Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.97 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ LÍ

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ LÍ

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HOÀNG THỊ QUỲNH CHI

HÀ NỘI - 2021




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) có hiệu lực thi hành ngày
01/7/2016, quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, trong đó có
nội dung thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật gồm có 3
chương 35 Điều (từ Điều 325 đến 359) trên cơ sở kế thừa các quy định của
BLTTDS năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011), đánh dấu mốc quan trọng
trong quá trình phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. BLTTDS khơng
chỉ quy định chặt chẽ hơn về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự với mục
tiêu đảm bảo việc giải quyết các vụ việc này một cách nhanh chóng, chính xác, cơng
minh và đúng luật mà còn quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về thủ tục giám đốc thẩm
với mục đích xem xét lại các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, sau
một thời gian thực hiện các quy định của BLTTDS 2015 cho thấy đã phát sinh
những bất cập nhất định. Các bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật
bị đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm tăng ngày càng nhanh về số lượng
và mức độ phức tạp ở tồn ngành Tịa án nói chung và ở Tịa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh (TANDCC tại TPHCM) nói riêng. Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là một cấp Tịa án mới được thành lập theo Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014. Việc nội dung đề nghị xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm dân sự của đương sự, của cá nhân, cơ quan, tổ chức được chấp nhận
cũng có nghĩa là số lượng bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị nhiều
hơn. Các vụ việc dân sự được xem xét lại một cách khách quan hơn nhằm đảm bảo
quyền lợi cho đương sự nhưng cũng có những vụ việc bị xử đi, xử lại nhiều lần dẫn
đến tốn kém về cả thời gian, công sức và tiền bạc của cả Nhà nước và cơng dân.
Tình trạng này còn làm cho người dân mất lòng tin vào ngành Tịa án nhân dân
(TAND) nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung. Vì vậy, vẫn cần phải
tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của kháng nghị giám

đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam để từ đó có những đề xuất

1


thiết thực, cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về giám đốc thẩm và
nâng cao hiệu quả cơng tác giám đốc thẩm của Tịa án.
Bên cạnh đó, thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “Về chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020” và đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005
nhằm “Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định
chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng
nghị đối với bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, khắc phục
tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”. Trên cơ sở đó, hồn thiện cơ sở pháp
lý để TAND thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm tính
đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân mà Đảng và Nhà nước ta đã và
đang hướng đến.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc thẩm theo
pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ. Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá đầy đủ
các quy định pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự; chỉ ra những khó khăn,
vướng mắc, và nguyên nhân của vấn đề này. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các
giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật, làm căn cứ cho các chủ thể có quyền
thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quyền của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua khảo sát, thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học có
liên quan đến đề tài này như sau:

- Đề tài Khoa học cấp bộ "Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao, những vướng mắc và kiến nghị" (2012),
do Nguyễn Huy Du (TAND tối cao) chủ nhiệm. Đề tài có đề cập khái quát đến vấn
đề kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự nhưng đề tài được thực
hiện vào năm 2012, giới hạn trong phạm vi ở TAND tối cao. Trong khi hiện nay
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực pháp luật đã làm thay đổi cơ
bản thẩm

2


quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TAND. BLTTDS 2015
đã có những sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền, căn cứ kháng nghị.
- Sách Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự (2012), Nhà xuất bản Lao
động - Xã hội, chủ biên Trần Anh Tuấn bàn về Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân
sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao (HĐTP TANDTC). Trong sách này, tác giả đã đi sâu phân tích, so sánh các
quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của BLTTDS năm 2004
với các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011; đối
chiếu với thực tiễn, giải thích một cách khoa học và đưa ra một số vấn đề bất cập
cần tiếp tục hoàn thiện của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Sách Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
(2015), Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Chủ biên Nguyễn Thị
Hoài Phương. Nhóm tác giả sách này đã phân tích, bình luận các điều luật cụ thể để
làm nổi bật các quy định mới của BLTTDS 2015, trong đó có các điều luật về thủ
tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội về: Giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam (2014), do Hà Thị Thúy Hà thực hiện. Luận
văn đã đề cập chi tiết đến đặc điểm cơ bản, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm; sự
hình thành và phát triển của quy định về giám đốc thẩm dân sự, nêu ra những hạn

chế, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật trên phương diện lập pháp và thực
tiễn, đặc biệt nêu lên thực trạng công tác giám đốc thẩm của ngành Toà án, đồng
thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, đề tài
này thực hiện trước khi có BLTTDS 2015 và chưa đi sâu phân tích thực tiễn áp
dụng các quy định về nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
bàn về Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự (2016) của Lê Sỹ Nguyên là nghiên cứu
đề cập về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dân sự trên cơ sở phân tích quy
định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm như căn cứ kháng nghị, thẩm
quyền kháng nghị, đối tượng kháng nghị, các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
kháng nghị giám đốc thẩm. Luận văn chưa đề cập đến thực tiễn kháng nghị tại

3


TANDCC tại TP.HCM, chưa đưa ra được giải pháp để giải quyết các khó khăn,
vướng mắc khi áp dụng các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm tại Tòa án này.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,
về Quyền yêu cầu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự (2017)
của Nguyễn Thị Lụa. Trong luận văn đã đề cập khái quát về chủ thể có quyền yêu
cầu, việc thực hiện yêu cầu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự,
trên cơ sở phân tích các quy định có liên quan tại BLTTDS 2015 và đưa ra kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện hành chính Quốc Gia, về Đảm bảo
quyền đề nghị kháng nghị dân sự giám đốc thẩm từ thực tiễn TANDCC tại TPHCM
(2020) của Lê Thị Thùy. Luận văn chủ yếu đề cập đến các quy định của pháp luật
về đảm bảo quyền đề nghị kháng nghị của đương sự, thực trạng đảm bảo quyền này
tại TANDCC tại TPHCM và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật, giải pháp cho
TANDCC tại TPHCM trong việc đảm bảo quyền đề nghị kháng nghị của đương sự.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy các cơng trình nghiên cứu về chế định

giám đốc thẩm khá nhiều nhưng hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun
sâu về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dân sự, thực tiễn áp dụng tại
TANDCC tại TPHCM. Do vậy, tác giả nhận thấy cần nghiên cứu một cách toàn diện
từ lý luận đến thực tiễn để hoàn thiện các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự; đưa ra những định hướng nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và giải pháp
khắc phục những khó khăn trong việc kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.
Thứ hai, phân tích các căn cứ

phát sinh, người có thẩm quyền kháng nghị

giám đốc thẩm dân sự.
Thứ ba, đánh giá thực trạng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
tại TANDCC tại TP.HCM.
Thứ tư, phân tích thực tiễn áp dụng kháng nghị giám đốc thẩm dân sự tại
TANDCC tại TP.HCM.

4


Thứ năm, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đề xuất giải pháp
khắc phục khó khăn, vướng mắc trong công tác kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
tại TANDCC tại TP.HCM
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý
luận về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam. Như vậy, kháng
nghị giám đốc thẩm hình sự và kháng nghị giám đốc thẩm hành chính khơng thuộc
đối tượng mà luận văn nghiên cứu. Luận văn sẽ tập trung đánh giá đầy đủ các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về kháng nghị giám đốc thẩm

dân sự, những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của nó khi áp dụng vào thực
tiễn. Ngồi ra, luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định đó ở
TANDCC tại TPHCM để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm dân sự tại Tòa.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự trong việc kháng nghị giám đốc thẩm thuộc lĩnh vực dân sự;
thực tiễn áp dụng các quy định đó tại một cấp Tịa án là TANDCC tại TPHCM.
Trong đó, các đơn đề nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật được đưa vào nghiên cứu thuộc 23 tỉnh thành phía Nam thuộc thẩm quyền
theo lãnh thổ của TANDCC tại TPHCM. Cụ thể:
(1) Về đối tượng bị kháng nghị giám đốc thẩm: Gồm các bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật có đơn đề nghị kháng nghị.
(2) Về chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực
thi quy định về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự ở TANDCC tại TPHCM. Vì thế, chủ
thể kháng nghị sẽ là Chánh án TANDCC tại TPHCM (Không nghiên cứu trường hợp
Viện trưởng Viện kiểm sát nhận dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm).

(3) Về thời gian khảo sát: Các đơn, bản án, số liệu thống kê được sử dụng
trong luận văn tính từ ngày 01 tháng 6 năm 2015 đến ngày 30 tháng 9 năm 2020.
(4) Về quy định pháp luật: Nguồn tư liệu chủ yếu dùng trong nghiên cứu về
lý luận kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam là BLTTDS 2015
(từ Điều 325 đến Điều 359). Ngoài ra, việc nghiên cứu các quy định về kháng nghị
giám đốc thẩm dân sự trong các BLTTDS qua các thời kì cũng là cơ sở để tham
khảo, so sánh, làm rõ các quy định hiện hành.

5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn dựa trên quan điểm biện chứng của

chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích quy phạm pháp luật, phương pháp so sánh được sử
dụng trong Chương 1, chương 2 để phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm của kháng
nghị giám đốc thẩm, phân tích các tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc áp
dụng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm của TANDCC tại TPHCM.
Phương pháp nghiên cứu thống kê, tổng hợp và vụ việc điển hình được sử
dụng ở Chương 2, 3 để đánh giá, tổng hợp các số liệu thu thập được, trên cơ sở đó
đưa ra những nhận xét, đánh giá hoạt động thực tiễn và kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài, có những đóng góp mới cho khoa học luật Tố tụng
dân sự ở những điểm sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự;
- Đánh giá thực trạng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự và thực
tiễn áp dụng tại TANDCC tại TPHCM trong những năm gần đây;
- Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm.
- Nêu ra các giải pháp thiết thực nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
cho TANDCC tại TPHCM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu 3 chương:
Chương 1:Những vấn đề chung về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng
dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự và thực
tiễn áp dụng ở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

6



Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng kháng
nghị giám đốc thẩm dân sự ở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự

1.1.1. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
Khái niệm kháng nghị
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt
động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về
những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Bản án, quyết định của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật là kết quả của quá trình tố tụng, đánh dấu sự kết thúc của q
trình điều tra, truy tố và xét xử có ý nghĩa trên nhiều phương diện, do vậy phải được
thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Một vụ án
dân sự bắt đầu khi đương sự có đơn khởi kiện gửi đến Tòa án. Tòa án sẽ thụ lý, đưa
vụ án ra xét xử và ra bản án, quyết định. Bản án, quyết định ấy sẽ có hiệu lực pháp
luật ngay nếu đương sự khơng có kháng cáo, Viện kiểm sát khơng kháng nghị (xét
xử ở Tòa án cấp sơ thẩm). Còn nếu bản án, quyết định đó bị kháng cáo hoặc kháng
nghị thì tiếp tục được xem xét ở Tịa án cấp phúc thẩm. Bản án, Quyết định của Tòa
án cấp phúc thẩm hoặc Bản án, Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (trong trường
hợp khơng có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm) đã có hiệu lực pháp
luật nhưng được phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thì người có thẩm quyền kháng
nghị sẽ kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Theo Từ điển tiếng Việt, “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến phản đối bằng văn
bản chính thức". Cịn theo Từ điển mở Wiktionary thì “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến
chống lại điều đã quyết nghị”.
Như vậy, theo hai cách hiểu trên, kháng nghị là việc phản đối bằng văn bản
đối với một vấn đề đã được được định đoạt. Đối chiếu vào pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam thì đó là sự phản đối lại bản án, quyết định của Tòa án.
Theo Từ điển Luật học: “Kháng nghị là việc người có thẩm quyền, bằng
văn bản của mình gửi đến Tịa án có thẩm quyền làm ngừng hiệu lực phán quyết
của Tòa án trong bản án, quyết định để xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật”.

8


Khái niệm này chỉ ra rằng chủ thể của kháng nghị chỉ gồm những người
được pháp luật giao cho thẩm quyền kháng nghị mới được kháng nghị và hình thức
kháng nghị phải bằng văn bản. Mục đích của kháng nghị là để thể hiện sự phản đối
của chủ thể có thẩm quyền kháng nghị đối với phán quyết của Tòa án thông qua
việc ra bản án, quyết định mà chủ thể kháng nghị cho rằng chưa khách quan, toàn
diện và đúng pháp luật để Tịa án có thể xem xét lại bản án theo thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của đương sự và đảm
bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, xét về mặt thực tiễn, khái niệm này có điểm chưa thỏa đáng. Bởi
lẽ, kháng nghị là phân tích chỉ ra những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật nhưng nếu trong phần nội dung của quyết định kháng nghị
không quyết định về việc tạm hoãn thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật đó cho đến khi xét xử giám đốc thẩm thì về nguyên tắc bản án, quyết định đó
vẫn có thể bị thi hành án. Trong thực tế giải quyết vụ án, có trường hợp mặc dù đã
có quyết định kháng nghị nhưng khơng nêu việc tạm hoãn thi hành án dẫn đến việc
Cơ quan thi hành án vẫn tiếp tục thi hành bản án, quyết định đó.

Ngồi ra, pháp luật tố tụng dân sự đã quy định các hình thức để phản đối
những bản án, quyết định của Tòa án nếu chủ thể phản đối cho rằng việc xét xử của
Tịa án là khơng khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Đương sự, người đại diện
của đương sự, cơ quan tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại vụ
án theo thủ tục phúc thẩm, quyền kháng cáo thuộc về các bên đương sự. Khác với
kháng cáo, chủ thể kháng nghị chỉ thuộc về người, cơ quan tiến hành tố tụng được
Nhà nước giao cho thẩm quyền kháng nghị. Trong đó, đối với kháng nghị phúc
thẩm theo thủ tục phúc thẩm dân sự thì pháp luật tố tụng dân sự quy định chủ thể
thực hiện là Viện kiểm sát, đối với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
thì chủ thể kháng nghị là người đứng đầu của cơ quan Tòa án và Viện kiểm sát.
Khái niệm giám đốc thẩm dân sự
Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự được tiến hành
trên cơ sở kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền khi phát hiện bản án, quyết định

9


của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ
án. Thủ tục này do Tịa án có thẩm quyền thực hiện nhằm kiểm tra tính hợp pháp và
tính có căn cứ của những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam thì “Giám đốc thẩm là xử lại một bản
án của Tòa án cấp dưới". Khái niệm này chưa làm rõ được nội hàm của thủ tục
giám đốc thẩm. Bởi lẽ, trong trường hợp bản án của Tòa án cấp dưới (những bản án,
quyết định sơ thẩm) chưa có hiệu lực pháp luật nhưng có kháng cáo của các bên
đương sự, hoặc kháng nghị của người có thẩm quyền được đem ra xét xử thì đây là
thủ tục xét xử phúc thẩm chứ không được phải là thủ tục giám đốc thẩm.
Trong khoa học pháp lý, có nhiều quan điểm khác nhau về giám đốc thẩm:
Trong Bình luận khoa học tố tụng dân sự, tác giả Nguyễn Đức Mai cho rằng:
“Giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục đặc biệt có nhiệm

vụ xét lại nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự nhằm bảo đảm việc xử lý vụ án được chính xác”. Quan điểm
này khẳng định giám đốc thẩm khơng phải là một cấp xét xử vì vậy nó không phải tuân
thủ theo các quy định của pháp luật tố tụng như ở cấp xét xử sơ thẩm và xét xử phúc
thẩm… mà chỉ là thủ tục đặc biệt nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.

Trong lĩnh vực dân sự, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của trường
Đại học Luật ghi nhận: “Giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm
pháp luật trong việc giải quyết vụ án”. Quan điểm này nhấn mạnh đến mục đích của
giám đốc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Tác giả Hà Thị Thúy Hà cho rằng: “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự là
thủ tục tố tụng đặc biệt của tố tụng dân sự, theo đó Hội đồng giám đốc thẩm xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở kháng nghị của người có
thẩm quyền nhằm xác định những sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật". Quan điểm này khẳng
định giám đốc thẩm là một thủ tục tố tụng đặc biệt của tố tụng dân sự để xét lại bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

10


Như vậy, có thể thấy thủ tục giám đốc thẩm được chia làm hai giai đoạn cơ
bản là giai đoạn kháng nghị giám đốc thẩm và giai đoạn xét xử giám đốc thẩm. Giai
đoạn kháng nghị giám đốc bắt đầu khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật có vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án và kết thúc khi người có
thẩm quyền kháng nghị ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Giai đoạn

này phải tuân theo những quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, người có
thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Giai đoạn xét xử giám đốc thẩm bắt đầu khi
có kháng nghị giám đốc thẩm của người có thẩm quyền và kết thúc khi HĐXX ban
hành quyết định giám đốc thẩm. Giai đoạn này phải tuân theo những quy định về
thẩm quyền giám đốc thẩm, thủ tục phiên toà giám đốc thẩm, phạm vi giám đốc
thẩm và thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm…
Từ những cơ sở lý luận về kháng nghị và giám đốc thẩm nêu trên, khái
niệm kháng nghị giám đốc thẩm dân sự được đề xuất như sau: Kháng nghị giám
đốc thẩm dân sự là hoạt động tố tụng do người có thẩm quyền thực hiện, phản đối
bằng văn bản gửi cho Tịa án có thẩm quyền khi phát hiện bản án, quyết định dân
sự đã có hiệu lực pháp luật vi phạm pháp luật nghiêm trọng để Tòa án xem xét lại
bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật một cách khách quan, chính xác
và đúng pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
Để có cách nhìn nhận khách quan, đúng bản chất của kháng nghị giám đốc
thẩm dân sự thì phải làm rõ các đặc điểm của nó. Qua nghiên cứu, luận văn khái
quát bốn đặc điểm chủ yếu của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự như sau:
Thứ nhất, về mặt hình thức, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự phải được
thể hiện bằng văn bản phản đối là quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trước đây thì Tịa án thực hiện
chế độ hai cấp xét xử đó là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Còn BLTTDS hiện
hành lại quy định chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm. Việc xem xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được tiến hành theo một thủ tục đặc
biệt mà không được xem là cấp xét xử thứ ba. Cơ sở để Tòa án mở phiên tòa giám
đốc thẩm là khi có quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền.

11


Thứ hai, về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,

BLTTDS 2015 quy định rõ: “Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của TANDCC; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án khác
khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán
TANDTC; Chánh án TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC có quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp
tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ”. Như vậy, theo quy
định của pháp luật, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án
TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC là những chủ thể có thẩm quyền kháng nghị bản
án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Cũng theo quy định của BLTTDS
2015: “Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phân cơng
người có trách nhiệm tiến hành nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ sơ vụ án,
báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, quyết định”. Như vậy, người có
thẩm quyền kháng nghị sẽ phân cơng Thẩm phán, Kiểm sát viên xem xét đơn đề
nghị, Thông báo phát hiện vi phạm kháng nghị. Nếu nhận thấy bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật bị đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm không
đúng với bản chất vụ việc hoặc không đúng pháp luật, thi hành sẽ gây thiệt hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì người có thẩm quyền kháng nghị xem
xét ra quyết định kháng nghị, tạo tiền đề cho Tòa án mở phiên tòa giám đốc thẩm để
xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới. Trường hợp nhận thấy bản án, quyết
định bị đề nghị đã đúng quy định của pháp luật thì Thẩm phán, Kiểm sát viên sẽ ra
thông báo cho người có đơn đề nghị kháng nghị. Có thể thấy, Nhà nước giao cho cá
nhân (Chánh án Tòa án hoặc Viện triển Viện kiểm sát) thẩm quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm mà không giao cho cơ quan, tổ chức nhằm kiểm sốt chặt chẽ
cơng tác kháng nghị cũng như chất lượng kháng nghị.
Thứ ba, đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự là bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Những bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật cần phải được thi hành để đảm bảo được quyền lợi của đương sự và đảm
bảo cho việc thực thi công lý. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì bản án, quyết


12


định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng khơng đúng với bản chất sự việc hoặc
nếu có thi hành thì gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy, cần
phải có kháng nghị giám đốc thẩm để xem xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật. Đây cũng là điểm khác biệt căn bản so với kháng nghị phúc thẩm.
Bởi lẽ, đối tượng mà kháng nghị phúc thẩm hướng đến là bản án, quyết định chưa có
hiệu lực pháp luật và khơng có việc thi hành án đối với bản án, quyết định đó. Cịn với
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, khi người có thẩm quyền kháng
nghị phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án thì
cần thiết phải kháng nghị bản án, quyết định đó và đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm xét xử lại vụ án nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật sẽ được thi hành nếu người có thẩm quyền
kháng nghị khơng có u cầu hỗn thi hành án.
Thứ tư, căn cứ điều kiện để người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm là
trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng. Trường hợp nào cần kháng nghị hoặc khơng cần kháng nghị thì phải dựa
trên các căn cứ pháp lý rõ ràng. Trong trường hợp người có thẩm quyền kháng nghị cho
rằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là phù hợp với các tình tiết
khách quan của vụ án, thì người có thẩm quyền kháng nghị sẽ ban hành văn bản không
kháng nghị giám đốc thẩm (Thông báo về việc giải quyết Đơn đề nghị giám đốc thẩm,
kiến nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm). Trường hợp phát hiện bản án, quyết định
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án thì người có thẩm quyền sẽ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tạo tiền
đề cho Tòa án cấp trên mở phiên tòa giám đốc thẩm để xét lại bản án, quyết định của
Tòa án cấp dưới. Tuy nhiên, không phải tất cả các vi phạm pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án được phát hiện đều là căn cứ để xem xét lại bản án theo thủ tục giám
đốc thẩm. Theo quy định tại Điều 283 BLTTDS năm 2015, bản án, quyết định của Tồ

án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một những
căn cứ sau: Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách
quan

13


của vụ án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; Có sai lầm nghiêm trọng trong
việc áp dụng pháp luật. Có thể thấy, để đảm bảo sự ổn định của các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, chỉ trong trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng
ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án thì bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật mới bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Điều kiện kháng nghị giám đốc
thẩm là phải có đơn đề nghị của đương sự, trừ trường hợp Bản án, Quyết định của
Tịa án xâm phạm lợi ích nhà nước, lợi ích cơng cộng hoặc lợi ích của người khác
khơng phải là đương sự trong vụ án.
Như vậy, bốn đặc điểm nêu trên thể hiện được bản chất của kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, nhằm phân biệt nó với các đối tượng gần gũi khác như
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
1.1.3. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
Đối với thủ tục kháng nghị, người có thẩm quyền phải xem xét kỹ lưỡng các
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật để cân nhắc việc ra quyết định kháng nghị
hay không kháng nghị. Nếu việc ra quyết định kháng nghị sai lầm sẽ gây khó khăn
cho Tịa án, ảnh hưởng đến hoạt động của Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án và
hoạt động xét xử của Tòa án. Việc ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đúng
góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, lợi ích của Nhà nước,
tránh những hậu quả không khắc phục được. Trên cơ sở kháng nghị giám đốc thẩm,
Tịa án có thẩm quyền mở phiên tòa giám đốc thẩm để khắc phục những sai lầm
trong các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, kháng nghị
giám đốc thẩm dân sự có ý nghĩa về cả thực tiễn và pháp lý.
Ý nghĩa thực tiễn

Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự mang một ý nghĩa hết sức quan trọng và
cần thiết đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các bên khi tham gia
vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
hợp pháp của nhân dân được coi là yêu cầu trung tâm của nội dung Nhà nước pháp
quyền, thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Tòa án trong hoạt động của mình
đảm bảo việc xét xử đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm

14


trọng trong việc giải quyết vụ án; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá
trình xác minh, thu thập chứng cứ, xét xử;… Vì vậy, thơng qua kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm đối với những bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật sai lầm tạo cơ sở pháp lý để vụ án được phục hồi, xét xử lại hoặc là cơ sở cho
việc khắc phục những vi phạm quyền, lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Kháng
nghị giám đốc thẩm dân sự trở thành một cơ chế giúp Tòa án nhận biết được những
vi phạm pháp luật của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Từ đó, Tịa
án sẽ mở ra phiên tịa giám đốc thẩm để xem xét lại bản án, quyết định bị kháng
nghị, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, xây dựng uy tín của
các cơ quan tiến hành tố tụng, giữ gìn niềm tin trong nhân dân vào hệ thống luật
pháp của Nhà nước.
Ngoài ra, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm còn có ý nghĩa trong việc
hỗn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để tránh
những hậu quả không thể khắc phục được do thi hành bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật nhưng phát hiện sai lầm khi ra bản án, quyết định đó. Trong q trình
nghiên cứu hồ sơ vụ án thì người có thẩm quyền kháng nghị có quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án dân sự có thẩm quyền hỗn thi hành bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật để có thời gian xem xét hồ sơ vụ án.
Ý nghĩa pháp lý

Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự có vai trị quan trọng đối với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm công bằng xã hội. Việc kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm giúp cho Tòa án cấp trên nhận biết những sai lầm của Tòa án cấp
dưới trong việc giải quyết vụ án. Trên cơ sở đó Tịa án cấp trên sẽ xem xét lại bản
án, quyết định đã bị kháng nghị nhằm phát hiện và khắc phục hoặc yêu cầu khắc
phục những sai lầm, thiếu sót của Tịa án cấp dưới để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự. Mặt khác, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự cịn góp phần phát
hiện những lỗ hổng của văn bản pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng luật. Thơng
qua đó, Tịa án tổng kết và định hướng công tác xét xử, góp phần hồn thiện hệ
thống pháp luật, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể nhận biết và có những
hướng dẫn cụ thể đối với những trường hợp đã phát sinh trong thực tiễn xét xử và cả
những trường hợp mới phát sinh mà pháp luật chưa dự liệu được.

15


Bên cạnh đó, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự còn là phương tiện hướng
dẫn hoạt động xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Bởi lẽ, thơng qua
thủ tục giám đốc thẩm, Tịa án cấp trên tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác xét
xử của Tịa án, hướng dẫn chun mơn nghiệp vụ cho Tòa án cấp dưới để việc áp
dụng pháp luật thống nhất trong hệ thống Tòa án.
Như vậy, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự có ý nghĩa trong nhiều hoạt
động của ngành Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan hỗ trợ tư pháp, đồng thời có
tác động đến nhiều mặt của đời sống, xã hội. Việc kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
không những giúp cho hệ thống pháp luật được phối hợp chặt chẽ, chính xác, dần đi
tới hồn chỉnh mà cịn góp phần cân bằng các mối quan hệ xã hội ngày càng phát
triển đa chiều.
1.2. Mơ hình lý luận và giá trị pháp lý về kháng giám đốc thẩm dân sự qua

các thời kỳ ở Việt Nam

1.2.1. Từ năm 1945 đến năm 1989
Năm 1945, Cách mạng Tháng 8 thành công, nước ta giành được độc lập,
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Nhưng khi đó, hệ thống pháp luật áp dụng
cho tồn dân chưa được xây dựng. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã xây dựng và ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 về việc
“Vẫn giữ nguyên như cũ các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ cho đến khi
ban hành những bộ luật pháp duy nhất áp dụng cho toàn cõi nước Việt Nam”. Tuy
nhiên, để giải quyết khối lượng công việc phức tạp và cấp bách nảy sinh trong xã
hội, ngày 24/01/1946, Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số 13/Sl về việc Quy định
cách thức tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán, trong đó quy định về “Tòa
án thực hiện hai cấp xét xử”
Một bước tiến quan trọng trong lịch sử lập pháp của nước ta là ngày
09/11/1946, tại kì họp thứ 2, Quốc hội khóa I đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên,
tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng bộ máy Nhà nước và hệ thống pháp luật. Hiến
pháp năm 1946 xác định Cơ quan Tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa chỉ
có hệ thống các Tịa án. Đến ngày 22/5/1950, Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số
85/SL có quy định về thủ tục thủ tiêu án. Điều 17 của Sắc lệnh quy định: “Tòa

16


án chỉ thủ tiêu một phần hay toàn thể thủ tục nếu xét một hay nhiều hình thức ghi
trong luật tố tụng hình hoặc hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc đến quyền lợi của
đương sự”. Ngày 12/02/1958, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 321/VHH-CT yêu
cầu các Toà án phải nghiên cứu các đơn thư khiếu nại về các bản án đã xử chung
thẩm. Ngày 13/01/1959, Bộ Tư pháp đã phối hợp với TANDTC ra Thông tư số
02/TT quy định về thẩm quyền và thủ tục xét lại những vụ án hình sự đã có hiệu lực
pháp luật.
Như vậy, từ năm 1945 đến đầu năm 1959, pháp luật nước ta chưa có quy
định cụ thể về thủ tục giám đốc thẩm các vụ án dân sự. Vì thế, pháp luật cũng khơng

có quy định về thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.
Khái niệm về giám đốc việc xét xử được đề cập lần đầu tiên trong Hiến pháp
năm 1959. Tại Điều 103 Hiến pháp quy định: “TANDTC giám đốc việc xét xử của
các TAND địa phương, Tòa án quân sự và Tòa án đặc biệt”. Trên cơ sở những định
hướng mang tính nguyên tắc của Hiến pháp, Điều 10 Luật Tổ chức TAND năm
1960 quy định rõ hơn về việc xét lại các bản án và quyết định của Tịa án đã có hiệu
lực pháp luật: “Đối với những bản án và quyết định của TANDTC đã có hiệu lực
pháp luật, nếu phát hiện có sai lầm thì Chánh án TANDTC đưa ra Uỷ ban thẩm
phán TANDTC xét định.
Đối với những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tồ án
mình hoặc của tồ án cấp dưới, nếu phát hiện có sai lầm thì Tồ án nhân dân địa
phương có quyền nêu lên để TANDTC xét định”. Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa có
quy định cơ chế, hình thức để Chánh án TANDTC đưa ra Uỷ ban thẩm phán
TANDTC xét định những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện
có sai lầm.
Khái niệm kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để
xét lại bản án, quyết định đó do có sai lầm về pháp luật được đề cập lần đầu tiên tại
Luật Tổ chức VKSND năm 1960. Tại Điều 18, luật Tổ chức VKSND năm 1960 quy
định: “Khi VKSNDTC thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của TAND các cấp là sai lầm thì có quyền kháng nghị; Khi VKSND địa phương

17


thấy các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhân cấp
mình hoặc cấp dưới là sai lầm thì báo cáo VKSNDTC để kháng nghị”.
Ngày 23/3/1961, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về việc tổ
chức TANDTC và TAND địa phương. Tại khoản c Điều 6 của Pháp lệnh quy định
về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm: “Kháng nghị những bản án hoặc quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tồ án nhân dân các cấp, nhưng phát hiện có sai

lầm”. Ngày 23/7/1964, TANDTC ban hành Thông tư số 06 nhằm giải thích thêm về
thủ tục giám đốc thẩm, theo đó: “TANDTC sẽ xét xử theo trình tự giám đốc xét xử
khi có kháng nghị của Chánh án TANDTC hoặc Viện trưởng VKSNDTC”.
Như vậy, trong thời gian này, pháp luật đã có quy định về căn cứ và chủ thể
kháng nghị giám đốc thẩm. Căn cứ kháng nghị là các bản án được đưa ra xét xử lại
khi phát hiện có sai lầm, nhưng lại khơng quy định rõ bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật sai lầm về phương diện nào, về thủ tục tố tụng hay sai lầm về nội dung
để từ đó người có thẩm quyền quyết định kháng nghị. Chủ thể có thẩm quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì chỉ gồm Viện trưởng VKSNDTC và Chánh án
TANDTC.
Đến năm 1981, chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm được mở
rộng theo quy định của Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND cho phù hợp
với quy định của Hiến pháp năm 1980. Theo đó, ngồi Chánh án TANDTC cịn có
Phó Chánh án TANDTC và Chánh án TAND cấp tỉnh, ngồi VKSNDTC cịn có
VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Cụ thể, Luật tổ chức TAND
năm 1981, Điều 29 quy định: “Phó Chánh án TANDTC có quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các
TAND địa phương; tạm đình chỉ việc thi hành án, nếu xét thấy cần thiết”; Điều 35
quy định: “Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương
đương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm những bản án và quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của các TAND cấp dưới; tạm đình chỉ việc thi hành án,
nếu xét thấy cần thiết”. Còn theo quy định tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm
1981 thì khi thực hiện cơng tác kiểm sát xét xử, các VKSND có quyền: “Kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của TAND cấp dưới, khi thấy có vi phạm pháp luật; VKSNDTC có quyền kháng

18


nghị các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp theo thủ

tục giám đốc thẩm khi thấy có vi phạm pháp luật hoặc theo thủ tục tái thẩm khi thấy
có tình tiết mới”.
Tóm lại, pháp luật thời kỳ này có quy định mở rộng hơn về người có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm so với thời kỳ trước; về căn cứ kháng
nghị thì chưa có các quy định cụ thể, chưa quy định thời hạn yêu cầu kháng nghị,
hình thức của kháng nghị để căn cứ vào đó người có thẩm quyền kháng nghị thực
hiện đúng chức năng mà pháp luật giao cho mình.
1.2.2. Từ năm 1989 đến năm 2004
Ngày 29/11/1989, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1990.
Pháp lệnh này đánh dấu sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Đây là
lần đầu tiên trình tự, thủ tục tố tụng dân sự được quy định trong văn bản pháp lý
riêng có giá trị pháp lý cao, làm cơ sở cho việc giải quyết các vụ việc dân sự nói
chung và kháng nghị giám đốc thẩm án dân sự nói riêng.
Trong đó, Điều 71, Điều 72, Điều 73 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự quy định về thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm dân sự. Cụ thể, Điều 71
của Pháp lệnh quy định về căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:
“Các bản án, quyết định của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây: việc điều tra không đầy
đủ; Kết luận trong bản án, quyết định khơng phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; Có sai lầm nghiêm trọng
trong việc áp dụng pháp luật”.
Điều 72 của Pháp lệnh quy định về người có quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm: “Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị
bản án, quyết định của các Tồ án các cấp; Phó Chánh án TANDTC, Phó Viện
trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị bản án, quyết định của các Toà án cấp
dưới; Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng
nghị bản án, quyết định của các Toà án cấp dưới. Người đã kháng nghị bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết
định đó”.


19


Điều 73 quy định về thời hạn kháng nghị là ba năm kể từ ngày bản án quyết
định có hiệu lực pháp luật. Trong đó việc kháng nghị theo hướng khơng gây thiệt
hại cho bất cứ đương sự nào thì không bị hạn chế về thời gian.
Như vậy, dù chưa được xây dựng thành Bộ luật nhưng trong thời kỳ này,
pháp luật đã có quy định khá chi tiết về người có thẩm quyền kháng nghị, căn cứ và
thời hạn kháng nghị. Tuy nhiên, những quy định chi tiết về trình tự, thủ tục kháng
nghị giám đốc thẩm, từ khi đương sự nộp đơn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật cho đến khi người có thẩm quyền ra quyết định kháng
nghị giám đốc thẩm, phạm vi và nội dung của quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
chưa được quy định rõ.
1.2.3. Từ năm 2004 đến nay
BLTTDS được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004, có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2005. Đây là một bước ngoặc mới, một dấu mốc quan trọng
của pháp luật tố tụng dân sự nói chung cũng như các quy định về kháng nghị giám
đốc thẩm dân sự nói riêng. BLTTDS năm 2004 ra đời đã cơ bản khắc phục được các
hạn chế về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự trong các giai đoạn trước. Nguyên tắc
hai cấp xét xử lại được ghi nhận trong các văn bản pháp luật này; sửa đổi quyền hạn
của Toà giám đốc thẩm, luật khẳng định rằng đó chỉ là thủ tục đặc biệt (phá án) chứ
không phải là một cấp xét xử.
BLTTDS năm 2004 đã quy định cụ thể trong 22 Điều tại chương XVIII từ
Điều 282 đến Điều 303. Trong đó, quy định chi tiết về tính chất của thủ tục giám
đốc thẩm, nội dung đơn yêu cầu giám đốc thẩm, thủ tục nhận đơn yêu cầu, thời hạn
yêu cầu giám đốc thẩm, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm; thay đổi, bổ sung và
rút quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Trong đó đặc biệt quy định về chủ thể có
thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm là người đứng đầu cơ quan tố tụng tại Tòa
án và Viện kiểm sát; về việc hỗn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật… Với hàng loạt các quy định chi tiết trên làm cho thủ tục giám
đốc thẩm thực hiện chặt chẽ hơn, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của hoạt động giám đốc
thẩm dân sự.

20


Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thơng
qua Hiến pháp mới, trong đó “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng,
phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”; và khoản 3 Điều 102 quy định: “TAND là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có
nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân”. Tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định
của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Trên cơ sở cụ thể
hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 ra đời
quy định thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc về Chánh án
TANDTC và Chánh án TANDCC.
Trên cơ sở kế thừa các quy định của BLTTDS năm 2004, BLTTDS 2015 có
hiệu lực thi hành ngày 01/7/2016 bao gồm 3 chương 35 Điều (từ Điều 325 cho đến
Điều 359), quy định về thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, từng bước hoàn hoàn thiện các quy định của pháp luật về kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc trong công tác giải quyết
đơn đề nghị, kiến nghị kháng nghị, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho đương sự và
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

21



Kết luận chương 1
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và khái quát những vấn đề lý luận, luận văn
đã đề xuất khái niệm về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự. Theo đó, kháng nghị
giám đốc thẩm dân sự là hoạt động tố tụng do người có thẩm quyền thực hiện, phản
đối bằng văn bản gửi cho Tòa án có thẩm quyền khi phát hiện bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật vi phạm pháp luật nghiệm trọng để Tòa án xem xét
lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật một cách khách quan, chính
xác và đúng pháp luật. Từ đây, bốn đặc điểm của kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm dân sự được chỉ rõ trên các phương diện như hình thức, chủ thể, đối tượng và
căn cứ để phân biệt với kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm. Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự có ý nghĩa quan trọng về cả thực
tiễn và pháp lý; là cơ sở để đảm bảo cơng bằng xã hội và hồn thiện hệ thống pháp
luật. Việc khái quát quá trình phát triển của chế định kháng nghị giám đốc thẩm ở
Việt Nam từ năm 1945 đến nay cũng giúp cho việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng
luật được khách quan, toàn diện.
Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để đánh giá vai trò, tầm ảnh hưởng
của kháng nghị giám đốc thẩm trong thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật được áp dụng trong thực tiễn, góp phần định hướng việc xây
dựng, hồn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm trong thời gian tới.

22


×