Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.2 KB, 102 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NGA

THẨM QUYỀN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HĨA

Chun ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN CƯỜNG

HÀ NỘI - 2021

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Viện Hàn Lâm Khoa học xã
hội Việt Nam.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội
Việt Nam xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN



Trần Thị Nga

2


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU..........................................................................................................5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH........................................12
1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.............................12
1.2. Đặc điểm của thẩm quyền xét xử vụ án hành chính........................21
1.3. Ý nghĩa của xét xử vụ án hành chính................................................26
1.4. Quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính..................................................................................................48
1.5. Quy định về giải quyết khiếu kiện bằng con đường tố tụng hành
chính tại Tịa án ở một số quốc gia...........................................................48
TIẾU KẾT CHƯƠNG 1............................................................................... 56
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HỐ VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP...................................................................................................................................... 57
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thẩm quyền xét xử vụ án hành chính tại
tỉnh Thanh Hố......................................................................................................................... 57
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét
xử vụ án hành chính tại Tồ án nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

64
2.3. Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả trong xét xử vụ án
hành chính.................................................................................................................................... 83
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2........................................................................................................... 89
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 92

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TAND
TTHC

: Tòa án nhân dân
: Tố tụng hành chính

TTHS

:

Tố tụng hình sự

UBND

:

Ủy ban nhân dân

4



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động tố tụng, việc xác định thẩm quyền xét xử là bước đầu
tiên và quan trọng nhất khi tiến hành thụ lý, giải quyết các vụ việc tại Tòa án.
Với hoạt động tố tụng trong lĩnh vực hành chính, dân sự hay hình sự, việc
phân định thẩm quyền xét xử giữa các Tịa án có vai trị quyết định đến tính
chất của từng vụ việc cụ thể, và chỉ khi xác định đúng thẩm quyền xét xử, các
bên mới có thể bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác, việc
phân định thẩm quyền xét xử cũng giúp các Tịa án khơng bị chồng chéo về
thẩm quyền cũng như công tác quản lý hồ sơ vụ việc.
Luật Tố tụng hành chính (TTHC) năm 2015 thay thế Luật TTHC năm
2010 đã có hơn 5 năm đi vào áp dụng và phát huy được vai trò nhất định trong
giải quyết các vụ việc hành chính ở nước ta thời gian qua. So với Luật TTHC
năm 2010, Luật TTHC năm 2015 đã phần nào thúc đẩy việc giải quyết, xét xử
các vụ án hành chính trong tình trạng số lượng các vụ án hành chính ở nước ta
ngày càng gia tăng. Một trong những nội dung quan trọng trong Luật TTHC
năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định của Luật TTHC năm 2010 đó là xác
định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính giữa các cấp Tịa án nhằm thực hiện
“nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân” như Hiến pháp năm 2013 đã xác định. Đây cũng là
cơ sở để Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 đã có nhiều quy định mới,
thay đổi căn bản, quan trọng về vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ và nguyên
tắc hoạt động của Tòa án nhân dân; về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của từng
cấp Tòa án; về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.

5



Sau 5 năm thi hành Luật TTHC năm 2015, bên cạnh những kết quả đạt
được, liên quan đến vấn đề thẩm quyền xét xử của Tịa án hành chính, vẫn còn
tồn tại những bất cập nhất định. Như trong Báo cáo của Tòa án nhân dân tối
cao về Dự thảo Luật TTHC năm 2015 sửa đổi đã nêu một số nội dung như:
thẩm quyền của Tòa án với các khiếu kiện hành chính, như các quyết định,
hành vi hành chính mang tính chất nội bộ cịn hẹp, khơng thống nhất khiến
hạn chế quyền khởi kiện của công dân; hay việc phân định thẩm quyền xét xử
vụ án hành chính giữa Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp
tỉnh còn chưa thực sự phù hợp, còn gây nên tình trạng quá tải và chồng chéo.
Điều này đã khiến các vụ án hành chính chưa giải quyết một cách hiệu quả,
không tăng cường được bản lĩnh và trách nhiệm của Thẩm phán cũng như
chưa đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
Thanh Hóa là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ nước ta, đang trong bước
chuyển mình lớn về cả kinh tế - xã hội với những bước tiến đáng kể. Kinh tế
của tỉnh tăng trưởng mạnh trên mọi lĩnh vực, thu hút đầu tư tốt thuộc nhóm
dẫn đầu của cả nước. Bên cạnh đó, các vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh thời
gian qua cũng không ngừng tăng cao. Hoạt động xét xử các vụ án hành chính
của Tịa án nhân dân (TAND) hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã góp phần tích cực
trong việc nâng cao chất lượng hoạt động hành chính của chính quyền địa
phương, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cơng dân. Tuy
nhiên, trong q trình giải quyết vụ án hành chính vẫn gặp khơng ít khó khăn,
vướng mắc mà một trong những nội dung đó chính là việc xác định thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính của Tịa án.
Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định thẩm quyền giải quyết các vụ án
hành chính của TAND cấp huyện và TAND tỉnh có sự thay đổi. Theo đó,
những khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của
UBND, chủ tịch UBND cấp huyện do TAND cấp tỉnh giải quyết sơ thẩm
(trước đây nội dung này do TAND cấp huyện giải quyết). Quy định này khắc


6


phục được tình trạng nể nang của TAND cấp huyện trong việc phải tiến hành
xét xử đối với những vụ án mà bên bị kiện là cơ quan hoặc người đứng đầu cơ
quan hành pháp ở địa phương. Nhưng cũng làm tăng thêm trách nhiệm và
khối lượng công việc của TAND cấp tỉnh, khiến cho công việc quá tải. Đơn
cử năm 2020 có 90 vụ án hành chính sơ thẩm thuộc thẩm quyền của TAND
cấp tỉnh, nhưng chỉ mới xét xử được 28 vụ, còn tới 62 vụ chưa giải quyết. Mặt
khác, nhiều vụ việc có sự chồng chéo giữa thẩm quyền của cơ quan hành
chính là UBND các cấp với TAND, TAND cấp huyện với TAND cấp tỉnh,
khiến việc xác định thẩm quyền xét xử thêm khó khăn. Thực trạng này yêu
cầu đặt ra cần nghiên cứu, đánh giá để tìm ra giải pháp phù hợp nhằm giải
quyết việc xác định thẩm quyền của TAND tại Thanh Hóa trong việc xét xử
vụ án hành chính.
Nhận thức được những bất cập, vướng mắc còn tồn tại trong việc xác
định thẩm quyền của TAND trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa, học viên đã lựa chọn đề tài “Thẩm quyền xét xử các vụ án
hành chính từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” để làm luận văn thạc sĩ, với mục
tiêu đánh giá và đưa ra được những giải pháp mang tính khả thi để giải quyết
những vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc xác định thẩm quyền xét xử của Tịa án đóng vai trị quan trọng và
là tiền đề để TAND giải quyết các vụ án nói chung, các vụ án hành chính nói
riêng, chính vì vậy có nhiều nghiên cứu đã quan tâm đến nội dung này. Có thể
kể đến các nghiên cứu là:
Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Bạch Tuyết (2014) về “Thẩm quyền xét
xử của TAND theo Luật TTHS Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
(nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)”, Khoa Luật, Đại học quốc gia
Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu và đánh giá quy định của pháp luật TTHS dưới

khóa cạnh lập pháp và thực tiễn, từ đó đánh giá thực tiễn tại tỉnh Nam Định

7


và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử vụ
án hình sự của TAND trước yêu cầu cải cách tư pháp.
Liên quan trực tiếp đến xác định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính, có
thể kể đến các nghiên cứu là:
Luận văn của tác giả Nguyễn Đức Chính (2014) về “Thẩm quyền xét xử
của Tịa hành chính theo Luật TTHC Việt Nam”, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.
Tác giả đã phân tích, đánh giá và chỉ ra những nội dung bất hợp lý trong quy
định của Luật TTHC về thẩm quyền xét xử của Tịa án nhân dân. Từ đó đề
xuất sửa đổi, bổ sung quy định của Luật TTHC với Luật Tố tụng dân sự.
Bài báo của tác giả Nguyễn Thị Hà (2017) về “Bàn về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính của TAND ở nước ta hiện nay”, đăng trên Tạp chí
Nghề luật số 3/2017, tr.65-71. Tác giả đánh giá một số thuật ngữ như “quyết
định hành chính”, “hành vi hành chính”, “quyết định, hành vi có tính chất nội
bộ” được quy định trong luật chưa được giải thích rõ ràng gây khó khăn trong
thụ lý vụ án hành chính. Thẩm quyền của TAND trong xét xử vụ án hành
chính cần học hỏi kinh nghiệm một số quốc gia trong việc xem xét tính hợp
pháp của các quyết định hành chính phát hiện trong q trình giải quyết vụ án
hành chính.
Bài báo của tác giả Phan Long Lực (2019) về “Một số bất cập và đề
nghị hoàn thiện pháp luật TTHC”, Tạp chí Tịa án. Trên cơ sở hoạt động thực
tiễn, tác giả đánh giá nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc giải quyết vụ án bị
kéo dài, phát sinh nhiều án quá hạn, điển hình là quy định về Thẩm quyền của
Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh tại Điều 31, Điều 32 Luật TTHC năm
2015. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất cần giao thẩm quyền cho Tòa án cấp
huyện giải quyết xét xử các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành

chính của UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tịa án. Có như vậy thì việc giải quyết, xét xử các vụ án hành chính
và các tranh chấp dân sự đỡ tốn thời gian, kịp thời, tạo thuận lợi cho người

8


dân, hạn chế án quá hạn luật định và phù hợp với xu thế tăng thẩm quyền cho
cấp huyện theo tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước.
Báo cáo của TAND hai cấp TP. Hồ Chí Minh trong Hội nghị triển khai
cơng tác TAND năm 2020 có nêu vấn đề thẩm quyền giải quyết của TAND
còn nhiều khó khăn, bất cập (mục 2.1) như việc hủy giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn, khiếu kiện văn bản chứng thực, khấu trừ thuế TNCN, quyết định bổ
nhiệm thừa phát lại. Đây là những khó khăn mà chưa có hướng dẫn cụ thể để
giải quyết khiến TAND khơng có phương án thụ lý.
Bài báo của tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải (2020) về “Phân cấp thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính - Một số vấn đề cần được hồn thiện”,
đăng trên Tạp chí KHCN Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả
đã phân tích thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của TAND cấp
huyện và TAND cấp tỉnh theo Luật TTHC năm 2015 và đánh giá, phương
pháp liệt kê để phân cấp thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm là khơng phù
hợp mà cần sử dụng phương pháp định tính kết hợp với phương pháp loại trừ.
Cũng tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải đã đánh giá vấn đề này thông qua một
nội dung nhỏ đăng trong bài “Những vướng mắc, bất cập của Luật TTHC và
hướng đề xuất hoàn thiện”, Tạp chí Tịa án. Tác giả đánh giá quy định thẩm
quyền của TAND cấp tỉnh là chưa cụ thể khi muốn lấy vụ án hành chính thuộc
thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện lên để giải quyết.
Như vậy có thể thấy, liên quan đến nội dung thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính của Tịa án nhân dân đã có một số nghiên cứu, được tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Trong đó các tác giả hầu hết chỉ ra những vấn đề

chung liên quan đến quy định của pháp luật TTHC trong xác định thẩm quyền
giải quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên, nghiên cứu tồn diện thẩm quyền xét
xử vụ án hành chính thực hiện trên phạm vi địa bàn một tỉnh như tỉnh Thanh
Hóa cịn có ít cơng trình nghiên cứu. Chính vì vậy nội dung mà đề tài triển
khai đảm bảo được tính mới, tính khoa học của một luận văn thạc sĩ.

9


3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của Luật TTHC năm 2015
về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của TAND, khái quát các vấn đề lý
luận liên quan. Trên cơ sở lý thuyết, luận văn triển khai đánh giá việc áp dụng
các quy định của Luật TTHC về xác định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
tại TAND tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, luận văn chỉ ra những kết quả đạt được,
những hạn chế, bất cập còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật TTHC về xác định thẩm quyền xét xử.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu vấn đề xác định thẩm quyền xét xử
vụ án hành chính từ thực tiễn TAND tỉnh Thanh Hóa.
Về khơng gian: Luận văn nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Về thời gian: Giai đoạn từ khi Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực đến nay
(2016-2020).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận chung về
thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tịa án trong tố tụng hành chính,
tìm hiểu quy định này đặt trong lịch sử Luật Tố tụng hành chính Việt Nam;
đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử các
vụ án hành chính của tịa án tại tỉnh Thanh Hóa. Làm rõ những điểm hạn chế,

thiếu sót, những quy định đã phù hợp của pháp luật trong quy định về thẩm
quyền xét xử các vụ án hành chính của Tịa án, phân tích những tồn tại, hạn
chế trong thực tiễn áp dụng quy định đó.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn là:
- Nghiên cứu, thu thập, đánh giá kết quả nghiên cứu của các cơng trình
nghiên cứu đối với các vấn đề liên quan đến đề tài luận văn ở Việt Nam và tại

10


một số quốc gia khác. Từ đó, khái quát các vấn đề chưa được giải quyết thấu
đáo, hoặc chưa được đề cập, định hướng nội dung luận văn.
- Phân tích những vấn đề lý luận để làm rõ khái niệm: hành chính, vụ án

hành chính, thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.
- Phân tích các quy định về thẩm quyền xét xử trong Luật TTHC năm 2015
và đánh giá các quy định đó trong thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác định thẩm quyền

xét xử vụ án hành chính của TAND cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật để xác định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của TAND
tỉnh Thanh Hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của
Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù như: phương pháp phân tích tổng
hợp, phân tích các tình huống, vụ án cụ thể; phương pháp so sánh; phương
pháp thống kê…để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề

nghiên cứu trong luận văn.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được triển khai gồm 2 chương chính, ngồi mở đầu, kết luận,
mục lục, danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về thẩm quyền giải quyết vụ
án hành chính
Chương 2: Thực trạng về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa và giải pháp.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
1.1.1. Khái niệm vụ án hành chính
Trước đây và cho đến hiện nay mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước và
người dân luôn là mối quan hệ “khơng bình đẳng” giữa một bên là chủ thể
quản lý và một bên là đối tượng quản lý. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt
động thực thi quyền hành pháp, được tiến hành chủ yếu bởi hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước. Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý hành chính
nhà nước, các chủ thể quản lý có quyền ban hành các quyết định hành chính
hoặc thực hiện hành vi hành chính có tính mệnh lệnh đơn phương và bắt buộc
thi hành với đối tượng quản lý nhằm giải quyết các công việc thuộc thẩm
quyền để xác lập, duy trì, bảo vệ các trật tự cơng. Do những hạn chế, sai sót
của việc thực thi quyền hành pháp và tính chất "quyền lực - phục tùng" có
tính bất bình đẳng trong quan hệ quản lý hành chính, trong nhiều trường hợp
việc thực thi quyền hành pháp có thể chứa đựng khả năng xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý đồng thời làm mất ổn định

trật tự quản lý và chính trị xã hội. Do đó có thể dẫn đến sự phản kháng có ý
thức của cá nhân, tổ chức làm phát sinh tranh chấp hành chính giữa chủ thể
quản lý và đối tượng quản lý. Có thể thấy, tranh chấp hành chính là hiện
tượng khách quan, phát sinh từ những hạn chế, bất cập trong tổ chức thực thi
quyền hành pháp cần phải được giải quyết thấu đáo đảm bảo sự cân bằng giữa
lợi ích của nhà nước và lợi ích của nhân dân; giữa quyền lực nhà nước và
quyền tự chủ của nhân dân trong quản lý hành chính nhà nước, đảm bảo cơng
bằng xã hội.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “tranh chấp” được hiểu là “đấu tranh giằng co
khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa các bên”

12


[11,tr.1024]. Sự xung đột về lợi ích giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước được xác định là tranh chấp hành
chính - “tranh chấp phát sinh trong các lĩnh lực khác nhau của hoạt động
hành chính nhà nước” [7,tr.124,125]. Tranh chấp hành chính hiểu theo nghĩa
rộng có nhiều loại, bao gồm cả tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước với
nhau, như tranh chấp về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, tranh chấp
về quyết định, hành vi chỉ đạo điều hành giữa các cơ quan nhà nước trong bộ
máy nhà nước (quyết định phân cấp, quyết định ủy quyền của cơ quan nhà
nước cấp trên cho cơ quan nhà nước cấp dưới, quyết định phân công của cấp
trưởng cho cấp phó). Các tranh chấp này được xem là tranh chấp hành chính
nội bộ của hệ thống quản lý hành chính nhà nước và giải quyết theo thủ tục
hành chính. Bên cạnh đó, tranh chấp hành chính chủ yếu là tranh chấp giữa
chủ thể quản lý hành chính nhà nước với đối tượng quản lý hành chính nhà
nước (giữa Nhà nước với cá nhân, tổ chức) phát sinh khi chủ thể quản lý hành
chính nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước (quyền hành pháp) để ban hành
các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính mệnh lệnh đơn

phương bắt buộc thi hành ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối
tượng quản lý. Khi các cá nhân, tổ chức (đối tượng quản lý hành chính nhà
nước) phản đối quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành
chính nhà nước thì phát sinh tranh chấp. Trong phạm vi luận văn đề cập đến
tranh chấp hành chính theo nghĩa là sự xung đột về mặt lợi ích giữa một bên
là Nhà nước mà đại diện là các chủ thể thực hiện quyền hành pháp đối với đối
tượng bị quản lý trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước khi giữa họ có
quan điểm đối lập nhau về tính hợp pháp, tính hợp lý của việc thực thi quyền
hành pháp và đối tượng quản lý thực hiện các hành vi phản kháng được pháp
luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Có thể khái qt rằng tranh chấp hành chính “là mâu thuẫn bất đồng giữa
chủ thể quản lý hành chính nhà nước với các đối tượng quản lý thuộc về

13


quyền, lợi ích, nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật”. Khi những
xung đột, tranh chấp này bị đẩy lên cao, khi các quyết định hay hoạt động của
cơ quan nhà nước xâm phạm đến quyền và lợi ích của cơng dân thì họ có
quyền phản kháng. Hiện nay đa số các quốc gia trong đó có Việt Nam tồn tại
hai phương thức giải quyết tranh chấp hành chính cơ bản sai:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp hành chính bằng con đường hành chính,
tức là giao trách nhiệm và thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định hành
chính, hành vi hành chính cho chính các cơ quan hành chính nhà nước. Việc
giải quyết tại cơ quan hành chính có thể được thực hiện một lần hoặc nhiều
lần và việc giải quyết đó khá linh hoạt, đúng với tính chất của hoạt động quản
lý với mục đích cao nhất là giải quyết ổn thỏa những bất đồng về mặt lợi ích
giữa người dân và cơ quan nhà nước.
Thứ hai, giải quyết các tranh chấp hành chính bằng con đường tố tụng,
tức là việc giải quyết các khiếu quyết định hành chính, hành vi hành chính có

thể do cơ quan tài phán đảm nhiệm khi người dân có thể khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết. Việc tổ chức cơ quan tài phán như thế nào, phạm vi thẩm
quyền cũng như quyền hạn cụ thể trong quá trình xét xử ra sao do những yếu
tố lịch sử - chính trị cũng như truyền thống pháp lý và quan niệm riêng của
mỗi nước quyết định.
Theo hình thức thứ hai thì việc khiếu kiện của công dân được đưa ra xét
xử trước Tịa án có thẩm quyền thơng qua một trình tự tố tụng và phát sinh vụ
án hành chính. Hay nói cách khác vụ án hành chính phát sinh khi có khiếu
kiện hành chính của cá nhân, tổ chức tại Tịa án nhân dân. Khiếu kiện hành
chính là việc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật khởi kiện vụ án
hành chính tại Tịa án nhân dân đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính khi cho rằng quyết định đó hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình để đề nghị Tịa án phán quyết về tính hợp
pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính đó. Theo từ điển Tiếng

14


Việt thì “vụ” là việc, sự việc khơng hay, rắc rối cần phải giải quyết; còn “án”
là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án. “Vụ án” là công việc
phát sinh trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi thuộc nhiệm vụ xét xử của Tòa
án. Còn theo từ điển Luật học thì vụ án là “Một vụ việc có dấu hiệu trái pháp
luật mang tính chất hình sự hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật được
đưa ra Tòa án hoặc cơ quan trọng tài giải quyết…”.
Như vậy có thể hiểu khái quát chung về vụ án hành chính là vụ việc phát
sinh trên cơ sở tranh chấp trong các lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước. Thực
tiễn hiện nay khái niệm vụ án hành chính chưa được qui định cụ thể trong một
văn bản quy phạm pháp luật nào. Tuy nhiên khi đề cập đến khái niệm này ta có
thể hiểu như sau: “Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành chính được Tịa
án có thẩm quyền thụ lý theo u cầu khởi kiện của cá nhân, tổ chức đối với

quyết định hành chính, hành vi hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình”. Như vậy vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có u cầu khởi kiện của
cá nhân, tổ chức đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đây là căn
cứ đầu tiên để Tòa án xem xét thụ lý đơn khởi kiện.

1.1.2. Khái niệm xét xử vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân
Ở Việt Nam, trước khi Tịa hành chính được thành lập thì vấn đề giải
quyết khiếu nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan công quyền cũng đã được quan tâm ở mức độ nhất định. Tuy nhiên do
chịu ảnh hưởng của các nước XHCN trước đây nên trong thời kỳ này các
tranh chấp hành chính chủ yếu được giải quyết theo thủ tục giải quyết khiếu
nại hành chính mà ít được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Tòa án. Quy định
trong các văn bản luật cũng chỉ thừa nhận các khiếu nại hành chính mà khơng
thừa nhận khiếu kiện hành chính phát sinh giữa cơng dân, cơ quan, tổ chức
với các cơ quan công quyền. Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX,
nhu cầu của thực tiễn đòi hỏi phải thiết lập hệ thống cơ quan tài phán hành
chính độc lập để giải quyết các tranh chấp hành chính bằng con đường tư

15


pháp. Đáp ứng nhu cầu đó, các chuyên gia pháp lý đã tập trung nghiên cứu và
tiến hành khảo sát thực tế các mơ hình tài phán hành chính cũng như kinh
nghiệm thực tiễn giải quyết khiếu kiện hành chính trên thế giới để đưa ra mơ
hình phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII ngày 23/01/1995 đã quyết
định về việc thành lập Tồ hành chính trong hệ thống Tồ án nhân dân. Ngày
28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khố IX,
kỳ họp thứ 8 đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức
Tịa án nhân dân, trong đó giao cho Tịa án nhân dân chức năng xét xử các vụ

án hành chính. Khái niệm “vụ án hành chính” và “xét xử vụ án hành chính”
trở nên phổ biến trong học thuật từ đó đến nay.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “Giải quyết” có nghĩa là “làm cho khơng cịn
thành vấn đề nữa”. Dựa vào khái niệm “vụ án hành chính” đã đề cập ở trên thì
có thể hiểu một cách khái quát nội dung của “giải quyết vụ án hành chính” là
việc các cơ quan, người tiến hành tố tụng hành chính trên cơ sở thực thi quyền
tư pháp, theo thủ tục tố tụng hành chính xem xét và phán quyết về tính hợp
pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính có liên quan, ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà
nước. Cịn xét về mặt hình thức thì giải quyết vụ án hành chính được thể hiện
thơng qua các giai đoạn của Tố tụng hành chính bao gồm: Khởi kiện vụ án
hành chính, thụ lý vụ án hành chính và xét xử vụ án hành chính. Xét về mặt
thuật ngữ, khi nói đến giải quyết vụ án hành chính là nói đến một chức năng
cụ thể của Tịa án nhân dân. Việc trao cho Tòa án chức năng xét xử các vụ án
hành chính tạo ra cơ chế riêng độc lập, khách quan, công khai, dân chủ, công
bằng hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức
trước khả năng bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước. Do vậy,
việc giải quyết vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân vừa có những đặc điểm

16


chung về giải quyết các loại án, vừa có nét đặc thù riêng. Trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình Tịa án nhân dân được nhân danh quyền lực
Nhà nước để tiến hành xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp
của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện theo trình tự, thủ
tục tố tụng do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan Nhà nước và tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước.

Trong thực tế, thuật ngữ “Giải quyết vụ án hành chính” thường được
hiểu theo những cách sau:
Thứ nhất, “Giải quyết vụ án hành chính” chỉ là hoạt động xét xử các
tranh chấp hành chính phát sinh giữa các cơ quan hành chính Nhà nước với
các tổ chức, cơng dân trong xã hội do Tịa án nhân dân thực hiện theo trình tự
tố tụng. Theo cách hiểu này thì giải quyết vụ án hành chính đồng nghĩa với
xét xử hành chính.
Thứ hai, “Giải quyết vụ án hành chính” là tồn bộ các hoạt động phán
xét tính đúng đắn của các quyết định hành chính hoặc hành vi quản lý khi nảy
sinh khiếu kiện, tranh chấp, bao gồm giải quyết “khiếu” (khiếu nại) và giải
quyết “kiện” (khởi kiện). Như vậy giải quyết vụ án hành chính sẽ bao gồm xét
xử hành chính và các cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính khác, đặc biệt là
việc giải quyết của chính cơ quan hành chính Nhà nước (như cơ chế giải
quyết khiếu nại hiện nay).
Thứ ba, “Giải quyết vụ án hành chính” là việc giải quyết các khiếu nại
hành chính được thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách thuộc hệ thống hành
pháp theo trình tự, thủ tục có tính chất tư pháp, phù hợp với đặc điểm và yêu
cầu của việc giải quyết các tranh chấp hành chính (hành chính tài phán).
Thực tế hiện nay, việc giải quyết tranh chấp này phải theo trình tự thủ tục
giải quyết khiếu nại hành chính hoặc giải quyết tại Tịa án theo thủ tục tố tụng
hành chính. Nếu các tranh chấp hành chính được giải quyết tại Tịa án thì

17


phát sinh vụ án hành chính, việc giải quyết vụ án hành chính sẽ tiến hành theo
trình tự thủ tục tố tụng do pháp luật quy định. Việc trao cho Tịa án chức năng
xét xử các vụ án hành chính tạo ra cơ chế riêng, độc lập, khách quan, công
khai, dân chủ, công bằng hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, cơ quan, tổ chức trước khả năng bị xâm hại bởi quyết định hành chính,

hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan
nhà nước. Theo tinh thần Điều 102 Hiến pháp năm 2013, thì xét xử là hoạt
động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Tòa án là cơ quan
duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do các
tịa án tun đều phải thơng qua hoạt động xét xử hợp pháp. Như vậy có thể
hiểu theo nghĩa hẹp xét xử vụ án hành chính là việc Tịa án đưa vụ án hành
chính thuộc thẩm quyền ra xét xử cơng khai tại phiên tịa khi có đủ căn cứ do
pháp luật quy định; hiểu theo nghĩa rộng thì xét xử vụ án hành chính bao gồm
các hoạt động như: thụ lý vụ án hành chính, nghiên cứu hồ sơ, thu thập chứng
cứ, chuẩn bị xét xử và mở phiên tịa xét xử vụ án hành chính. Hoạt động xét
xử vụ án hành chính phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định, so
với việc xét xử các vụ án khác thì xét xử các vụ án hành chính có những đặc
thù như: về chủ thể trong vụ án hành chính, về đối tượng xét xử…
Từ khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, người dân có nhiều điều
kiện thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính, quy trình khởi kiện cũng
tiến bộ hơn nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, cho đến nay án hành chính vẫn cịn khá mới mẻ ở Việt Nam cả về
phương diện lý luận và thực tiễn xét xử so với án hình sự, dân sự, hơn nhân
gia đình vốn đã có từ lâu trong lịch sử tư pháp Việt Nam. Việc giải quyết vụ
án hành chính có những đặc thù nhất định xuất phát từ chủ thể và đối tượng
của tranh chấp hành chính so với việc giải quyết các vụ án dân sự, hình sự,
hơn nhân gia đình hay kinh doanh thương mại.
1.1.3. Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính tại tồ án

18


Theo Từ điển tiếng Việt “Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và
định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [11, tr.922]. Theo Từ điển Luật học thì
Thẩm quyền được hiểu là: “Quyền chính thức được xem xét để kết luận và

định đoạt, quyết định một vấn đề” [28, tr.701]. Cũng theo từ điển Luật học,
“thẩm quyền xét xử” nói chung được hiểu là “khả năng của một tòa án xem
xét một vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép” [28,tr.704]. Theo các khái
niệm này, thẩm quyền gắn liền với quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định
cho cơ quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ lãnh đạo, quản lý trong
các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ.
Mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng và thẩm quyền được phân định theo
lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính. Thực hiện chức năng này,
Tịa án có thẩm quyền xét xử. Trước hết, xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá
bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ
pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết phù hợp
với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc.... Điều 102 Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:

“1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do
luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”
Như vậy, thẩm quyền xét xử là thẩm quyền chuyên biệt của Tịa án mà
khơng thuộc bất kỳ một cơ quan Nhà nước nào khác. Đó là quyền của Tịa án
được xem xét, đánh giá, đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của một
vụ việc, nhưng quan trọng nhất chính là được nhân danh Nhà nước đưa ra một
phán quyết để giải quyết vụ việc về mặt pháp lý.

19



Theo Từ điển Luật học “Thẩm quyền xét xử của Tòa án là quyền xem xét
và định đoạt trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp luật”
[28, tr.701]. Để làm rõ khái niệm này, Từ điển Luật học đưa ra hai cách hiểu
cụ thể: Thứ nhất, “thẩm quyền xét xử của Tòa án” được hiểu là một quyền
chuyên biệt được trao riêng cho Tòa án, khác với thẩm quyền của các cơ quan
khác. Thẩm quyền xét xử là quyền chung của các Tịa án khơng phân biệt
phân cấp, phân vùng lãnh thổ. Theo cách hiểu này, thẩm quyền xét xử được
khẳng định là thẩm quyền chun biệt của Tịa án, mà khơng một cơ quan
Nhà nước nào khác có thẩm quyền này. Thứ hai, “thẩm quyền xét xử của Tòa
án” còn được hiểu là thẩm quyền riêng của từng Tòa án cụ thể được phân định
theo cấp, theo lãnh thổ và theo vụ việc. Theo đó, phân định theo cấp xét xử
có: thẩm quyền xét xử sơ thẩm và thẩm quyền xét xử phúc thẩm; phân định
theo vụ việc có thẩm quyền của Tịa án xét xử vụ án, vụ việc dân sự, hình sự,
hành chính, hơn nhân gia đình...; phân định theo lãnh thổ có vụ án, vụ việc
thuộc thẩm quyền xét xử của từng Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo địa giới
hành chính [11, tr.701-702]. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, khái niệm
thẩm quyền xét xử của Tịa hành chính theo cách hiểu thứ hai. Nghĩa là ở đây,
khái niệm “thẩm quyền xét xử” được phân tích dựa trên các quy định của
pháp luật nhằm làm rõ thẩm quyền xét xử của Tịa hành chính theo loại việc
(những loại việc thuộc phạm vi xét xử của Tịa án), theo cấp (có thẩm quyền
xét xử theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm), theo lãnh thổ (phân biệt thẩm
quyền của các Tịa hành chính trong phạm vi địa giới hành chính). Cụ thể:
thẩm quyền xét xử của Tòa án là quyền của Tòa án được xác định trên cơ sở
phân định vụ việc, cấp xét xử, trong phạm vi địa giới hành chính nhất định,
nhằm thực hiện việc xem xét, đánh giá, đưa ra kết luận và định đoạt các vấn
đề pháp lý của vụ việc thông qua hoạt động xét xử.
Trên cơ sở khái niệm vụ án hành chính và thẩm quyền xét xử của Tịa

20



án, một cách khái quát Thẩm quyền xét xử hành chính có thể hiểu “là quyền
hạn, trách nhiệm, được nhân danh quyền lực nhà nước trong phạm vi chức
năng của mình, tịa án tiến hành việc xem xét, đánh giá và ra phán quyết về
tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện
theo trình tự, thủ tục (tố tụng) do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức; góp phần nâng cao hiệu lực hành pháp”
[1,tr.37].
Như vậy, từ các khái niệm trên, rút ra được khái niệm: Thẩm quyền xét
xử vụ án hành chính là quyền hạn, trách nhiệm của Tòa án trong việc xem xét,
đánh giá, đưa ra phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành
vi hành chính bị khởi kiện theo trình tự tố tụng hành chính nhằm giải quyết
các tranh chấp hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, tăng cường trách nhiệm của nền hành chính quốc gia.
1.2. Đặc điểm của thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
Vụ án hành chính chỉ có thể phát sinh khi có tranh chấp giữa chủ thể và
đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Nhà nước trao quyền cho đối tượng
quản lý hành chính được khởi kiện vụ án hành chính khi có sự xâm hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Căn cứ vào khái niệm của vụ án hành
chính và xét xử vụ án hành chính có thể đưa ra một số đặc điểm cụ thể như sau:

Thứ nhất, xác định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính là hoạt động tố
tụng được xác lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản
lý hành chính nhà nước theo yêu cầu khởi kiện của một bên trong tranh chấp
là cá nhân, tổ chức - đối tượng bị quản lý hành chính nhà nước.
Điều 5 Luật Tố tụng hành chính quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức
có quyền khởi kiện vụ án hành chính để u cầu Tịa án bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình theo quy định của Luật này”. Với quy định trên như trên,
vụ án hành chính chỉ có thể phát sinh khi có tranh chấp giữa chủ thể và đối

tượng quản lý hành chính nhà nước. Nhà nước trao quyền cho đối tượng quản

21


lý hành chính được khởi kiện vụ án hành chính khi có sự xâm hại đến quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên nhân của sự xâm hại này là xuất phát
từ việc các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền trong các cơ
quan này ban hành các quyết định hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành
chính khơng tn thủ theo quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đó. Nội dung và mức độ
gay gắt của việc khởi kiện này phụ thuộc vào nội dung và mức độ xâm hại các
quyền, lợi ích từ phía các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Vụ án hành
chính xuất phát từ việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp những đối tượng
chịu sự tác động trực tiếp của quyết định hành chính, hành vi hành chính hay
quyết định kỷ luật buộc thơi việc.
Mặt khác, vụ án hành chính phát sinh khi được Tịa án thụ lý. Đây chính
là điều kiện đủ của việc phát sinh vụ án hành chính tại Tịa án. Việc thụ lý vụ
án hành chính sẽ làm phát sinh trách nhiệm và quyền hạn của Tòa án trong
việc giải quyết vụ án hành chính. Bởi lẽ, mỗi cấp Tòa án được giao nhiệm vụ
giải quyết những tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình theo quy định pháp
luật, nhằm tránh tình trạng tranh chấp thẩm quyền giữa các cấp Tịa án gây
cản trở cho q trình xét xử. Tịa án chỉ có nhiệm vụ giải quyết vụ án hành
chính theo yêu cầu khởi kiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự, nếu vụ án đó đã được thụ lý. Việc thụ lý vụ án hành chính khơng chỉ chính
thức làm phát sinh trách nhiệm của tòa án trong việc giải quyết vụ án hành
chính mà cịn giúp cho tịa án có những nhận định ban đầu cần thiết về tình
trạng tranh chấp hành chính, phương hướng giải quyết vụ việc và hạn chế tình
trạng tranh chấp về thẩm quyền có thể xảy ra. Việc thụ lý vụ án còn làm phát
sinh những quyền hạn cụ thể của tòa án trong xét xử hành chính. Khi đơn kiện

đã được tồ án có thẩm quyền thụ lý thì vụ án hành chính đã phát sinh và vụ
án đó phải được giải quyết bằng bản án hay quyết định của tòa án.
Thứ hai, xét xử vụ án hành chính được tiến hành theo thủ tục tố tụng

22


riêng - thủ tục tố tụng hành chính chặt chẽ, mang tính đặc thù do pháp luật tố
tụng hành chính quy định
Từ những đặc trưng của xét xử vụ án hành chính, Việt Nam và nhiều
quốc gia khác đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt để quy
định về thủ tục tố tụng hành chính, trong đó có các quy định về căn cứ xác
định cũng như phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, như: Luật
Tố tụng hành chính năm 2015 của Việt Nam, Luật Kiện tụng hành chính năm
1962 của Nhật Bản, Luật Tranh tụng hành chính năm 1989 của Cộng hịa
nhân dân Trung Hoa, Luật Tố tụng hành chính bên cạnh Luật về Tịa án hành
chính năm 1960 của Cộng hịa Liên Bang Đức... Theo đó, pháp luật hầu hết
các nước quy định các nguyên tắc trong các hoạt động tố tụng hành chính như
xác định thẩm quyền xét xử để đương sự nộp đơn khởi kiện, thụ lý vụ án, điều
tra, xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành phiên tịa; các bên được tranh tụng
bình đẳng, cơng khai trước Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử thực hiện việc
xét xử thông qua việc điều khiển, lắng nghe các bên phát biểu, tranh luận,
thông qua việc hỏi và kiểm tra, xác minh các tài liệu, chứng cứ một cách toàn
diện và khách quan nhằm làm rõ bản chất của vụ án hành chính. Xác định
đúng Tịa án có thẩm quyền quyết định trực tiếp đến việc giải quyết các tranh
chấp hành chính, đến quyền và lợi ích của các bên đương sự.
Thứ ba, đối tượng trực tiếp của xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là quyết
định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan cơng quyền có nguy cơ
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được tòa án có
thẩm quyền xét xử thụ lý theo yêu cầu khởi kiện. Tòa án sơ thẩm tiến hành

xác minh, thu thập chứng cứ, áp dụng pháp luật nhằm đưa ra kết luận về tính
có căn cứ của u cầu khởi kiện, tính hợp pháp của quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khởi kiện. Mặc dù, đối tượng của vụ án hành chính theo
Luật Tố tụng hành chính chỉ là các quyết định hành chính và hành vi hành
chính, nhưng nội dung các quyết định, hành vi này có phạm vi rất rộng, đa

23


dạng, thuộc nhiều lĩnh vực, ngành nghề chuyên môn, chuyên sâu khác nhau
của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước đang diễn ra hàng ngày, hàng
giờ, như lĩnh vực đất đai, quản lý thị trường, lĩnh vực thuế, hải quan, cấp phép
đầu tư, thành lập Doanh nghiệp... Đa số các vụ án hành chính đều phức tạp, có
tính nhạy cảm, liên quan phần lớn đến các quyền lợi ích thiết thực của cơng
dân, cơ quan, tổ chức. Trong đó, lĩnh vực bị khiếu kiện hành chính nhiều nhất
hiện nay là lĩnh vực đất đai, trong quá trình Nhà nước thực hiện chính sách
giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các lĩnh vực khác tỷ lệ khiếu kiện khơng
nhiều... trong khi đó lĩnh vực này có quá nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh
qua từng thời kỳ, các văn bản liên tục được sửa đổi, bổ sung, chồng chéo, rất
khó cho cơ quan chuyên mơn nắm bắt, vận dụng cho chính xác. Hầu hết các
vụ án hành chính đều đã được đương sự khiếu nại lần 1, lần 2, thậm chí khiếu
nại nhiều lần trong thời gian dài, khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên,
song đương sự vẫn khơng thỏa mãn, bức xúc hoặc cho rằng việc giải quyết
của cơ quan hành chính có quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính
hoặc của cơ quan hành chính cấp trên là khơng khách quan, bao che, nên
đương sự khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết.
Thứ tư, xét xử vụ án hành chính là thủ tục tố tụng đặc thù, khơng thực
hiện thủ tục “hòa giải”, “thỏa thuận” giữa các bên về việc giải quyết tranh
chấp hành chính. Đây là sự khác biệt rõ với việc giải quyết các loại tranh chấp

khác như tranh chấp dân sự, lao động, thương mại coi trọng sự thỏa thuận các
bên. Sở dĩ như vậy vì quan hệ giữa các bên trong tranh chấp hành chính vốn
mang tính bất bình đẳng, nội dung các tranh chấp này là quyền và lợi ích các
bên, khơng gắn với việc sử dụng quyền lực nhà nước. Còn với tranh chấp
hành chính khơng chỉ là sự bất đồng, mâu thuẫn giữa quyền và lợi ích các bên
mà cịn liên quan đến sự ổn định trật tự hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức, cộng đồng xã hội,

24


nên nhà nước không cho phép các bên tự thỏa thuận với nhau để chấm dứt
tranh chấp mà chỉ có thể tòa án tổ chức đối thoại để các bên hiểu rõ hơn về
các quan điểm, căn cứ để việc giải quyết được thuận lợi, nhanh chóng, hiệu
quả. Vì vậy, khi giải quyết vụ án hành chính cũng khơng thể có "Quyết định
cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự" như trong tố tụng dân sự; do tính
chất phức tạp của loại án hành chính, nên sự tham gia tố tụng của Viện kiểm
sát để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết án hành chính là
bắt buộc đối với tất cả vụ án hành chính ngay từ khi thụ lý đến khi kết thúc
việc giải quyết án (Điều 23 Luật Tố tụng hành chính).
Thứ năm, mục đích của giải quyết vụ án hành chính là nhằm duy trì, bảo
vệ trật tự quản lý hành chính, hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Do đó, căn cứ
pháp lý để xét xử vụ án hành chính bên cạnh tuân thủ pháp luật tố tụng hành
chính, cịn phải căn cứ vào rất nhiều văn bản pháp luật nội dung về các lĩnh
vực cụ thể trong quản lý hành chính nhà nước, chủ yếu là luật công. Do vậy,
đội ngũ tiến hành xét xử vụ án hành chính địi hỏi phải có tiêu chuẩn về
chuyên môn và năng lực đặc thù hơn thẩm phán tòa án tư pháp, bên cạnh kỹ
năng nghiệp vụ xét xử các vụ án hành chính phải là những người có kiến thức,
am hiểu chuyên sâu về quản lý hành chính nhà nước, góp phần vào việc xử lý

triệt để và dứt điểm vụ án hành chính. Qua đó, giảm thiểu tối đa tình trạng
giải quyết kéo dài vụ án, duy trì cơng lý, phục hồi lại cơng bằng trong xã hội,
trấn an dư luận và bảo đảm quyền lợi của công dân.
Thứ sáu, thẩm quyền xét xử vụ án hành chính là tiền đề quan trọng cho
kết quả của giải quyết vụ án hành chính là những bản án, quyết định tố tụng
cơng minh, có căn cứ. Hoạt động xét xử vụ án hành chính của Tịa hành chính
được thể hiện thơng qua việc tịa án căn cứ vào thực tế vụ án và dựa vào cơ sở
pháp lý là các văn bản pháp luật để đưa ra phán quyết bằng bản án về tính hợp
pháp các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Như vậy, kết quả xét xử

25


×