TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
Đề bài: Làm rõ vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp học phần:
Hà Nội, ngày 1 tháng 3 năm 2021
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
CÁCH TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI
CẤP THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
1. THỰC CHẤT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN
HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
Trước hết, ta cần nhận thấy rằng, Hồ Chí Minh chưa trình bày các quan điểm của
Người về dân tộc và giai cấp một cách có hệ thống. Tuy nhiên, khi tiếp cận các vấn đề
dân tộc, vấn đề giai cấp, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể được nhìn nhận các khía cạnh trên như sau:
1.1: Vấn đề dân tộc
Khái niệm dân tộc thường được xác định với hai nghĩa cơ bản, dân tộc - tộc người
và dân tộc - quốc gia. Trong bài làm của mình, em tập trung đề cập khái niệm “dân
tộc” theo nghĩa dân tộc - quốc gia. Ở góc độ dân tộc - quốc gia: “Dân tộc là một khối
cộng đồng gồm nhiều người, khối ổn định, hình thành trong quá trình lịch sử, sinh ra
trên cơ sở một ngôn ngữ chung, một lãnh thổ chung, một đời sống kinh tế chung, một
cấu tạo tâm lý chung biểu hiện trong một nền văn hóa chung” [93, tr.219]. Như vậy,
dân tộc ở đây được hiểu là dân tộc - quốc gia, được hình thành trong quá trình lịch sử,
được đặc trưng bởi sự đồng nhất, ổn định về đời sống kinh tế, về ngôn ngữ, lãnh thổ..
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của Mác và Ăngghen, Lênin đề cập vấn đề dân tộc
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc, Người cho rằng
vấn đề dân tộc là vấn đề lớn mang tính quốc tế mà thực chất đó là vấn đề dân tộc
thuộc địa: “Vấn đề dân tộc phải là nội dung quan trọng trong chiến lược, sách lược
của các Đảng Cộng sản; phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ
nghĩa dân tộc tư sản, của chủ nghĩa sô vanh; phải tăng cường chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Các Đảng Cộng sản cần phải tăng cường quan tâm đến vấn đề dân tộc thuộc địa”
[98, tr.343].
Khi tiếp cận khái niệm “dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, với nghĩa là dân tộc
- quốc gia, thì dân tộc Việt Nam bao gồm tồn thể các dân tộc - tộc người sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam. Đối với Người, vấn đề trọng tâm của quốc gia - dân tộc Việt
Nam là lợi ích dân tộc, trong điều kiện đất nước đang bị thực dân, đế quốc xâm lược
thì lợi ích dân tộc gắn liền với đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng và phát
triển dân tộc. Hồ Chí Minh đã đứng dưới góc độ dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc áp bức
để xem xét vấn đề dân tộc. Hay có thể nói cách khác vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh
xem xét là vấn đề dân tộc của nhân dân Việt Nam, nhân dân các nước thuộc địa đang
bị chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Người chỉ ra, thực chất của vấn đề dân tộc là độc lập
tự do, là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước
ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân
tộc tự quyết, thành lập một nhà nước dân tộc độc lập, sau đó phải đưa đất nước tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, phát triển dân tộc ngày
càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Đây là một trong những nội
dung cốt lõi về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Tự
do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy
là tất cả những điều tôi hiểu”. [160, tr.53].
Ta nhận thấy rằng Hồ Chí Minh quan tâm hơn cả là vấn đề giải phóng và phát triển
dân tộc. Theo Người, giải phóng dân tộc là là mục tiêu, mục đích của cách mạng,
đồng thời là con đường để giải phóng xã hội, giải phóng con người. Điều này được thể
hiện khi Hồ Chí Minh ra đi tìm cứu nước vì một mục đích duy nhất là độc lập tự do
cho dân tộc. Khi trở thành Người cộng sản độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho
nhân dân vẫn là mục đích duy nhất của Người. Người khẳng định: “Khơng có gì q
hơn độc lập, tự do” [122, tr.131]. Người đã khắc phục được sự bế tắc mà các nhà yêu
nước đương thời chưa thực hiện được. Đó là tìm ra con đường cách mạng giải phóng
triệt để dân tộc Việt Nam, với mục đích khăng khít gắn bó chặt chẽ với nhau: giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
1.2: Vấn đề giai cấp
Năm 1919, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Leenin đã đưa ra định nghĩa về
giai cấp như sau: “ Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đồn này có thẻ chiếm
đoạt lao động của tập đồn khác, do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định [97,tr.17-18].
Như vậy, theo quan điểm mácxít, sự hình thành giai cấp cũng là sự hình thành lợi
ích giai cấp khác nhau. Lợi ích đó do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó tạo nên.
Giai cấp và đấu tranh giai cấp là hiện tượng lịch sử, tồn tại khách quan, chứ không
phải là kết quả của một cách tiếp cận xã hội, không phải là sản phẩm của ý thức. Dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt của giai cấp cơng nhân sẽ
giải phóng bản thân họ và tồn thể nhân loại khỏi áp bức bóc lột và phân chia giai cấp,
là một cuộc cách mạng xã hội duy nhất triệt để, hướng tới mục tiêu một xã hội khơng
có giai cấp, mọi người đều được hưởng tự do, bình đẳng, hạnh phúc và hịa bình.
Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng giai
cấp (giai cấp cơng nhân, nơng dân và các tầng lớp lao động khác...) khỏi tình trạng áp
bức bóc lột, đem lại cơm ăn áo mặc, tự do hạnh phúc cho các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội Việt Nam. Trong điều kiện dân tộc bị xâm lược vấn đề giai cấp luôn được Hồ
Chí Minh đặt trong mối quan hệ biện chứng với vấn đề dân tộc. Lợi ích của giai cấp
thống nhất chặt chẽ với lợi ích dân tộc. Điều đó có nghĩa là chỉ có giải phóng dân tộc
mới giải phóng được giai cấp.
Khi đất nước giành được độc lập rồi thì giải phóng giai cấp chính là phải từng bước
xố bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc
thật sự cho tất cả mọi người. Đây là vấn đề nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề giai cấp. Người khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [111, tr.64].
Đồng thời, vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng chính là nhìn nhận
xem giai cấp nào đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam, đáp ứng
được khát vọng độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Trong điều kiện quốc gia - dân tộc Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, vấn đề là giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì vấn đề được đặt ra là
giai cấp nào có thể giải quyết được triệt để vấn đề dân tộc thuộc địa, giải quyết được
vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Hồ Chí Minh
cho rằng, chỉ giải quyết triệt để vấn đề đó khi đứng trên lập trường của giai cấp cơng
nhân. Vì theo Người, chỉ có giai cấp cơng nhân là người duy nhất có sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng, bằng sự liên minh với giai cấp nơng
dân và trí thức coi đó là nền tảng của mặt trận đồn kết tồn dân. Người khẳng định:
Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có
tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh
trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới,
giai cấp cơng nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo
dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động,
giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo [115, tr.256]
Mặt khác, trên cơ sở kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phân
tích cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh xem xét vấn đề giai cấp trong xã
hội Việt Nam dưới góc độ mối tương quan về lợi ích và tương quan về quyền lực giữa
các giai cấp trong xã hội Việt Nam. Theo Người, chỉ có đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân mới đảm bảo sự thống nhất biện chứng về lợi ích giữa giai cấp,
tầng lớp trong xã hội với toàn thể dân tộc Việt Nam. Điểm mấu chốt của sự thống nhất
đó theo quan điểm của Hồ Chí Minh là phải giữ vững được sự lãnh đạo chính trị của
giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng.
1.3 Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Dân tộc và giai cấp là hai phạm trù lịch sử, có mối quan hệ biện chứng với nhau..
Mỗi dân tộc có một giai cấp đứng đầu. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì giai
cấp cũng thống trị dân tộc. Và chính điều đó đã tạo nên mối quan hệ biện chứng giữa
giai cấp và dân tộc trong suốt q trình vận động của xã hội có giai cấp Từ việc phân
tích, tổng hợp các vấn đề trên, có thể hiểu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một hệ thống các luận điểm cơ bản
mang tính nguyên tắc để xử lý mối quan hệ đó, nhằm đi đến sự thống nhất về lợi ích,
là cơ sở để huy động mọi nguồn lực của dân tộc, từng bước giải quyết thành công
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Một là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp xét đến
cùng là để đi đến sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
Trên cơ sở phân tích nội hàm các khái niệm vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
chúng ta có thể nhận thấy rằng, nội dung của mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xét đến cùng là quan hệ về mặt lợi ích, Chính
vì vậy, quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong xã hội Việt Nam, thực
chất là mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Mối quan hệ
này được biến đổi và chuyển hóa cùng với chế độ chính trị xã hội trong mỗi giai đoạn
cách mạng của đất nước, song tất cả đều vì một lợi ích chung là đất nước được độc
lập, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Hồ Chí Minh là người đã nhận thức đúng
đắn và giải quyết một cách khéo léo và hiểu quả mối tương quan giữa các loại lợi ích
đó.
Hồ Chí Minh cho rằng, giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và những giai cấp, tầng lớp
trong xã hội cùng thống nhất với nhau về mặt lợi ích trước nhiệm vụ chống lại chủ
nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người
và hịa bình cho nhân loại. Vì vậy, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp ln thống nhất
với nhau trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, chỉ có trên cơ sở thống nhất về mặt lợi ích mới giải quyết thấu
đáo mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Người cho rằng để thống nhất
lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân để giải quyết. Sở dĩ như vậy, vì theo quan điểm của Người giai cấp cơng nhân có
lợi ích thống nhất với dân tộc và các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Theo đó,
đối với Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc phải được đặt trong quỹ đạo của
cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở để
huy động mọi nguồn lực của dân tộc cho thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh được biểu hiện ở mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong việc kết hợp giữa
các nhân tố đó, ln thấy ở Hồ Chí Minh có sự kết hợp một cách hài hịa, nhuần
nhuyễn, chính đó đã là cơ sở để Người thành cơng khi giải quyết các vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh ln chú ý tìm ra, khơi dậy và phát huy tối đa
những điểm tương đồng giữa dân tộc và giai cấp để làm cơ sở cho sự thống nhất, tạo
nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh, nêu cao những điểm tương đồng,
Hồ Chí Minh ln hiểu rõ sự khác biệt về nhu cầu, tâm lý, nhận thức, trình độ, quy
mơ của mỗi bộ phận tầng lớp người khác nhau trong dân tộc. Chính vì vậy, trong q
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn khẳng định độc lập dân tộc luôn là
mục tiêu hàng đầu, là điểm tương đồng, là mẫu số chung để quy tụ tất cả người dân
Việt Nam yêu nước. Còn về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế
thì Hồ Chí Minh luôn nhất quán trên nguyên tắc, chủ nghĩa yêu nước chân chính
thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Do đó, mặc dù ý thức rõ ràng tầm quan
trọng hàng đầu của nhiệm vụ dân tộc nhưng Người không bao giờ rơi vào lập trường
của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, bè phái.
Ba là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là yêu cầu
khách quan.
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là đòi hỏi khách
quan của thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn thời đại. Do vậy, giải quyết được
mối quan hệ đó, sẽ là cơ sở để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách
mạng những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như: việc xác định con đường,
mục tiêu, lực lượng cách mạng, những vấn đề về đoàn kết dân tộc và quốc tế, những
vấn đề lý luận về Đảng, Nhà nước, Mặt trận... nhằm huy động được mọi nguồn lực
cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc
phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hồn
tồn” [122, tr.392]. Vì vậy, Người đã ln nhận thức và giải quyết các vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam trên nền tảng sự thống nhất của mối quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, trên cơ sở đó, từng bước đưa cách mạng Việt
Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Nói tóm lại, tư tưởng của Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp là đã xuất phát thực tiễn cách mạng Việt Nam, theo sát sự phát
triển của thời đại. Vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người cũng xuất phát từ tư tưởng của sự kết hợp giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tư tưởng của Người đã phản ánh quy luật khách
quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, đồng thời
cũng phản ánh mối quan hệ khăng khít, thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Đây là là mục đích, lý tưởng thấm đượm tình
yêu thương và chủ nghĩa nhân văn cao cả.
II. PHẦN NỘI DUNG:
SỰ VẬN DỤNG CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ
GIAI CẤP QUA CÁC THỜI KÌ CÁCH MẠNG
2.1 Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, giải quyết
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở rất quan trọng để xác định
đúng đắn đường lối cách mạng Việt Nam. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Người đã khéo giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó: Việc xác định con đường,
mục tiêu, lực lượng cách mạng; những vấn đề về đoàn kết dân tộc và quốc tế; những
vấn đề lý luận về Đảng, Nhà nước, Mặt trận...
Thứ nhất, xuất phát từ sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vơ sản của Hồ Chí Minh.
Người khơng tán thành cách cứu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Hoàng Hoa Thám, Người bị cuốn hút bởi nền văn minh phương Tây, mà Người
được tiếp xúc trong những năm học ở nhà trường thực dân. Ngày 5.6.1911, Người đã
ra đi tìm đường cứu nước. Đây là một quyết định đúng, biểu hiện ý chí tìm đường cứu
nước, cứu dân và sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị lúc bấy giờ của Hồ Chí Minh. Từ
việc khẳng định Cách mạng Nga là cuộc cách mạng triệt để, Người đi đến kết luận:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vơ sản”. Đây là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới,
mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các
phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ
đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy,
con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam đòi hỏi giải quyết vấn đề dân tộc
gắn với vấn đề giai cấp
Trên cơ sở nắm vững phương pháp luận mácxít, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào
phân tích chế độ thực dân và những mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã nhận thức được nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa thực dân trên
đất nước ta. Người cho rằng, chính lợi ích của giai cấp tư sản chính quốc, chủ nghĩa tư
bản sẽ đẻ ra chủ nghĩa thực dân và thơng qua chính sách xâm lược thuộc địa để hình
thành chế độ thực dân. Vấn đề đầu tiên của cách mạng Việt Nam là phải giải quyết
vấn đề dân tộc, tức là vấn đề giải phóng dân tộc. Lực lượng tiến hành cách mạng là
toàn thể nhân dân Việt Nam, với động lực đấu tranh là vì lợi ích chung của dân tộc.
Kẻ thù chủ yếu của cách mạng ở đây là thực dân Pháp với tư cách là áp bức dân tộc.
Lực lượng tiến hành cách mạng là các giai cấp tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam,
trong đó có cơng nơng là gốc, giai cấp vơ sản là giai cấp lãnh đạo với tư cách là giai
cấp những người lao động. Kẻ thù giai cấp trực tiếp của họ cũng chính là thực dân
Pháp – kẻ áp bức giai cấp.
Thứ ba, giải quyết được vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở để xác lập được
đúng đắn đường lối cho cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh lựa chọn là con đường vơ sản, giải phóng dân tộc phải gắn liền với
giải phóng giai cấp và giải phóng con người, đem lại quyền làm người, làm chủ đất
nước. Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tơi hiểu”. Đối với Hồ Chí Minh trong
các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam thì việc giải quyết giữa vấn đề dân tộc và
giai cấp là mối quan hệ không thể tách rời. Khát vọng độc lập, tự do đã đi đến tư
tưởng khoa học về giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong tư tưởng
“khơng có gì q hơn độc lập tự do”, độc lập tự do khơng chỉ là lợi ích dân tộc mà
cịn là lợi ích giai cấp, lợi ích căn bản nhất, sâu xa nhất của những người lao động.
Người khẳng định: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Đó là tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh về giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp và cũng thể hiện sâu sắc
quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Bốn là, giải quyết triệt để mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải
đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh con đường giải phóng dân tộc phù hợp với cách
mạng Việt Nam, phải là một cuộc cách mạng vừa phải giành độc lập dân tộc, vừa phải
giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, tức là giải quyết vấn đề dân tộc
phải gắn liền với vấn đề giai cấp. Luận điểm trung tâm, xuyên suốt để giải quyết triệt
để cả hai vấn đề ấy, theo Hồ Chí Minh, phải được giải quyết theo lập trường của giai
cấp vô sản. Gần một thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân tộc Việt Nam đã giành được những thắng lợi to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo khẳng định: “Đảng là Đội tiên phong của vô sản giai cấp” .Song,
Đảng không chỉ là của riêng giai cấp cơng nhân, mà của tồn dân tộc.
Năm là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là vấn đề
chiến lược gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, do Người soạn thảo và được Hội
nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định, cách mạng Việt Nam phải trải qua các
giai đoạn: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản” [110, tr.1]. Như thế, cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến
trình của hai sự nghiệp giải phóng: Giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ thực dân và giải
phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Hai giai đoạn đó khơng hồn tồn tách rời
nhau, giai đoạn trước chuẩn bị tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau là kết quả là sự
phát triển, củng cố và hoàn thiện các mục tiêu của giai đoạn trước. Người chỉ rõ:
“Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì
mới giành được thắng lợi hồn tồn” [122, tr.392]. Một trong những nhiệm vụ quan
trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người,
theo Hồ Chí Minh là phải xố bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống
ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Sáu là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh khẳng định, muốn thành cơng triệt để, cách mạng giải phóng dân tộc
nhất định phải đi theo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản, tức là phải
đứng trong hàng ngũ giai cấp cơng nhân tồn thế giới liên kết lại chống kẻ thù là chủ
nghĩa tư bản và Người cho rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự
nghiệp của vơ sản tồn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng
lợi trong một nước nào đó, nhất là trong một quốc gia đế quốc chủ nghĩa... thì đó càng
là thắng lợi cả cho người An Nam” [109, tr.520]…Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã tích
cực, chủ động “kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của
giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức”.
Theo Người, đối với Việt Nam, không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước rồi mới giải
quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ
có giải phóng dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao
hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp. Sở dĩ như
vậy là vì, “ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai
cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và đấu tranh giữa toàn dân tộc với
chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai” . Nói tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam để đề ra
con đường cách mạng đầy sáng tạo của Việt Nam là: Giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội (giai cấp), giải phóng con người với khẩu hiệu: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn
kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành công”.
Bảy là, trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp cần
phải sáng tạo, linh hoạt và khéo léo trong từng giai đoạn cách mạng nhằm đảm
bảo huy động được mọi nguồn lực cho thắng lợi của cách mạng.
Theo Người trong quá trình giải quyết mối quan hệ đó phải ln tìm thấy những
điểm tương đồng giữa dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, có như vậy mới có
thể huy động được mọi nguồn lực cho cách mạng được. Vì, theo Người trong quá
trình cách mạng, giữa các yếu tố dân tộc, giai cấp khơng chỉ có sự khác biệt về đặc
điểm giữa các quốc gia - dân tộc, mà cịn ln ln có sự vận động và biến đổi. Nên
trong tiến trình cách mạng cần phải nhận thức và giải quyết một cách sáng tạo, linh
hoạt, khéo léo quan hệ đó, nếu khơng sẽ rơi vào chủ quan, máy móc, duy ý chí, điều
này rất dễ gây tổn thất cho cách mạng.
Điểm tương đồng lớn nhất và quan trọng nhất giữa các tầng lớp, giai cấp, tộc người
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam theo Hồ Chí Minh chính là lịng u nước, tinh
thần dân tộc. Đây là cơ sở đưa tới sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân tộc, tạo
nên tính cố kết cộng đồng vững chắc trước mọi diễn biến phức tạp của thời cuộc, là
động lực lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng ln nhắc nhở cán bộ đảng viên phải
khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống đoàn kết cộng đồng...
để xây dựng khối đại đồn kết tồn dân. Khơng phân biệt nịi giống, giai cấp, tơn giáo,
gái trai, giàu nghèo…, trong đó cơng nhân, nơng dân, trí thức là nền tảngChính vì vậy,
Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ động “kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức”, đưa
cách mạng Việt Nam vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới, là cơ sở để huy
động nguồn lực trong nước với nguồn lực quốc tế tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách
mạng tới thắng lợi cuối cùng.
2.2 Thời kì quá độ: Đấu tranh cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ xã hội cũ, xây dựng
các yếu tố mới phù hợp với quy luật tiến lên của chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực:
- Về chính trị: Chống hết tất cả các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, trước hết ở trong
Đảng, trong bộ máy chính quyền từ cấp cao tới thấp, đồng thời bồi dưỡng giáo dục để
nhân dân có tri thức, có năng lực làm chủ xã hội.
- Về kinh tế: Trong bối cảnh đất nước còn nghèo nàn, kĩ thuật lạc hậu, phải cải tạo nền
kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, tạo tiền đề
xây dựng nền tảng và vật chất của chủ nghĩa xã hội.
- Về văn hóa: phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ dịch của văn
hóa đế quốc; phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc, tiếp thu có
chọn lọc văn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng nèn văn hóa có tính chất dân tộc, khoa
học và đại chúng.
- Về các quan hệ xã hội: thay đổi triệt để những quan hệ cũ đã trở thành thói quen
trong nếp sống của con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn bảo đảm mỗi
người đều có điều kiện cải thiện đời sống của mình, phát huy tính cách và sở trường
riêng hài hòa vào đời sống chung, vì lợi ích chung của tập thể, trở thành xã hội dân
chủ.
III. KẾT LUẬN:
QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN
Ta phải khẳng định rằng quan điểm của Hồ Chí Minh về dân tộc và giai cấp là tư
tưởng vô cùng sáng suốt, mang tính thời đại, là kim chỉ nam định hướng cho quá trình
phát triển của đất nước trong suốt các thời kì. Là một sinh viên, khi cịn đang ngồi trên
ghế nhà trường, trách nhiệm của mỗi chúng ta là phải hiểu sâu, hiểu rõ để thấm nhuần
tư tưởng cao đẹp của Bác, tu dưỡng thật tốt để góp một phần công sức nhỏ bé vào sự
nghiệp chung xây dựng phát triển đất nước.
Thực tế cho thấy, bên các thành tựu đạt được chúng ta cịn có những hạn chế nhất
định trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN. Do đó, cần có một hệ thống
giải pháp đồng bộ nhằm phát huy tối đa, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy, để thật sự bảo
đảm quyền làm chủ và đem lại lợi ích cho tồn thể nhân dân. Như là tiếp tục tăng
cường bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước, bảo
đảm nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân. Phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của
Ðảng với Nhà nước: cơng tác cán bộ, bố trí, sắp xếp đúng cán bộ, làm tốt việc kiểm
tra, giám sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ.Tiếp tục hoàn thiện cơ
chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực đều thuộc về nhân
dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan để thực hiện có hiệu quả quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi mới của thực tiễn. Có cơ chế,
chế tài xử lý nghiêm minh đối với cán bộ, công chức tham ô, tham nhũng, xa dân,
thiếu tơn trọng dân. Cần thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở, khuyến khích,
bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng...
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
2. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên) (2009), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (Chủ biên) (2011), Vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh và Đảng ta (thời kỳ trước đổi
mới), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên) (2012), Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho
dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Đức Bình (2010), Vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Theo Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H.2011.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tái bản 2010.
8. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh, một dân tộc, một con người, một thời đại,
một sự nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (1998), Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
10. Nguyễn Duy Quý (2008), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội