi dùng sai chức năng ngữ pháp của nó; 4) lỗi do phố hợp nghĩa
không ăn khớp với những đơn vị từ vựng khác đi với nó; 5) lỗi về ý – tình thái; 6) lỗi về tu từ;
7) lỗi về phong cách; 8) lỗi về ý – tình huống; 9) lỗi về chuẩn đạo đức trong hành vi nói năng

620


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy

ngôn ngữ lần thứ VI

Cũng theo Hồ Lê (2002) lỗi thứ hai và lỗi thứ tƣ – những lỗi về nghĩa – chiếm tỷ lệ cao
nhất. Qua khảo sát của chúng tôi, lỗi sai về nghĩa của đơn vị từ vựng là lỗi sai chủ yếu. Sau
khi tổng hợp và phân tích lỗi sai dựa trên cơ sở lý thuyết là nguyên nhân lỗi của từ vựng,
những lỗi sai chúng tôi thu thập đƣợc chủ yếu lỗi từ vựng do quá trung thành với ngôn ngữ
nguồn, ƣu tiên lựa chọn cách đọc Hán-Việt trong bản dịch. Theo Lê Đình Khẩn (2007, tr.87)
―Nhiều ngƣời đã khơng phân biệt đƣợc, hoặc cố tình khơng cần phân biệt sự khác nhau giữa
quá trình phiên dịch Hán-Việt và phiên âm Hán-Việt, nên trong rất nhiều trƣờng hợp ngƣời ta
đã dùng lối phiên âm Hán-Việt để thay cho phiên dịch Hán-Việt. Chẳng hạn, khi phiên dịch
một văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, hễ gặp phải những từ ngữ khó hiểu, khó xử lý, ngƣời
dịch lập tức nghĩ ngay đến ―âm đọc Hán-Việt‖. Nó có thể giúp ngƣời dịch gỡ thế bí bằng thao
tác cực kỳ đơn giản, ai cũng có thể làm đƣợc, đó là phiên âm...Tùy theo trình độ và lƣơng tâm
ngƣời dịch mà số lƣợng các đơn vị Hán giả Việt có nhiều hay ít trong bản dịch tiếng Việt.
Không phải bây giờ, mà từ lâu, việc lạm dụng âm đọc Hán-Việt đã trở thành một căn bệnh
nan y trong ngành phiên dịch Hán-Việt‖. Thông qua khảo sát của chúng tơi nhận định trên là
hồn tồn có căn cứ.
Ví dụ:
(11)昨天我没量体温,但感觉有点发烧
Bản dịch của sinh viên: Hơm qua, tôi chƣa đo nhiệt độ cơ thể nhƣng cảm thấy phát sốt một
chút.
(12)他用那双颤抖的小手拿旧报纸将月饼包了一层又一层,小心地放在篮子里。
Bản dịch của sinh viên: Anh ấy dùng đơi tay khéo léo đó cầm gói bánh trung thu đƣợc bọc
trong giấy báo cũ từng tầng từng tầng một, cẩn thận bỏ vào rổ.
(13)我心中由唱起了这支歌:丌经历风雨怎么见彩虹,没有人能随随便便成功。
Bản dịch của sinh viên: Trong lịng của tơi lại hát lên bài hát này, khơng trải qua mƣa gió làm
sao thấy đƣợc cầu vồng, khơng có ai có thể tùy tiện thành cơng.
(14)首先,要请重要的客人、老师、领导和长辈上座。
Bản dịch của sinh viên: Đầu tiên, cần phải mời những vị khách quan trọng, thầy cô giáo, lãnh
đạo hay các trƣởng bối ngồi ở thƣợng tọa/chỗ thƣợng.

(15)她是日本人,她叫山本,家在东京。
Bản dịch của sinh viên: Cô ấy là ngƣời Nhật, tên là Sơn Bổn, nhà ở Đông Kinh.
Câu (11) từ 发烧 đƣợc dịch thành ―phát sốt‖, có thể thấy cách sử dụng chịu sự ảnh
hƣởng bởi âm Hán-Việt. Theo Từ điển Trung Việt 发烧 đƣợc giải thích là ―sốt‖ (Phan Văn
Các, 2006, tr. 327). Định nghĩa của từ điển tiếng Việt về sốt ―1 Tăng nhiệt độ cơ thể lên quá
mức bình thƣờng, do bị bệnh; 2 (thƣờng dùng cơn sốt) Tăng nhu cầu đột, làm cho hàng trở
nên khan hiếm‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr. 868). Riêng về ―phát sốt‖ hiện chƣa chƣa
xuất hiện trong mục từ của từ điển, nhƣng giữa lý thuyết và thực hành lúc nào cũng có một
khoảng cách, trong ngôn ngữ giữa từ điển và thực tế cũng có khoảng cách nhất định. Do hiện
tại chúng tơi chƣa thể tiếp cận đƣợc kho ngữ liệu tiếng Việt, nên đành sử dụng cơng cụ tìm

621


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

kiếm Google để kiểm chứng xu hƣớng tần suất sử dụng của ―phát sốt‖. Chúng tôi nhập ―phát
sốt‖ vào phần tìm kiếm của Google vào ngày 30 tháng 09 năm 2020, thu thập đƣợc 123 liên
kết có nội dung chứa từ liên quan đến ―phát sốt‖. Sau khi loại bỏ các trƣờng hợp nhƣ ―khởi
phát sốt‖, ―bùng phát sốt xuất huyết‖, các từ nhƣ ―sốt‖, ―bị sốt‖, ―cơn sốt‖, ―phát sốt‖ đƣợc
thống kê tần suất sử dụng. Kết quả thống kê (biểu đồ 1) cho thấy xu hƣớng sử dụng một từ
―sốt‖ trong tiếng Việt chiếm số đông. Riêng ―phát sốt‖ đa số đƣợc sử dụng với tầng nghĩa
tăng đột ngột về cảm xúc nhƣ các ví dụ ―'Phát sốt' với phiên bản 'Anh khơng địi q' của vợ
chồng Hoài Linh‖, ―Phát Sốt Với Hàng Loạt Ảnh Chuột Mickey Tại Việt Nam‖, ―Mỹ phát sốt
khi Nga lập 6 căn cứ tại châu Phi ‖. Có 7 liên kết sử dụng ―phát sốt‖ với tầng nghĩa là tăng
nhiệt độ cơ thể lên q mức bình thƣờng, trong đó 5 liên kết đến từ các bản dịch truyện ngơn
tình đƣợc dịch và đăng tải miễn phí, 2 liên kết có nội dung liên quan đến y học đƣợc phòng
khám tƣ nhân biên tập và đăng tải. Theo Nguyễn Thiện Giáp (2015, tr. 285)―Nhiều từ HánViệt đƣợc tiếp nhận vào Việt Nam từ lâu, chúng đã trở thành một bộ phận hữu cơ của từ vựng
tiếng Việt. Ngƣời Việt đã sử dụng những từ gốc Hán đó làm chất liệu để cấu tạo nên những

đơn vị từ vựng mới theo cách của Việt Nam, cho nên chúng ta khơng thể tìm thấy một từ ngữ
nào tƣơng đƣơng trong tiếng Hán hiện nay‖. ―phát sốt‖ là đơn vị từ vựng đƣợc cấu tạo bởi yếu
tố Hán Việt kết hợp yếu tố thuần Việt. Ngƣời Việt sử dụng ―phát sốt‖ thƣờng không với nghĩa
―tăng nhiệt độ cơ thể lên quá mức bình thƣờng‖.
80
70

sốt; 67,21

60
50
40

phát sốt; 32,97

30
20
10

bị sốt; 0,82

cơn sốt; 1,62

bị sốt

cơn sốt

0
sốt


phát sốt

Biểu đồ 1: Khảo sát tần suất sử dụng cụm từ ―phát sốt‖
Câu (12) ―一层又一层‖ trong hồn cảnh này khơng thể dịch là ―từng tầng từng tầng‖.
Theo Từ điển tiếng Việt ―tầng‖ đƣợc định nghĩa là ―mặt phẳng ngang ngăn chia không gian
thành những phần trên dƣới khác nhau về độ cao‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr.900). Nhƣ
vậy, việc sử dụng tầng trong bản dịch chỉ do yếu tố tác động là âm Hán-Việt chứ hồn tồn
khơng phù hợp với nghĩa từ tiếng Việt.
Câu (13) cũng theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt ―tùy tiện‖ đƣợc giải thích ―1.tiện
đâu làm đó, khơng có ngun tắc nào cả; 2. Nhƣ tùy nghi (theo hồn cảnh làm thế nào cho
thích hợp)‖ (Hồng Phê Chủ biên, 2005, tr.1067). Qua định nghĩa tùy tiện chắc chắn không
thể kết hợp thành công, nhƣng ngƣời học vẫn cho ra những bản dịch bị ảnh hƣởng nhiều bởi
ngôn ngữ nguồn.

622


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Câu (14) từ ―thƣợng tọa‖ trong tiếng Việt có định nghĩa nhƣ sau ―Chức trong Phật giáo,
trên đại đức, dƣới hịa thƣợng‖ (Hồng Phê Chủ biên, 2005, tr.978), việc sử dụng thƣợng tọa
hoặc chỗ thƣợng để dịch cho cụm ―上座‖ là lỗi sai từ vựng.
Về câu (15) chúng tôi xin đƣợc dẫn lời của Lê Đình Khẩn về vấn đề dịch nhân danh địa
danh ―Ít sử dụng âm Hán-Việt khi dịch nhân danh địa danh từ tiếng Hán sang tiếng Việt là
bƣớc đầu hạn chế việc lạm dụng từ Hán, góp phần ngăn chặn xu hƣớng Hán hóa tiếng Việt‖
(Lê Đình Khẩn, 2007, tr.93).
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp so sánh đối chiếu: việc so sánh đối chiếu đƣợc thực hiện trên bình diện
ngữ pháp, bình diện ngữ nghĩa. So sánh đối chiếu đƣợc kết hợp với phƣơng pháp miêu tả để

xác định nguyên nhân của lỗi dịch thuật khi ngƣời học tiến hành dịch từ tiếng Hán sang tiếng
Việt, từ đó, khái qt các tiêu chí phân loại lỗi ngơn ngữ trong q trình dịch của sinh viên
trong giai đoạn sơ cấp.
Phƣơng pháp nghiên cứu định tính: chúng tơi sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu định
tính bằng phỏng vấn nhóm gồm khoảng 5 giảng viên thƣờng xuyên giảng dạy môn, đƣa ra
trƣớc các lỗi sai đƣợc chúng tôi quan sát và thu thập trong thời gian giảng dạy, sau đó đƣa
những câu hỏi để sinh viên thực hành dịch.
Phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng: đối tƣợng khảo sát của bài nghiên cứu là sinh
viên năm thứ nhất (giai đoạn sơ cấp) ngành ngôn ngữ Trung Quốc tại Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, thời gian học tiếng Hán của sinh viên dao động bình qua từ 10 đến 24 tháng
(một số sinh viên đã học tiếng Hán trƣớc khi tham gia khóa học). Các sinh viên này học cùng
một lớp và đều tham gia học môn dịch sơ cấp với hai học phần là dịch sơ cấp 1 và dịch sơ cấp
2, từ đó thu thập và kiểm chứng lại các lỗi mà ngƣời học đã mắc phải trong quá trình thực
hành. Khảo sát bài thực hành dịch của sinh viên đƣợc tiếng hành 2 lần, với nhóm sinh viên
gồm 39 sinh viên. Các lƣợt khảo sát cách nhau khoảng 3 tháng, lần lƣợt vào cuối kỳ của môn
dịch sơ cấp 1 và cuối kỳ của môn dịch sơ cấp 2.
4. Kết quả nghiên cứu
Thông qua dữ liệu khảo sát trên bài thực hành dịch của sinh viên chúng tơi có thể đƣa ra
một số nhận xét nhƣ sau:
(1) Những lỗi sai dự đoán đƣợc đƣa ra đều thể hiện trên thực tế trong quá trình thực hành
dịch.
(2) Qua quá trình học tập ngƣời học vẫn tiếp tục mắc những lỗi sai về dịch thuật, mặc dù tỉ lệ
có chiều hƣớng giảm.
(3) Việc đƣa những lỗi sai này vào thang lỗi sẽ góp phần cụ thể hóa hơn cho việc xác lập
thang điểm, phân loại đƣợc khả năng chuyển ngữ của ngƣời học.

623


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy

ngôn ngữ lần thứ VI

80,00
70,00
60,00
50,00
40,00
30,00
20,00
10,00
0,00

71,79

66,67
53,85

60,26
48,72

48,72
28,21

25,64

17,95
Câu chữ被”

Câu chữ “把”


Khảo sát lần 1

43,59 46,15

23,08

Giới từ tiếng Hán Lỗi từ vựng do âm
Hán-Việt
“在”, “跟”, “向”, “往”

Khảo sát lần 2

Bình quân

Biểu đồ 2: Thống kê lỗi sai ngơn ngữ
Bảng 1: Đề xuất các tiêu chí cho thang lỗi
Thang lỗi
câu chữ ―把‖
câu chữ 被‖
giới từ tiếng Hán ―在‖,
―跟‖, ―向‖, ―往‖
Lỗi từ vựng do âm
Hán-Việt

Cách nhận biết lỗi
Vận dụng cách biểu hiện ―đem+tân ngữ‖ với nhiều động từ khác nhau
Dùng ―bị‖ trong diễn đạt các
Vị trí của giới từ trong tiếng Việt đƣợc sắp xếp đồng nhất với tiếng Hán
trong mọi trƣờng hợp
Lạm dụng âm Hán-Việt trong nhiều trƣờng hợp, gây xa lạ cho biểu đạt

của câu tiếng Việt

5.Thảo luận và Đề xuất hoặc Kiến nghị
Vận dụng lý thuyết ngôn ngữ học so sánh đối chiếu tiến hành dự đốn lỗi sai ngơn ngữ
trong q trình thực hành dịch từ ngơn ngữ nguồn sang ngơn ngữ đích, sau đó kiểm chứng lại
bằng việc khảo sát bài thực hành của sinh viên, cuối cùng sử dụng kho ngữ liệu hoặc lý thuyết
ngơn ngữ học để giải thích đƣợc cho những phán đốn đạt chuẩn hay khơng đạt chuẩn dịch
thuật. Nguyễn Thƣợng Hùng (2005) có phần diễn giải về cách tiếp cận khác nhau về nghiên
cứu bản dịch giữa các nhà ngữ học và các nhà nghiên cứu lý thuyết dịch. Các nhà ngữ học khi
nghiên cứu lý thuyết dịch thƣờng có xu hƣớng đi sau tìm hiểu những vấn đề lý luận từ góc độ
ngơn ngữ học, điều này tuy cần thiết, nhƣng lại không đƣa ra đƣợc những gợi ý, giải pháp hay
những điểm cần chú ý để ngƣời dịch có thể vận dụng lý thuyết đó vào thực tiễn. Trong khi đó
đại đa số những ngƣời làm cơng tác biên phiên dịch lại không đúc kết, khái quát, nâng lên
thành lý luận những điều đã trải nghiệm trong cơng tác dịch của mình. Bài viết đề xuất các
tiêu chí bƣớc đầu hình thành thang lỗi trong đánh giá dịch thuật phải dựa vào lý thuyết ngôn
ngữ để phân tích lỗi, nhƣng mục tiêu chủ yếu là khái quát hóa các lỗi trở thành những tiêu chí
góp phần chuẩn hóa các cơng cụ đánh giá trong việc xây dựng mơn dịch trong giảng dạy. Từ
đó thiết lập đƣợc mục tiêu đào tạo của đề cƣơng chi tiết và xây dựng ma trận đề thi với tỉ lệ
các câu hỏi nhấn mạnh vào việc kiểm tra đƣợc kỹ năng nhận biết về các điểm dễ mắc lỗi của
ngƣời học. Thang đo khơng chỉ giúp cho phía đào tạo là nhà trƣờng, khoa, bộ môn và giáo
viên xác lập những thang đo trong quá trình giảng dạy, mà giúp ngƣời tham gia đào tạo hiểu
rõ chuẩn đầu ra của môn học đƣợc đào tạo, ngƣời học xử lý đƣợc các vấn đề đƣa ra trong
thang lỗi đồng nghĩa với việc đạt đƣợc chuẩn đầu ra của môn học.

624


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI


6. Kết luận
Giảng dạy tiếng Hán cho sinh viên ngành Ngơn ngữ Trung Quốc chắc chắn phải có
điểm ƣu việt hơn so với giảng dạy tiếng Hán ở các trung tâm ngoại ngữ hoặc ngoại ngữ hai.
Làm nên sự khác biệt ngồi việc tăng cƣờng rèn luyện nghe, nói, đọc, viết sinh viên cần phải
học đƣợc kỹ năng chuyển đổi ngôn ngữ từ Hán sang Việt và từ Việt sang Hán. Để làm đƣợc
điều đó thì các mơn dịch từ trình độ sơ cấp đến cao cấp phải hồn thiện các tiêu chí của mơn
học và đƣa rõ vào chƣơng trình đào tạo. Xây dựng hệ thống các tiêu chí chấm bài mơn dịch là
việc vơ cùng cần thiết cho quá trình giảng dạy cũng nhƣ đánh giá kết quả học tập của ngƣời
học. Bài viết này chỉ mới bƣớc đầu xây dựng thang lỗi trong tiêu chí chấm bài mơn dịch ở
trình độ sơ cấp. Trong tƣơng lai cần phải phát triển cao hơn trong việc xây dựng tiêu chí chấm
bài thi mơn dịch cho mọi trình độ của ngƣời học trong theo chƣơng trình đào tạo đã quy định.
Tài liệu tham khảo
Lƣu Hớn Vũ & Nguyễn Ngọc Phƣơng Dung. (2016). Giảng dạy biên phiên dịch cho sinh viên ngành
Ngôn ngữ Trung Quốc: những vấn đề tồn tại và kiến nghị. Kỷ yếu hội thảo giảng dạy biên-phiên dịch
bậc đại học, tr 346-356.
Cao Xuân Hạo, Lý Tùng Hiếu, Nguyễn Kiên Trƣờng, Võ Xuân Trang, & Trần Thị Tuyết Mai. (2009).
Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục. TP. Hồ Chí Minh: NXB Khoa học Xã hội.
Hồ Lê, Trần Thị Ngọc Lang, Tơ Đình Nghĩa. (2002). Lỗi từ vựng và cách khắc phục. TP. HCM: NXB
Khoa học Xã hội.
Hoàng Phê Chủ biên (2005). Từ điển Tiếng Việt. Hà Nội: NXB Đà Nẵng.
Hoàng Văn Vân (2005). Nghiên cứu dịch thuật. TP.HCM: NXB Khoa học xã hội.
Lê Đình Khẩn (2007). Phiên dịch Việt Hán-Hán Việt. TP.HCM: NXB Đại học quốc gia TP.Hồ Chí
Minh.
Nguyễn Thành Nhân. (2016). Đánh giá kết quả học tập môn học theo định hướng phát triển năng lực
của sinh viên. TP. HCM: NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Kiều Thu (2016). Đánh giá bản dịch: Tiêu chí chấm bài thi mơn Biên dịch trong các
trƣờng đại học. Kỷ yếu hội thảo giảng dạy biên-phiên dịch bậc đại học, tr. 55-59.
Nguyễn Thiện Giáp. (2015). Từ và từ vựng học tiếng Việt. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thƣợng Hùng. (2005). Dịch thuật: từ lý thuyết đến thực hành. TP.HCM: NXB Thành phố Hồ
Chí Minh.

Phan Văn Các, Phạm Đình Cầu, Nguyễn Duy Chiếm, Nguyễn Trọng Hiền, Nguyễn Quý Hữu, Lê Khả
Kế, Huỳnh Lứa, Lê Đức Niệm, Nguyễn Văn Phát, Nguyễn Đức Sâm, Lê Xuân Thại, Lê Huy Tiêu.
(2006). TP. HCM: NXB Khoa học Xã hội.
Farrús Cabeceran, Mireia, Ruiz Costa-Jussà, Marta, Mariño Acebal, José Bernardo, & Rodríguez
Fonollosa, José Adrián. (2010). Linguistic-based evaluation criteria to identify statistical machine
translation errors. Paper presented at the 14th Annual Conference of the European Association for
Machine Translation.
Martínez Melis, Nicole, & Hurtado Albir, Amparo J Meta: journal des traducteurs/Meta: Translators'
Journal. (2001). Assessment in translation studies: Research needs. 46(2), 272-287.
Yildiz, Mehmet (2020). A critical perspective on translation quality assessments of five translators‘
organizations: ATA, CTTIC, ITI, NAATI, and SATI. RumeliDE Dil ve Edebiyat Araştırmaları
Dergisi, (18), 568-589.

625


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

PROPOSING ASSESSMENT CRITERIA THROUGH CHINESE TO
VIETNAMESE TRANSLATION PRACTICES BY STUDENTS AT
ELEMENTERY LEVEL: A CASE STUDY IN FACULTY OF CHINESE
LINGUISTICS AND LITERATURE, USSH, VNU
Abstract
Current situation of evaluating translations in general, the translations from Chinese into Vietnamese
in particular is lack of assessment criteria. Therefore, assessment criteria is an urgent issue for
objective evaluation of student learning outcomes. The study aims at detecting and identifing the most
common linguistics errors in students‘ exercises and exams. Combining Chinese-Vietnamese
translation theories and translation errors analysis theories approaches to standarize assessment
criteria.

Keywords
errors analysis, Vietnamese, assessment criteria, correcting scales, elementery level

626



×