Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

[123doc] - quan-ly-nha-nuoc-ve-hoat-dong-cua-luat-su-o-viet-nam-hien-nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ HỒNG DƢƠNG

QU¶N Lý NHà NƯớC Về HOạT ĐộNG CủA LUậT SƯ
ở VIệT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ HỒNG DƢƠNG

QU¶N Lý NHà NƯớC Về HOạT ĐộNG CủA LUậT SƯ
ở VIệT NAM HIƯN NAY
Chun ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TƠ VĂN HỊA

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Hồng Dƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ ..................................... 7
1.1.

Khái quát về luật sƣ, nghề luật sƣ .................................................... 7

1.1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của luật sư ............................................... 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của nghề luật sư ............................................... 15
1.2.


Khái niệm, đặc điểm và vai trò của QLNN về hoạt động của
luật sƣ ................................................................................................ 21

1.2.1. Khái niệm QLNN về hoạt động của luật sư ....................................... 21
1.2.2. Đặc điểm của QLNN về hoạt động của luật sư.................................. 22
1.2.3. Vai trò của QLNN về hoạt động của luật sư ...................................... 23
1.3.

Nội dung, hình thức và phƣơng pháp QLNN về hoạt động
của luật sƣ ......................................................................................... 24

1.3.1. Nội dung của QLNN về hoạt động của luật sư .................................. 24
1.3.2. Hình thức của QLNN về hoạt động của luật sư ................................. 28
1.3.3. Phương pháp QLNN về hoạt động của luật sư .................................. 29
1.4.

QLNN về hoạt động của luật sƣ và tự quản của luật sƣ............... 33

Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 36
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT
ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 37
2.1.

Thực trạng quy định pháp luật về QLNN về hoạt động của
luật sự ................................................................................................ 37


2.2.


Thực tiễn QLNN về hoạt động của luật sƣ ở Việt Nam hiện nay ..... 41

2.2.1. Quyết định chiến lược, chính sách phát triển nghề luật sư, ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư ............................... 41
2.2.2. Đào tạo nghề luật sư ........................................................................... 43
2.2.3. Cấp, thu hồi Chứng chỉ HNLS, Giấy đăng ký hoạt động, Giấy
phép hành nghề................................................................................... 45
2.2.4. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về
tổ chức luật sư và HNLS .................................................................... 48
2.2.5. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư ..................... 50
2.3.

Đánh giá công tác QLNN về hoạt động của luật sƣ ...................... 54

2.3.1. Những ưu điểm và nguyên nhân ........................................................ 54
2.3.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân ............................................. 57
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 65
CHƢƠNG 3: CÁC QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ
Ở VIỆT NAM ................................................................................... 66
3.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện QLNN về luật sƣ.............................. 66

3.1.1. Nhu cầu thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng ....................... 66
3.1.2. Bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ......................... 68
3.1.3. Nhu cầu CCTP, CCHC và xây dựng NNPQ XHCN ......................... 68
3.1.4. Nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN........ 69
3.2.


Quan điểm hoàn thiện QLNN về luật sƣ........................................ 70

3.2.1. QLNN về hoạt đông của luật sư trên cơ sở các quan điểm của
Đảng và Nhà nước về quản lý luật sư ................................................ 70
3.2.2. QLNN về hoạt động của luật sư trên cơ sở kết hợp giữa QLNN
và chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư........ 71
3.2.3. QLNN về hoạt động của luật sư có xem xét đến tính đặc thù ........... 72
3.3.

Các giải pháp cụ thể hoàn thiện QLNN về hoạt động của luật sƣ ..... 73

3.3.1. Hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với hoạt động luật sư ................ 73


3.3.2. Đẩy mạnh công tác phối hợp QLNN về hoạt động của luật sư ......... 77
3.3.3. Kết hợp hài hòa giữa QLNN với việc phát huy vai trò tự quản của
tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư .................................................. 78
3.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về tổ chức và
hoạt động của các TCHNLS, luật sư hành nghề với tư cách cá nhân ..... 80
3.3.5. Nâng cao chất lượng và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ luật sư
và các TCHNLS ................................................................................. 81
Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CCTP:

Cải cách tư pháp


HNLS:

Hành nghề luật sư

NNPQ:

Nhà nước pháp quyền

QLNN:

Quản lý nhà nước

TCHNLS:

Tổ chức hành nghề luật sư

TTHC:

Thủ tục hành chính

UBND:

Ủy ban nhân dân

VPHC:

Vi phạm hành chính

XHCN:


Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày một phát triển, cùng với đó là sự nảy sinh đa dạng mối
quan hệ giữa công dân, tổ chức với nhau, giữa công dân, tổ chức với nhà
nước. Một khi những mối quan hệ này phát sinh mâu thuẫn, thì thực tiễn cho
thấy đội ngũ luật sư, với sự am hiểu pháp luật và kinh nghiệm hành nghề của
mình, ln là lực lượng bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp cho các
bên. Bên cạnh đó, Luật sư hiện nay có đóng góp tích cực trong việc tham gia
tranh tụng, giảm thiểu những vụ án oan sai, khiếu kiện kéo dài, cũng chính là
chung tay cùng hệ thống cơ quan tư pháp nói riêng, nhà nước nói chung trong
bảo đảm quyền con người.
Nhận thức được vai trò quan trọng nói trên của đội ngũ luật sư, Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn chú trọng việc thiết lập
hành lang thể chế, pháp lý để đội ngũ này phát huy được vai trị của mình.
Luật Luật sư lần đầu tiên được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thơng qua
ngày 22/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007. Việc ban hành
Luật Luật sư là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương tại Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược CCTP đến năm
2020, theo đó:
Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất
chính trị, đạo đức, có trình độ chun mơn. Hồn thiện cơ chế
bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa,
đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà
nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ
chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với
thành viên của mình.


1


Sau 06 năm thi hành Luật Luật sư 2006, Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Luật sư (Luật sửa đổi Luật Luật sư 2012) được Quốc hội nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày
20 tháng 11 năm 2012.
Luật Luật sư 2006, Luật bổ sung một số điều của Luật Luật sư 2012,
các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, cùng các văn bản pháp luật
có liên quan khác đã tạo nên khung thể, pháp luật đối với luật sự khá hoàn
thiện, thống nhất, ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các Điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Khơng dừng lại ở đó, các quy định
của pháp luật luôn được sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo thuận lợi hơn cho
hoạt động hành nghề của luật sư. Hiến pháp 2013 đã có những quy định tiến
bộ liên quan đến việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân và liên quan
tới hoạt động hành nghề luật sư như: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa”. Hiến pháp năm 2013 cũng đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng
trong hoạt động xét xử được bảo đảm (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013).
Nhiều đạo luật quan trọng được sửa đổi bổ sung theo tinh thần của Hiến pháp
như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Bộ luật Tố tụng hành
chính được Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 6 thông qua trong năm 2015 đã
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động hành nghề của luật sư.
Tuy nhiên, vấn đề thi hành pháp luật, bảo đảm thực thi các quy định
này trên thực tế vẫn cịn có những hạn chế, bất cập. Nhiều luật sư vẫn gặp cản
trở, khó khăn từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp trong
quá trình hành nghề... Mặt khác, hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư ở các địa phương còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng
nhiều luật sư, tổ chức hành nghề có hành vi vi phạm pháp luật; một số cơ
quan nhà nước, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội còn chưa nhận


2


thức đầy đủ về vị trí, vai trị của luật sư, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu
quả hoạt động của luật sư
Những hạn chế, bất cập này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: từ thể chế
chính sách, pháp luật và cả từ những tồn tại trong công tác quản lý nhà nước đối
với luật sư. Vì lý do đó, việc nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt động
của luật sư ở Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và
thực tiễn. Thông qua việc nghiên cứu sẽ làm rõ hơn, bổ sung cơ sở lý luận, cơ sở
thực tiễn và thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư trên cả nước, từ
đó đề ra những quan điểm và giải pháp đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư tại ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài làm rõ cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về hoạt động của luật
sư ở Việt Nam, từ thực tiễn tại một số địa phương và đặc biệt trong bối cảnh
Luật sửa đổi và bổ sung Luật Luật sư 2012 qua thời gian thi hành đã bộc lộ
một số hạn chế. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam trong thời gian tới
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về hoạt động
của luật sự ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của luật sự ở Việt
Nam hiện nay, từ thực trạng qui định của pháp luật và thực tiễn thi hành.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về hoạt động của luật sư trong thời gian tới.
3. Tính mới của đề tài nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài đạt được những điểm mới sau:

- Luận văn làm rõ cơ sở quy định về quản lý nhà nước về hoạt động của
luật sư ở Việt Nam

3


- Trên cơ sở nghiên cứu của các quy định của pháp luật về luật sư, luận
văn làm rõ thực trạng công tác quản lý hành nhà nước về hoạt động của luật
sự tại Việt Nam hiện nay, chỉ rõ các nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
trong công tác này.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý
nhà nước về hoạt động của luật sư.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của quản lý
nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam hiện nay
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn phân tích các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước về hoạt
động của luật sư ở Việt Nam, các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề
này, đối chiếu với qui định pháp luật luật trước đây và so sánh, đối chiếu với
với pháp luật nước ngoài; nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước về hoạt động
của luật sư tại một số địa phương để chỉ ra những điểm tiến bộ, những bất cập
để có được phương hướng sửa đổi, bổ sung hồn thiện pháp luật.
5. Tình hình nghiên cứu của đề tài
So với thế giới, nghề luật sự cũng như pháp luật về luật sư ở Việt Nam
còn khá non trẻ. Chính vì thế, tuy đã có những cơng trình nghiên cứu cụ thể,
nhưng nhìn chung các cơng trình này cịn chưa tồn diện, thiếu tính hệ thơng.
Đặc biệt, vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động luật sư cịn chưa được chú
trọng đúng mức, ít cả về số lượng, chất lượng, cũng như tính chất chuyên sâu.
Xin nêu một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến luật sự và

quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư:
- Nguyễn Văn Tuân (2002), Luật sư và hành nghề luật sư, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;

4


- Lê Hồng Hạnh (2002), Đạo đức và kỹ năng của luật sư trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội;
- Phan Trung Hoài (2003), Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật
về luật sư ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
- Phan Trung Hoài (2006), Hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam,
Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Nguyễn Văn Bốn, (2006) Luận văn thạc sĩ Luật học“Cơ sở lý luận
đổi mới quản lý luật sư ở Việt Nam hiện nay”.
- Nguyễn Văn Bốn, Quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam - thực
trạng và định hướng trong thời gian tới, Quản lý nhà nước. Số 1/2013, tr. 40 - 44.
- Dương Bạch Long, Quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư, công
chứng, giám định tư pháp và định hướng đổi mới, Dân chủ và Pháp luật.
2019. - Số 6, tr. 14-19.
- Phạm Thùy Linh, Luận văn thạc sĩ luật học, Công tác quản lý nhà
nước về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
Đại học Luật Hà Nội, 2017.
- Nguyễn Phước Thọ, Đổi mới mơ hình quản lý luật sư trong tình hình
mới, Dân chủ và Pháp luật. 2019. - Số 6, tr. 20-24.
Và một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật như: Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Khoa
học pháp lý…
Các cơng trình nêu trên đã có những đóng góp nhất định về cơ sở lý

luận, thực trạng tổ chức, hoạt động của luật sư, cũng như kiến nghị một số
giải pháp cơ bản như xây dựng pháp luật về luật sư, phát huy vai trị và vị trí
của luật sư trong hội nhập kinh tế quốc tế; kỹ năng hành nghề luật sư, phát
huy vai trị tự quản của Đồn luật sư....

5


Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống,
tồn diện và cụ thể về vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt
Nam. Vì vậy, đề tài luật văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về hoạt động của luật
sư ở Việt Nam hiện nay” sẽ góp phần khỏa lấp khoảng trống nghiên cứu hiện
hành, làm rõ thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn về thực trạng quản lý nhà nước về
hoạt động của luật sư trên địa bàn của nước, từ đó đưa ra những giải pháp khắc
phục, nhằm thúc đẩy sự phát triển nghề luật sư nói chung và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư nói riêng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; và một số phương pháp khác như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng trong tất cả các chương,
mục của luận văn nhằm luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của quản
lý nhà nước về hoạt động của luật sư.
Phương pháp cấu trúc hệ thống: Nhằm nhận diện và đánh giá tính hợp
lý và hiệu quả của quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam.
Phương pháp thống kê: Tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên
quan đến đề tài và thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở
Việt Nam hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có

kết cấu gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của QLNN về hoạt động của luật sư.
Chương 2: Thực trạng QLNN về hoạt động của luật sư ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Các quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về
hoạt động của luật sư ở Việt Nam hiện nay.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ
1.1. Khái quát về luật sƣ, nghề luật sƣ
1.1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của luật sư
1.1.1.1. Khái niệm
Trong lịch sử, chế định luật sư xuất hiện sớm nhất ở Châu Âu gắn liền
với quyền bào chữa và Tòa Án. Vào giao đoạn cuối cùng của nền Cộng hòa
thứ IV Đế chế La Mã, chế độ bào chữa bắt đầu phát triển, người bị kiện đã
biết nhờ người thân mà mình tín nhiệm bào chữa cho mình. Việc bào chữa
xuất phát tự nhiên nhằm bảo vệ quyền cho người yếu tố trước sự bắt giam vơ
cớ và trừng phạt một cách độc đốn của giai cấp thống trị nên được số đông
ủng hộ và dần thu hút nhiều người tham gia bào chữa trước tịa án [42, tr.5-6].
Khoảng thế kỷ I trước Cơng Ngun đến thế kỷ II sau Công nguyên, tại Hy
Lạp và La Mã đã xuất hiện một loại hiệp sĩ đặc biệt, khơng dùng khí giới hay
sức mạnh về thể lực để chiến thắng kẻ địch, mà chỉ dùng ngôn ngữ và sự am
hiểu luật pháp để đứng ra bênh vực cho những kẻ nghèo, yếu thế, hoặc phụ nữ
bị ngược đãi trước các thế lực đương thời. Họ được gọi là "người biện hộ”
(Tiếng Latin: Advocatus). Số lượng các hiệp sĩ phát triển ngày càng đông và
đến thế kỷ IV sau Công nguyên, họ tập hợp tại Rome thành một đoàn thể

được độc quyền biện hộ trước Hoàng đế. Đến cuối thế kỷ VIII, danh xưng
"Advocatus" được nhà vua chính thức cơng nhận và trao quyền biện hộ trước
tịa cho 17 vị. Đó là nền móng đầu tiên cho việc hình thành và phát triển của
định chế luật sư trên thế giới [26, tr.14].
Ngày nay, vì vai trị khơng thể phủ nhận đối với xã hội, sự phát triển
của đội ngũ luật sư luôn là điều mà các quốc gia quan tâm đặc biệt. Ở mỗi

7


quốc gia thì tên gọi và cách hiểu về luật sư cũng rất đa dạng; xuất phát từ đặc
thù lịch sử, văn hóa, hệ thống pháp luật ở mỗi nước. Ví dụ, tại Anh quốc,
lawyer là từ chung nhất để diễn tả người hành nghề luật, tùy theo vai trò khác
nhau mà luật sư còn được gọi là barrister – luật sư tranh tụng tại toà án ở các
quốc gia thuộc hệ thống Thông luật; soliciter – luật sư tư vấn hay attorney khi
đóng vai trị người được ủy quyền, đại diện cho khách hàng. Từ attorney hay
counsel cũng được dùng để chỉ luật sư ở Hoa Kỳ theo nghĩa trang trọng hoặc
cho biết một chức danh, ví dụ: Attorney General – Tổng chưởng lý/Bộ trưởng
Tư pháp Hoa Kỳ). Tại Ấn Độ, lawyer cũng là một thuật ngữ thông dụng, tuy
nhiên theo đạo luật luật sư (Advocates Act, 1961), luật sư ở nước này được
gọi là “advocate”
Ở Việt Nam, luật sư, với tư cách là một nghề nghiệp đã xuất hiện hơn
một thế kỷ. Ngày 30/01/1911, Toàn quyền Pháp tại Đơng Dương Antony
Wladislas Klobukowski ký Sắc lệnh thành lập Đồn luật sư Sài Gòn và Hà
Nội [55]. Thành viên luật sư đoàn là các luật sư đã tốt nghiệp trường luật ở
Pháp, có quốc tịch Pháp. Chủ trương của Klobukowski khi đó là mở rộng
nghề luật sư theo hướng khơng chỉ người Pháp và người Việt mang quốc tịch
Pháp mới được làm luật sư, mà người Việt mang quốc tịch Việt Nam cũng
được làm luật sư nếu hội đủ các điều kiện theo luật định. Tuy nhiên, vì nhiều
lý do, trong đó có ảnh hưởng của cuộc trường kỳ đấu tranh giải phóng dân

tộc, quan niệm hoạt động luật sư như một nghề nghiệp trong xã hội chưa được
thừa nhận trong hệ thống pháp luật thực định ở nước ta trong suốt một thời
gian dài cho đến thời điểm ban hành Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987[55].
Về khái niệm “luật sư”, việc định nghĩa khái niệm này luôn là vấn đề
được quan tâm trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về luật sư ở
Việt Nam. Kinh nghiệm nước ngồi cho thấy, khơng phải lúc nào pháp luật sở
tại cũng đưa ra khái niệm hoặc định nghĩa thế nào là luật sư. Tại các nước có

8


nghề luật sư phát triển, việc đưa ra khái niệm hoặc định nghĩa thế nào là luật
sư chỉ mang tính quy ước, khái niệm luật sư thường mang tính hình thức hơn
là khái niệm về mặt nội dung. Ở Việt Nam, Pháp lệnh tổ chức luật sư năm
1987 đã chính thức hóa thuật ngữ “luật sư”, khơng đưa ra một khái niệm hay
định nghĩa hoàn chỉnh về luật sư mà chỉ quy định người muốn trở thành luật
sư phải gia nhập Đồn luật sư. Qua q trình sửa đổi, thay thế, Luật luật sư
hiện hành quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề
theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức” [33]. Cách định nghĩa này của pháp luật Việt Nam
tương tự pháp luật các quốc gia khác, không đưa ra khái niệm luật sư mà chỉ
quy định về tiêu chuẩn để trở thành luật sư
So sánh với khái niệm “luật gia” một khái niệm gần gũi trong hệ thống
ngành nghề luật, thì Điều lệ Hội luật gia Việt Nam cũng khơng đưa ra khái
niệm thế nào là luật gia và chỉ đưa ra tiêu chuẩn hội viên [1]. Tuy không đưa
ra khái niệm cụ thể nhưng từ quy định này cũng có thể thấy điểm khác biệt
chính giữa luật sư và luật gia theo quy định của pháp luật Việt Nam thể hiện ở
những điểm sau:
- Luật gia có thể là người hiện đang làm cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước, luật sư thì khơng thể;

- Luật sư có thể là luật gia nếu xin gia nhập Hội Luật gia, nhưng luật
gia nếu muốn trở thành luật sư phải trải qua quá trình đào tạo, cấp chứng chỉ,
gia nhập tổ chức nghề nghiệp, trừ các trường hợp đặc biệt được miễn theo quy
định của Luật luật sư.
1.1.1.2. Bản chất của luật sư
Xem xét bản chất của luật sư là xem xét các yếu tố tác động đến quá
trình hình thành quan niệm về luật sư và nghề luật sư, đặt vị trí luật sư trong
các mối quan hệ chi phối đến hoạt động nghề nghiệp và xem xét các yếu tố

9


này trong tổng thể mặt bằng các giá trị của dân chủ. Bản chất của luật sư
những thuộc tính riêng, những mối liên hệ ở bên trong của khái niệm này, quy
định sự vận động và phát triển của một loại chủ thể nhất định trong xã hội. Đó
khơng chỉ là thuộc tính của hoạt động xã hội nói chung mà cịn cả các thuộc
tính tự nhiên gắn liền với luật sư nói riêng, như vậy về bản chất hoạt động
luật sư cũng sẽ có nhưng nét tương đồng nhất định với các hoạt động nghề
nghiệp khác bên cạnh những đặc thù riêng có. Nhằm làm sáng tỏ bản chất của
luật sư, cần đề cập đến các thuộc tính đặc trưng sau đây:
- Tính xã hội của luật sƣ: Đây là bản chất hoạt động của luật sư cũng
như các ngành nghề khác gắn liền với các hoạt động xã hội. Khơng thể có
hoạt động luật sư nào lại tách rời khỏi xã hội, các quan hệ xã hội được pháp
luật điều chỉnh chính là “mơi trường” hoạt động của luật sư. Mất đi môi
trường và các đối tượng phục vụ là các chủ thể xã hội là mất đi nền tảng hoạt
động của luật sư. Ngược lại bản chất xã hội của luật sư cũng được phản ánh
bởi nhu cầu của xã hội đối với luật sư. Đó là nhu cầu đem lại sự ổn định cho
xã hội, mang đến cho các chủ thể xã hội sự trợ giúp về mặt pháp lý theo các
mức độ khác nhau dựa trên kiến thức pháp lý, khả năng hành nghề.
- Tính dân chủ của luật sƣ: Đây là thuộc tính bản chất của luật sư

xuất phát từ sự yếu tố bên trong, từ sự hình thành chế độ luật sư trong lịch sử,
đó là quyền bào chữa của bị can, bị cáo, một trong những hình thức đầu tiên
và cơ bản nhất để đảm bảo thực hiện quyền con người. Quyền này đã được
chính thức ghi nhận trong Tun ngơn về nhân quyền của Liên Hợp quốc: “bị
cáo về một tội hình sự được suy đốn là vơ tội cho đến khi có đủ bằng chứng
phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho
quyền biện hộ” [18]. Mặt khác, tính dân chủ trong hoạt động của luật sư cũng
là đòi hỏi của xã hội Việt Nam nói riêng trong thời kỳ xây nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Luật sư với vị thế, chức năng của mình mang đến cho

10


xã hội nói chung, tư pháp nói riêng những giá trị của dân chủ, thơng qua việc
biện hộ trước tịa án, đại diện hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ
chức trước những hành vi xâm phạm. Quan trọng hơn, với kiến thức pháp lý,
môi trường làm việc là pháp luật, luật sư ln có những ý kiến đóng góp, phản
biện có giá trị đối với nhà nước, là một chủ thể giám sát tử bên ngoài với việc
thực hiện quyền lực nhà nước. Thuộc tính dân chủ còn mang giá trị định hướng
cho hoạt động của luật sư, đó là hoạt động vì mục tiêu xã hội, phục vụ nhân
dân, là cầu nối phản ánh nguyện vọng của các chủ thể dân sự với Nhà nước.
- Tính tuân thủ phát luật của luật sƣ: Bản chất hoạt động luật sư
trước hết phải được thể hiện ở việc tuân thủ pháp luật của người HNLS, dựa
vào pháp luật để bảo về quyền và lợi ích cho cơng dân, tổ chức. Hoạt động
của luật sư phục vụ những nhiệm vụ, mục đích nói trên phải dựa trên cơ sở
pháp luật, bảo đảm sự thật khách quan và trên tất cả là công lý, lẽ công bằng.
Tuân thủ pháp luật là bản chất nhưng cũng là yêu cầu bắt buộc đối với hoạt
động của luật sư trong nhà nước pháp. Đặt trong mối tương quan với các
ngành nghề khác trong xã hội vốn cũng phải tuân thủ pháp luật trong hoạt
động của mình, yêu cầu tuân thủ pháp luật trong hoạt động của luật sư thậm

chí cao hơn, vì trước hết pháp luật là “môi trường” HNLS, luật sư sử dụng
kiến thức, hiểu biết pháp luật của mình như là công cụ để đáp ứng nhu cầu
của các chủ thể trong xã hội; thứ hai là để tuyên truyền, giáo dục cho chính
thân chủ của mình về việc tn thủ pháp luật.
- Tính độc lập của luật sƣ: Khi xác định tính độc lập là một thuộc tính
bản chất của luật sư, cần hiểu đây là quan niệm có ý nghĩa tương đối. Có thể
nói, tính độc lập là thuộc tính phái sinh từ tính dân chủ trong hoạt động của
luật sư. Tính dân chủ trong hoạt động của luật sư là bản chất, cũng là địi hỏi
cần có để hoạt động HNLS đạt hiệu quả. Theo đó, luật sư phải có vị thể độc
lập, độc lập ở đây được hiểu là độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng, độc

11


lập với thân chủ của mình theo một nghĩa nào đó, và độc lập cả với những
đồng nghiệp của mình.
Nói đến tính độc lập như một bản chất trong hoạt động của luật sư
nhằm nhấm mạnh, sáng tỏ phương thức hoạt động của đối tượng này với các
chủ thế tư pháp khác trong bối cảnh NNPQ, cũng là cơ sở lý luận cho việc
xác định vị thế là một chức danh tư pháp độc lập của luật sư. Cũng như tính
dân chủ, tính độc lập là bản chất cũng là điều kiện tất yếu cho hoạt động của
luật sư, bao trùm cả hoạt động của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư.
Điều này thể hiện rõ nét nhất trong tính tự quản của tổ chức này: tự quản về tổ
chức và hoạt động, tính chịu trách nhiệm cá nhân của từng luật sư trong hành
nghề. So sánh với một chức danh tư pháp khác là thẩm phán, với tính độc lập
và tuân theo pháp luật là bản chất trong hoạt động, thì nội hàm của độc lập
trong hoạt động của thẩm phán cũng có những khác biệt so với luật sư. Độc
lập của thẩm phán xét trên phương diện nào đó là địi hỏi cao hơn so với luật
sư. Đó là độc lập với yếu tố bên trong: độc lập với các thành viên hội đồng
xét xử, độc lập với các yếu tố bên ngoài: cơ quan công tố, cơ quan điều tra;

độc lập giữa các cấp xét xử.
- Uy tín nghề nghiệp cá nhân luật sƣ: Nghề nghiệp nào càng gây ảnh
hưởng đến số đông, đến tính mạng con người hay nắm trong tay quyền lực
nhà nước như: nghị sĩ, thẩm phán, bác sĩ... thì uy tín cá nhân của người hành
nghề đó càng quan trọng. Luật sư cũng khơng nằm ngồi số đó. Trong nền
kinh tế thị trường, luật sư càng giao kết “tự do”, thì càng phải chịu trách
nhiệm cá nhân lớn hơn, cũng như đề cao uy tín nghề nghiệp bởi khách hàng
thường tín nhiệm u cầu đích danh luật sư, chứ khơng phải tổ chức hành
nghề hay tổ chức nghề nghiệp luật sư. Mặc dù tổ chức hành nghề là nơi tiếp
nhận yêu cầu của khác hàng nhưng nhưng luật sư cụ thể mới là người giải
quyết yêu cầu đó. Trong NNPQ, uy tín của luật sư cịn là u cầu nội tại, là

12


đòi hỏi cho sự phát triển đội ngũ luật sư và trong tồn bộ q trình hoạt động
nghề nghiệp của luật sư. Mỗi luật sư phải tự bảo vệ uy tín cá nhân vì mất đi
uy tín cá nhân chính là mất bản chất của luật sư trong cạnh tranh nghề nghiệp.
Quan trọng hơn là mất đi sự tin cậy của xã hội đối với toàn bộ tổ chức luật sư,
cơ sở xã hội cho sự tồn tại của nghề nghiệp cũng theo đó mất đi
1.1.1.3. Vai trị của luật sư
Nói đến vai trị của luật sư là nói tới tác động, ảnh hưởng của luật sư
đối với cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động của mình; đối với xã hội
thông qua chức năng, bản chất cao quý của nghề nghiệp, đối với quá trình xây
dựng và phát triển dân chủ, tạo lập công bằng xã hội. Để hỗ trợ các quốc gia
phát triển và đảm bảo vai trị chính đáng của luật sư, cũng như đảm bảo sự tơn
trọng bởi các chính phủ cũng như thẩm phán, công tố viên, các thành viên của
hành pháp, lập pháp và cơng chúng nói chung trong khn khổ luật pháp và
tập quán quốc gia, Hội nghị Liên hiệp quốc lần thứ 8 về phòng chống tội
phạm và xử lý người phạm tội, tổ chức tại Havana (Cuba) từ 27/08 đến

07/09/1990 đã thông qua “Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư” (Basic
Principles on the Role of Lawyers).
Vai trò của luật sư được quan niệm theo nhiều chiều cạnh khác nhau.
Có ý kiến cho rằng vai trị của luật sư thể hiện trên ba phương diện: bảo vệ
quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước tòa; vai trò của luật sư trong
hoạt động tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ
chức; vai trò của luật sư trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật [45]. Quan
niệm khác lại xem xét vai trị của luật sư trên bình diện truyền thống và hiện
đại, trong đó luật sư có tác dụng hữu hiệu đối với việc bảo vệ quyền và tăng
cường thể chế pháp quyền; bênh vực và bảo vệ kẻ yếu; tham gia và đóng góp
tích cực vào q trình soạn thảo luật, xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp
luật; nâng cao năng lực và ý thức xã hội trong tiếp cận với dân chủ và pháp

13


luật. Tuy nhiên, về mặt lý luận cần xem xét vai trị của luật sư một cách tồn
diện hơn so với cách quan niệm về vai trò của luật sư theo chức năng và phạm
vi HNLS. Theo đó, vai trị thể hiện trên các mặt:
Thứ nhất, Luật sư có vai trị quan trọng trong cơng cuộc xây dựng
NNPQ, nền kinh tế thị trường bằng việc góp phần bảo vệ cơng lý, cơng bằng
xã hội. Khẳng định vai trị của luật sư trong công cuộc xây dựng NNPQ là
khẳng định nguyên tắc “thượng tôn pháp luật”, coi pháp luật là thước đo giá
trị công bằng, chuẩn mực ứng xử của các chủ thể trong xã hội. Việt Nam nói
riêng, luật sư cịn tham gia vào tiến trình dân chủ hóa các mặt của đời sống xã
hội, đấu tranh chống lại các biển hiện xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức; đồng thời truyền bá quan niệm về quyền con người,
pháp quyền, pháp chế... Tổ chức luật sư cũng trở thành yếu tố cấu thành của
nền kinh tế thị trường, trong đó từng thành viên luật sư đóng vai trị quan
trọng trọng việc thúc đẩy và cải thiện môi trường pháp lý trong kinh doanh ở

Việt Nam, từng bước tiếp cận với tập quán hành nghề tiến bộ trên thế giới
trong quá trình hội nhập.
Thứ hai, theo phạm vi hành nghề, luật sư có vai trị: (i) Bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong và ngoài tố tụng; (ii) Tư vấn
pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác; (iii) Tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, góp phần xây
dựng và hồn thiện chính sách, pháp luật
Như vậy, căn cứ vào các phân tích trên về q trình hình thành, bản
chất hoạt động cũng như vai trò của luật sư, đề tài định nghĩa khái niệm luật
sư như sau: “Luật sư là những người được pháp luật công nhận đủ tiêu chuẩn
hành nghề nhằm thực hiện việc đại diện trong và ngoài tố tụng, tư vấn pháp
luật, thực hiện các dịch vụ pháp lý khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho cá nhân, tổ chức, bảo vệ công lý và quyền con người”.

14


1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của nghề luật sư
1.1.2.1. Khái niệm nghề luật sư
Hoạt động của luật sư trong cơ chế thị trường được coi là một loại hình
dịch vụ nghề nghiệp, được điều chỉnh bằng các đạo luật về HNLS và kinh
doanh. Tương tự như với khái nhiệm luật sư, các quốc gia theo những hệ
thống pháp luật khác nhau lại có những điểm khác nhau trong quan niệm về
nghề luật sư. Các quốc gia theo thông luật coi nghề luật sư là một nghề kinh
doanh, nhưng thuộc loại hình kinh doanh đặc biệt; các nước theo hệ thống
luật thành văn nhìn chung coi hoạt động luật sư là một trong những nghề tự
do (luật sư, công chứng, kiểm toán, bác sỹ, kiến trúc sư…) [42]. Một số quốc
gia khác, trong đó trong đó có Việt Nam coi luật sư là một hoạt động “bổ trợ
tư pháp” xuất phát từ thực tiễn HNLS gắn bó chặt với hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án.

Ở Việt Nam, với vị thế, vai trò quan trọng của đội ngũ luật sư trong xã
hội, “có đầy đủ lý do để khẳng định rằng luật sư là một nghề cao quý trong xã
hội và càng được tôn vinh trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN của dân, do
dân, vì dân, phấn đấu xây dựng xã hội cơng bằng, dân chủ văn minh” [28, tr.6].
Tuy nhiên, việc nhìn nhận niệm hoạt động luật sư như một nghề nghiệp trong
xã hội không phải đã được thừa nhận trong hệ thống pháp luật thực định ở
Việt Nam trong suốt một thời gian dài cho đến khi Pháp lệnh luật sư 1987
được ban hành. Thực tế này có thể được lý giải bởi hai lý do. Thứ nhất, về
mặt lịch sử, đất nước ta phải trải qua quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc
trường kỳ, gian nan, nền tư pháp nói chung, luật sư nói riêng chưa được quan
tâm đúng mức. Thứ hai, về mặt khoa học, khái niệm nghề luật nói chung và
nghề luật sư nói riêng chưa xuất hiện phổ biến trong các cơng trình khoa học
pháp lý, trong các văn bản pháp luật và đời sống xã hội.
Về mặt từ vựng đơn thuần, “nghề luật sư” là từ ghép từ từ “nghề” với

15


tính chất là một nghề nghiệp và “luật sư” chỉ những người đủ điều kiện HNLS
theo quy định của pháp luật về luật sư. Theo Từ điển tiếng Việt, nghề là
“công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội” hoặc hiểu theo nghĩa
thứ hai là “thành thạo trong một cơng việc nào đó” [50, tr.1192]. Dưới góc độ
khoa học pháp lý, “nghề luật sư” có thể hiểu là “...một nghề luật, trong đó các
luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động
trong phạm vi hành nghề theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm
nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của khách hàng, góp phần tích cực bảo vệ pháp chế và xây dựng NNPQ Việt
Nam XHCN” [26]. Tuy nhiên trong các văn bản pháp luật về luật sư hiện
hành, cụm từ “HNLS” lại được sử dụng phổ biến hơn. Cách dùng như vậy
được đánh giá là phù hợp với thực tiễn quy định của pháp luật luật sư từ khi

Pháp lệnh luật sư 2001 được ban hành. Từ thực tế này, có thể hiểu “luật sư”
trong các văn bản pháp luật được hiểu theo hai cách, tùy hoàn cảnh cụ thể,
thứ nhất “luật sư” là chỉ người đã được pháp luật công nhận, cho phép hành
nghề và thứ hai “luật sư” có thể hiểu là nghề luật sư.
1.1.2.2. Đặc điểm của nghề luật sư
Nghề luật sư rất chú ý đến vai trị cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật
sư và phương thức tự do trong HNLS. Nhiều ý kiến quan niệm nghề luật sư
có những điểm tương đồng với nghề bác sỹ: cần có kiến thức pháp luật, thơng
thạo nghề nghiệp để chăm sóc những “bệnh nhân pháp luật” của mình; địi
hỏi tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cao, tương tự như nghề y. Luật sư cũng
mang trên vai gánh nặng niềm tin mà xã hội và khách hàng ủy thác cho họ.
Nếu như người bệnh tin tưởng, phó thác sức khỏe và tính mạng của mình cho
bác sỹ vì hy vọng rằng bác sỹ là người có đủ khả năng cứu giúp họ, cũng
tương tự như vậy, khách hàng đặt quyền lợi vật chất hoặc cao hơn nữa là sinh
mạng chính trị, tự do, danh dự, nhân phẩm…của mình vào người luật sư. Các

16


nhìn nhận như trên cũng có điểm hợp lý dựa trên sự tương đồng của hai nghề
nghiệp. Tuy nhiên, với tư cách là hai nghề nghiệp khác nhau với lĩnh vực
hành nghề khác nhau thì quan trọng nhất là chỉ ra những điểm đặc thù của hai
nghề nghiệp này. Xuất phát từ bản chất, vai trò của nghề luật sư trong các hệ
thống chính trị, hệ thống pháp luật cũng như các quan niệm phổ biến trên thế
giới và ở Việt Nam, có thể xem xét các đặc điểm của nghề luật sư trên các
bình diện sau đây:
- Nghề luật sư là một ngành nghề dịch vụ: Trong nền kinh tế thị
trường, tính chất dịch vụ của nghề luật sư được thừa nhận rộng rãi dù vẫn còn
ý kiến cho rằng không nên đề cập đến điều này như một trong những đặc
điểm của nghề luật sư bởi sự cao q mang tính “thiên chức” của nghề này.

Bên cạnh đó việc coi đây là dịch vụ như là “đổi trao, mua bán” thứ hàng hóa
là “kiến thức - kỹ năng pháp luật” sẽ hạ thấp vai trò của luật sư trong việc
thúc đẩy sự phát triển dân chủ trong hoạt động tư pháp và xã hội nói chung.
Tuy nhiên, cần quan điểm tính chất dịch vụ của nghề luật sư là một loại dịch
vụ đặc biệt, khác với quan niệm về dịch vụ thơng thường. Đây là loại hình
dịch vụ đã được Tổ chức thương mại thế giới WTO đưa vào hệ thống thương
mại thế giới, được điều chỉnh trong khuôn khổ Hiệp định chung về thương
mại dịch vụ (GATS). Vì được coi là một loại hình dịch vụ nên pháp luật các
quốc gia, trong đó có pháp luật Việt Nam cịn quy định các căn cứ phương
pháp tính thù lao đối với hoạt động HNLS.
- Nghề luật sư là một nghề luật hành nghề tự do: Nói nghề luật sư là
một nghề luật trước hết để phân biệt với các nghề khác trong xã hội. Hơn nữa,
với đặc điểm, chức năng và vai trò riêng biệt, nghề luật sự cũng khác với
những nghề luật khác như thẩm phán, công tố, cơng an, cơng chứng…, đó là
ở phương thức hành nghề một cách tự do. Phương thức hành nghề tự do của
luật sư ở đây cần được hiểu là có thời gian và khơng gian hoạt động tự do, có

17


quyền tự do lựa chọn khách hàng, không bị những hạn chế, bó buộc như một
cơng chức,viên chức nhà nước.
- Nghề luật sư hoạt động dựa trên pháp luật và quy chế trách nhiệm
nghề nghiệp: Tương tự như nhiều nghề nghiệp trong xã hội, nền tảng hoạt
động của nghề luật sư là pháp luật và các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp.
Pháp luật về luật sư được coi là hệ thống các quy phạm pháp luật xác định vị
trí, vai trò của luật sư trong xã hội, quy định các quyền và nghĩa vụ của luật
sư trong hành nghề, phạm vi QLNN đối với hoạt động luật sư và tính tự quản
… Tuy nhiên, khi nói tới quy chế trách nhiệm nghề nghiệp như chuẩn mực
nền tảng đạo đức và kỷ luật của hoạt động luật sư thì cũng khơng có nghĩa là

quy chế này chi phối luật sư cả trong cơng việc lẫn đời sống riêng của họ, mà
nó chỉ chi phối hoạt động nghề nghiệp và những tác động của hành vi ứng xử
của luật sư trong cuộc sống riêng có thể làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự
của luật sư. Pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư có khác
nhau, nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết và chi phối lẫn nhau. Pháp
luật về luật sư có tác dụng như “hành lang” cho hoạt động của luật sư với các
quyền và nghĩa vụ cụ thể trước pháp luật, còn quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp luật sư lại chủ yếu điều chỉnh hành vi ứng xử của luật sư trong hoạt
động nghề nghiệp và trong xã hội, tuy khơng hồn tồn mang tính bắt buộc
nhưng cũng địi hỏi phải được sự tơn trọng từ phía các luật sư. Trong nhiều
trường hợp, đối với nghề nghiệp luật sư, các quy tắc ứng xử thuộc về phạm
trù đạo đức lại chi phối và có tác động lớn lao đến uy tín, danh dự của luật sư
và ảnh hưởng chi phối rất nhiều đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách
hàng. Sự cộng hưởng qua lại giữa pháp luật và quy tắc trách nhiệm nghề
nghiệp trong hoạt động của luật sư là một trong những minh chứng cho mối
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nói chung.
Vấn đề này có ý nghĩa lý luận to lớn ở chỗ, không chỉ đôi khi các giá trị

18


×