Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tài liệu thi nhà nước và pháp luật trung cấp lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.51 KB, 21 trang )

Câu 1. Bằng kiến thức về pháp luật, anh, chị hãy làm rõ quy định: Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị và nó được thực hiện bằng cả một hệ thống
chuyên chính do giai cấp đó lập ra.
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung phát triển năm
2011), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp năm 2013) đã bổ sung một nguyên
tắc mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Đó là “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Đây vừa là quan điểm vừa là nguyên tắc chỉ đạo cơng cuộc tiếp tục, xây dựng và hồn thiện
bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ mới - Thời kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới cả về kinh tế lẫn
chính trị.
*Quyền lực nhà nước là thống nhất:
Một là, quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 ghi: NN CHXHCN VN là NN pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Nước CH XHCN VN do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa GCCN với GC ND và đội ngũ trí thức.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung và phát triển năm 2011), Hiến pháp năm
2013 đã khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2). Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân được Hiến pháp quan niệm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, Nhân dân
thông qua quyền lập hiến giao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư
pháp như các Hiến pháp trước đây.
Theo điều 70 Hiến pháp năm 2013, Nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ:
quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao và quyền hạn và
nhiệm vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Dân chủ đại diện là phương thức thực hiện
quyền lực nhà nước cơ bản và phổ biến nhất của nhân dân. Theo đó, nhân dân thơng qua các cơ quan đại biểu
do mình bầu ra và ủy thác quyền lực như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; rồi đến lượt mình Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục lập ra các cơ quan khác của Nhà nước để thực hiện ý chí, nguyện vọng
của nhân dân. Như vậy, hiểu một cách đầy đủ, cơ quan nhà nước được nhân dân ủy quyền không chỉ là các
cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn bao gồm cả các cơ quan trong hệ thống


hành pháp và tư pháp; các cơ quan này thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước để điều hành, quản lý
xã hội và chịu sự giám sát của nhân dân.
Đồng thời điều 6 quy định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không những bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước mà cịn bằng dân chủ trực tiếp
thơng qua việc thực hiện quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân
về Hiến pháp (điều 29 và điều 120)…
Có như vậy, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mới đúng, mới bảo đảm thực
hiện đầy đủ, khơng hình thức. Như vậy, thống nhất quyền lực nhà nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân, tập trung thống nhất ở Nhân dân chứ không phải tập trung ở Quốc hội. Do vậy, nói
quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà
nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau
nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước “đảm bảo và không
ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của Nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” như Điều 3 Hiến pháp 2013 đã quy định.
Như vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở Nhân dân, chủ thể tối cao và duy nhất của
quyền lực nhà nước là quan niệm có ý nghĩa chỉ đạo tổ chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng

1


nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Mọi biểu hiện xa rời quan điểm quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân theo Hiến pháp năm 2013.
Hai là, đảm bảo sự lãnh đạo của ĐCS VN đối với NN và XH. ĐCS VN trở thành đảng cầm quyền, là
hạt nhân của hệ thống chính trị.
* Sự phân công:
Hiến pháp năm 2013 đã tiến một bước mới trong việc phân công quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên
trong Hiến pháp nước ta chỉ rõ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (khơng cịn là duy nhất có quyền lập hiến
như Hiến pháp năm 1992), quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), Tòa
án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc xác nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp là một sự đổi mới quan trọng, tạo điều kiện để làm rõ vị trí, vai trị, nhiệm vụ,

quyền hạn của mỗi quyền.
Một là, đối với quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc gia.
Quyền này được phân công cho Quốc hội. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại
diện cho nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ
quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền biểu quyết thông qua luật là
quyền lập pháp, chứ không phải là quyền đưa ra các mơ hình xử sự cho xã hội. Vì vậy, quyền lập pháp khơng
đồng nghĩa với quyền chỉ làm ra luật. Đồng thời, là người thay mặt nhân dân giám sát tối cao mọi hoạt động
của Nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành pháp, để góp phần giúp cho các quyền mà nhân dân
giao cho các cơ quan nhà nước không bị lạm quyền, lộng quyền hay bị tha hóa. Quyền hạn và nhiệm vụ của
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp được quy định ở Điều 70 và Điều 120 của Hiến pháp hiện nay.
Hai là, quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia do Chính phủ đảm trách.
Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đề xuất, hoạch định, tổ chức soạn thảo chính
sách quốc gia và sau khi chính sách quốc gia được thơng qua là người tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước
mà thực chất là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội. Thực tiễn cho
thấy, khơng có một chính phủ thực hiện quyền hành pháp một cách hữu hiệu, thông minh thì khơng thể có
một nhà nước giàu mạnh, phát triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội. Thực hiện quyền này địi hỏi
Chính phủ và các thành viên của Chính phủ cần nhanh nhạy, quyết đoán kịp thời và quyền uy tập trung,
thống nhất. Quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ - cơ quan thực hiện quyền hành pháp được quy định một
cách khái quát ở Điều 96 Hiến pháp hiện nay.
Ba là, quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án thực hiện. Độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này; nghiêm cấm cơ quan,
tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân (khoản 2, Điều 103). Đây
thực chất là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp
luật từ phía cơng dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
là nhiệm vụ hàng đầu của quyền tư pháp (khoản 3, Điều 102). Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ
tơn trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và cơng lý trong các phán quyết của Tịa án.
Mục đích của việc phân cơng quyền lực nhà nước là để nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm
cho tính pháp quyền của Nhà nước và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải là để thỏa hiệp hay
chia rẽ quyền lực nhà nước giữa các quyền. Ý nghĩa của sự phân công quyền lực nhà nước là để phân định
nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, để Nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu

quả, quyền lực nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của nhân dân, tính pháp quyền của Nhà nước ngày
càng thực sự là quyền lực của nhân dân và ngày càng được đề cao. Nội dung và tinh thần của các quy định về
việc phân công nhiệm vụ, quyền hạn cho Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân nhìn chung đáp ứng các yêu
cầu nói trên và là cơ sở để tiến hành kiểm soát quyền lực nhà nước.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định thành ba quyền nói trên là một
nhu cầu khách quan. Ngày nay, xu hướng phân định rành mạch ba quyền đó ngày càng được coi trọng trong
tổ chức quyền lực nhà nước. Vì, xã hội càng phát triển, phân công lao động càng phải chuyên môn hóa cao để
phát triển vừa thống nhất, vừa hiệu quả. Đồng thời, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta chỉ ra rằng, việc phân định mạch lạc ba quyền là cách thức tốt nhất để phát huy vai trị của
Nhà nước trong cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

2


* Sự phối hợp
Như đã nói ở trên, trong Nhà nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất. Đó là sự thống nhất về mục
tiêu chính trị chung. Vì vậy, việc phân định quyền lực nhà nước không chứa đựng và bao quát việc phân lập
mục tiêu chính trị chung của quyền lực nhà nước. Do vậy, mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp khơng hồn tồn tách biệt nhau, mà “ràng buộc lẫn nhau”, cả ba quyền
đều phải phối hợp với nhau, hoạt động một cách nhịp nhàng trên cơ sở thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn
mà nhân dân giao cho. Mục đích của việc phân cơng quyền lực nhà nước là để nhằm kiểm sốt quyền lực nhà
nước, bảo đảm cho tính pháp quyền của Nhà nước và phát huy dân chủ XHCN.
- Phối hợp thực hiện quyền lập pháp: Hiến pháp năm 2013 quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, lập pháp”. Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là Chính phủ cũng có quyền tham gia vào
quy trình lập hiến, lập pháp. Trong quy trình làm luật tại Quốc hội, Chính phủ đóng vai trị trình bày, tiếp
nhận các phản hồi và thảo luận để hoàn thiện dự án luật. Quốc hội có quyền đề xuất và quyết định các sửa đổi
dự án luật do Chính phủ trình, nhưng Chính phủ có quyền thảo luận các đề xuất, ý kiến của Quốc hội để
thuyết phục cho dự án luật do Chính phủ trình. Thậm chí, Chính phủ cũng có thể từ bỏ việc tiếp tục trình dự
án luật do ý kiến phản đối của Quốc hội.
- Phối hợp thực hiện quyền hành pháp: Hiến pháp năm 2013 đã không chỉ quy định Chính phủ có thẩm

quyền, nhiệm vụ “tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội” như trước đây, mà còn bổ sung
nội dung “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết
định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tại Điều này”, cùng với thẩm quyền “trình dự án
luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội”. Các nhiệm vụ, quyền hạn khác của Chính
phủ được quy định tại Hiến pháp năm 2013 cũng đều thể hiện quyền hành pháp của Chính phủ: Thống nhất
quản lý về mọi mặt của đời sống xã hội; thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; bảo vệ quyền và lợi ích
của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; tổ chức đàm
phán, ký kết điều ước quốc tế theo thẩm quyền... Như vậy, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp với tư cách
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội.
- Phối hợp thực hiện quyền tư pháp: Tòa án nhân dân phải có trách nhiệm trong việc phán xử các hành
vi vi phạm pháp luật đã được Quốc hội - cơ quan lập pháp thông qua, theo đề nghị của cơ quan hành pháp.
* Sự kiểm soát
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền lực nhà nước khơng phải là quyền lực
tự có của Nhà nước mà quyền lực được nhân dân ủy quyền và giao quyền. Vì thế, tất yếu nảy sinh địi hỏi tự
nhiên và chính đáng là phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực
nhà nước lại có nguy cơ thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình
lúc ban đầu (từ của nhân dân là số đơng chuyển thành số ít của một nhóm người hoặc của một người). C.
Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Hơn nữa, quyền lực nhà nước là của nhân dân
giao cho các cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho những người cụ thể thực thi. Không thể khẳng định
người được ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ những gì mà nhân dân đã ủy quyền.
Vì vậy, kiểm sốt quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền đối với người
được ủy quyền. Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước khơng phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm,
phân chia được một cách quá rạch ròi; vì nó là một thể thống nhất, như nói ở trên. Điều đó lại càng địi hỏi
phải kiểm sốt quyền lực nhà nước, hạn chế hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực nhà nước được nhân dân
ủy quyền.
Về kiểm sốt quyền lực nhà nước, ngồi việc phân cơng mạch lạc nhiệm vụ, quyền hạn của các quyền
để tạo cơ sở cho kiểm soát quyền lực; Hiến pháp sửa đổi năm 2013 còn tạo lập cơ sở hiến định để hình thành
cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119). Đồng thời, Hiến pháp giao cho: Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà
nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Như vậy, Hiến pháp sửa đổi lần này tuy chưa hình thành cơ chế bảo

vệ Hiến pháp chuyên trách như Nghị quyết của Đảng đã đề ra, nhưng với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở
hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định.
Kiểm soát quyền lực nhà nước gồm:

3


+ Giám sát của Quốc hội là hoạt động giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, mà
trước hết là Chủ tịch nước, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội nhằm đảm bảo sự tuân thủ hiến pháp, pháp luật và hiệu lực tham gia hoạt động của các cơ quan này.
+ Giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, TAND,
VKSND cùng cấp nhằm đảm bảo cho các quy định của pháp luật và nghị quyết HĐND được thi hành nghiêm
chỉnh tại địa phương.
+ Giám sát của MTTQVN và các thành viên của Mặt trận là quyền giám sát của một tổ chức mang tính
liên minh chính trị, liên hiệp, phối hợp và thống nhất hoạt động của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước đại biểu dân cử và CBCC nhà nước thông qua việc động
viên nhân dân thực hiện quyền giám sat, thực hiện quyền giám sát với cơ quan nhà nước và tổng hợp ý kiến
của nhân dân cũng như của các thành viên để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
+ Quyền giám sát của nhân dân là quyền của nhân dân khi xem xét, đánh giá hoạt động của nhà nước
với tư cách của các đại biểu dân cử, trực tiếp tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện quyền
khiếu nại tố cáo hoặc thông qua hoạt động của các tổ chức thanh tra nhân đân do mình bầu ra.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra:
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh
vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn
- kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
- Kiểm tốn nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,

thực hiện kiểm tốn việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản cơng, giúp tài chính nhà nước minh bạch, hạn
chế tham nhũng.
Hiến pháp 2013 bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta: “Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2) là bước tiến bộ quan trọng trong việc hoàn thiện cơ
chế thống nhất, phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động có
hiệu quả hơn. Đồng thời, đây vừa là quan điểm, vừa là nguyên tắc chỉ đạo cơng cuộc, xây dựng và hồn thiện
bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ mới.
Câu 2. Hệ thống chính trị Việt Nam vận hành theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ. Anh, chị hãy làm rõ quy định trên.
Hệ thống chính trị là một tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà
nước, các đảng chính trị, các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị xã hội…) được xây dựng theo một kết
cấu chức năng nhất định, vận hành trên những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể nhằm thực thi quyền lực
chính trị.
Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Các tổ chức trong hệ thống này vận hành theo cơ chế “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, được gắn kết với nhau theo những quan hệ, cơ chế và
nguyên tắc nhất định trong một mơi trường văn hóa chính trị đặc thù.
Thứ nhất, “Đảng lãnh đạo”
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng cơng tác tuyên truyền, thuyết phục,
vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh

4


đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất
vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và
đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là
người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy

mạnh mẽ vai trị, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, do đó giữ vai trị quan trọng trong hệ thống chính trị và
trong xã hội: đảng không chỉ là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị mà cịn là lực lượng lãnh đạo
tồn hệ thống chính trị và lãnh đạo tồn bộ xã hội. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Điều 4, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: Đảng “là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể lãnh đạo Nhà nước và xã
hội.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là hệ thống các phương pháp, các hình thức, các
biện pháp mà Đảng tác động vào Nhà nước để hiện thực hóa ý chí và mục tiêu của Đảng. Về nguyên tắc, mục
tiêu cao nhất của Đảng lãnh đạo Nhà nước là tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân bằng Nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước trong quá trình xây
dựng xã hội mới, nhằm làm cho mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nói chung, của từng thời kỳ nói
riêng được thực hiện có hiệu quả cao. Theo đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước bị quy định
bởi đặc tính khách quan và chức năng cơ bản của hệ thống tổ chức nhà nước và tính chất lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phản ánh mối quan hệ giữa
mục tiêu và phương tiện, điều kiện đạt mục tiêu, hay nói rộng ra, đó là mối quan hệ giữa chức năng của hệ
thống và cơ chế thực hiện.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Cơng đồn, Đồn Thanh
niên cộng sản, Hội Nơng dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) là tất yếu và quan trọng để các tổ
chức này hoạt động đúng tơn chỉ, mục đích, phát huy chức năng giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây
dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Mỗi đối tượng lãnh đạo của Đảng vừa có những điểm chung, vừa có những điểm riêng trong phương
thức lãnh đạo của mình. Tuy có những điểm khác nhau trong phương thức lãnh đạo nhằm phù hợp với từng
đối tượng cụ thể và cũng là để phát huy cao nhất sức mạnh của từng lực lượng trong tiến trình phát triển đất
nước; nhưng mục tiêu cao nhất và duy nhất của Đảng là lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội thực hiện thắng
lợi sự nghiệp đổi mới, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ hai, “Nhà nước quản lý”
Nhà nước quản lý là đề cập đến chức năng quản lý xã hội của bộ máy quyền lực - Nhà nước. Nội dung

quản lý bao gồm: xây dựng kế hoạch, sắp xếp tổ chức, chỉ đạo điều hành và kiểm sốt tiến trình hoạt động…
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để có thể thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước phải được tổ chức
thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền lực được phân cơng và phối hợp thực
hiện có hiệu quả.
Nhà nước quản lý xã hội trước hết bằng hệ thống quy phạm pháp luật, bằng hệ thống các cơ quan quản
lý nhà nước từ các bộ phận đến các cơ sở, trong đó khơng loại trừ các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thực
hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Nhà nước quản lí trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội quản lý
theo ngành theo lãnh thổ theo cấp độ vĩ mô hoặc vi mơ. Nhà nước thực hiện quản lí bằng cả chính sách và
các cơng cụ địn bẩy khác. Bên cạnh đó cũng tăng cường việc kiểm tra, giám sát, kiểm toán, thanh tra việc
thực hiện các quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân nhằm phát hiện để điều chỉnh, ngăn ngừa
những tiêu cực đồng thời xử nghiêm để làm gương. Đồng thời tuyên dương, khen thưởng kịp thời đối với
những việc làm tốt có lợi cho dân, có lợi cho xã hội. Vì mục tiêu của quản lý nhà nước là phát huy tiềm năng
sáng tạo của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cho nhân dân được tất cả những gì mà
pháp luật khơng cấm đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, nhằm phát triển
nhanh và mạnh mẽ lực lượng sản xuất của đất nước

5


Thứ ba, về nhân dân làm chủ: Đây là yếu tố trung tâm của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ: Quyền lực của Đảng và Nhà
nước đều từ quyền lực của nhân dân.
Nhân dân làm chủ: là đề cập đến quyền lực của nhân dân. Quyền lực thuộc về nhân dân thể hiện tính
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ: quyền lực của
Đảng và làm chủ của mình khơng chỉ thơng qua bộ máy nhà nước, mà họ cịn tự mình thực hiện quyền ấy.
Những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có quan hệ trực tiếp đến đời
sống của quần chúng nhân dân đều là nội dung mà người dân cần biết, cần bàn, cần thực hiện và cần kiểm
tra, giám sát việc thực hiện, đặc biệt, trong công tác xây dựng, thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Nhân dân làm chủ, trước hết được xác định ở địa vị chủ thể quyền lực nhà nước, chỉ có nhân dân mới
có quyền đối với quyền lực nhà nước. Điều 2 Hiến pháp 2013 ghi rõ: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Do dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhưng nhân dân ủy quyền cho các đại biểu của mình và giám sát đại biểu
đó trong q trình thực thi quyền lực nhà nước.
Điều 6 Hiến pháp 2013 ghi: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân
chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước". Ngày
nay quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta không chỉ được đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật, mà bằng hệ
thống truyến thông, các phương tiện thôn tin đại chúng, các cuộc vận động, thông qua thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, thông qua vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đồn thể nhân dân.
Trong lịch sử Việt Nam, ông cha ta ln đề cao và đặt lên hàng đầu vai trị của nhân dân trong cấu tạo
quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội. Đảng ta ra đời, tồn tại, phát triển khơng vì mục đích tự thân mà vì
hạnh phúc của nhân dân. Điều này được thể hiện nhất quán hơn 87 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ
quan điểm lý luận đến thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: Đảng Cộng
sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc. Mục đích duy nhất của Đảng ta là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất
nước giàu mạnh, phồn vinh, đồng bào được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc. Nhờ vậy, Đảng và Nhà
nước ta luôn phát huy được sức mạnh của nhân dân để tiến hành đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do
và tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông
qua QH, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước
Nhà nước của ta là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân. Từ Hiến pháp năm 1946 đến nay đều thống
nhất quan điểm đó. Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân... do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Hiến pháp khơng chỉ quy định Nhân dân là chủ thể của Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
Nhân dân mà còn quy định phương cách Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước của mình. Điều 6 Hiến
pháp 2013 ghi: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông

qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước".
Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ với những quy chế, thiết chế để nhân dân thảo luận, biểu quyết,
tham gia trực tiếp quyết định công việc của cộng đồng nhà nước.
Đây là hình thức tham gia của mọi cơng dân một cách bình đẳng và trực tiếp vào các quyết định trong
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… theo biểu quyết đa số, là sự thể hiện một cách trực tiếp ý chí
của chủ thể quyền lực về những vấn đề quan trọng nhất.
Ví dụ: Tất cả công dân đủ điều kiện trực tiếp đi bỏ phiếu bầu ra những người mình tin tưởng, đủ đức đủ
tài vào trong Hội đồng nhân dân các cấp và các đại biểu quốc hội.

6


Dân chủ trực tiếp là việc Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước.Tức là Nhân dân thể hiện
một cách trực tiếp ý chí của mình (với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước) về một vấn đề nào đó mà
khơng cần thơng qua cá nhân hay tổ chức thay mặt mình và ý chí đó có ý nghĩa bắt buộc phải thi hành. Hình
thức biểu hiện cụ thể của dân chủ trực tiếp như ứng cử, bầu cử Quốc hội, HĐND, thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở, trưng cầu dân ý... Các cuộc đối thoại trực tiếp của nhân dân với cơ quan Nhà nước hiện nay cũng là
hình thức biểu hiện của dân chủ trực tiếp.
Ưu điểm của hình thức dân chủ trực tiếp là Nhân dân trực tiếp quyết định, phản ảnh đúng ý chí, nguyện
vọng của mình nhưng hạn chế của hình thức này là nhhững vấn đề mà Nhân dân trực tiếp quyết định khơng
nhiều vì điều kiện khơng cho phép.
Dân chủ trực tiếp được mở rộng đến đâu còn phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
trình độ dân trí, nhận thức chính trị, trình độ pháp lý của nhân dân...của một nước. Ở nước ta do trải qua cuộc
chiến tranh kéo dài và hiện nay đang trong quá trình xây dựng nên dân chủ trực tiếp trên thực tế mới thực
hiện mức độ nhất định. Hiến pháp năm 1946, tại Ðiều 21 có quy định: "Nhân dân có quyền phúc quyết về
Hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia..." và Ðiều 32 quy định: "Những việc có quan hệ
đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba số nghị viên đồng ý...". Các Hiến
pháp 1959, 1980, 1992 và 2013 đều có đề cập đến việc trưng cầu dân ý. Tuy nhiên đến nay chúng ta chưa tổ
chức được cuộc trưng cầu dân ý nào.
Nhận thức được hạn chế nói trên nên điều 6 Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi so với điều 6 của Hiến

pháp năm 1992, quy định rõ hơn các phương cách Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp.
(Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định:Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân là các cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước Nhân dân). Để hiện thực hóa quy định nói trên, và rút kinh nghiệm trước đây do thiếu cơ
chế cụ thể nên quy định của Hiến pháp về Trưng cầu dân ý - Một nội dung của dân chủ trực tiếp - chưa được
thực hiện.
Dân chủ đại diện là hình thức Nhân dân thơng qua các cơ quan nhà nước, các cá nhân được Nhân dân
ủy quyền để thực hiện ý chí của Nhân dân. Dân chủ đại diện là phương thức chủ yếu để thực hiện quyền lực
nhân dân. Dân chủ đại diện có ưu điểm là với hình thức này chúng ta quản lý được mọi mặt đời sống xã hội,
nhưng có hạn chế là ý chí, nguỵen vọng của người dân phải qua trung gian của ngừoi đại diện, có thể bị méo
mó bởi nhiều lý do như trình độ nhận thức, quan điểm, lợi ích...
Dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ thông qua những quy chế, thiết chế để nhân dân bầu ra những
người đại diện thay mặt mình quyết định các cơng việc chung của cộng đồng, đất nước.
Là hình thức nhân dân thể hiện quyền làm chủ của mình, tham gia quản lí nhà nước và xã hội thơng
qua hoạt động của những người đại diện, cơ quan đại diện của mình ở các cấp chính quyền như ở Mặt trận tổ
quốc, các đồn thể nhân dân.
Là hình thức thực hiện hóa quyền làm chủ của người dân. Cơ cấu tổ chức của hình thức dân chủ gián
tiếp cho phép bao quát toàn bộ lãnh thổ từ địa phương đến trung ương, cho phép người dân làm chủ trên mọi
lĩnh vực của cuộc sống.
Ví dụ: Đại biểu quốc hội là người đại diện cho nhân dân, được sự ủy thác của nhân dân, thay mặt nhân
dân tham gia xây dựng các đạo luật để quản lí xã hội.
Khi nói đến tính đại diện người ta hay nghĩ đến các cơ quan dân cử, theo tơi điều đó đúng nhưng chưa
đủ. Quyền lực nhà nước bao gồm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Khi nói quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân thì chúng ta hiểu quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp là thuộc về nhân dân. Như
nói ở trên, do điều kiện khơng cho phép nên số lượng vấn đề nhân dân quyết định trực tiếp không nhiều, bởi
vậy nhân dân lập ra và trao quyền cho các cơ quan nhà nước để thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của
mình; các cơ quan này phải chịu sự giám sát của nhân dân và chỉ được thực hiện quyền lực trong giới hạn
cho phép. Như vậy, cơ quan được nhân dân ủy quyền không chỉ là cơ quan dân cử mà bao gồm cả cơ quan
hành pháp và tư pháp, khi hoạt động các cơ quan này với tư cách là nhân dân, đại diện nhân dân để thực thi

nhiệm vụ. Nhận thức điều này có ý nghĩa trong thực tế là các cơ quan nhà nước kể cả lập pháp, hành pháp và
tư pháp phải thấy rằng quyền mà các cơ quan này có được là do nhân dân trao, phải chịu trách nhiệm trước

7


nhân dân. Khơng chỉ có Quốc hội, HĐND các cấp lắng nghe ý kiến nhân dân khi ban hành luật, nghị quyết,
mà các cơ quan hành pháp, tư pháp cũng phải thu thập, lắng nghe ý kiến nhân dân trong quá trình thực thi
nhiệm vụ của mình.
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân, đều
có vai trò quan trọng trong nền dân chủ. Nền dân chủ phát triển thì dân chủ trực tiếp được mở rộng, ngược lại
đẩy mạnh thực hiện dân chủ trực tiếp thì sẽ thúc đẩy nền dân chủ phát triển. Để Nhân dân thực sự là chủ thể
của Nhà nước thì phải thực hiện tốt cả dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Trưng cầu dân ý, một nội dung
quan trọng của hình thức dân chủ trực tiếp phải được luật hóa, trong đó quy định những việc gì phải do nhân
dân bàn và quyết định, quy định rõ trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành... Các cơ quan được Nhân dân trao
quyền phải thực hiện tròn trách nhiệm của mình. Các đại biểu Quốc hơi, HĐND phải thường xuyên tiếp xúc
với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Quốc hội và HĐND các cấp khi quyết định một vấn đề nào đó
phải phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Các cơ quan hành chính và tư pháp từ trung ương xuống
địa phương, người có thẩm quyền trong các cơ quan đó phải tận tụy phục vụ nhân dân, tiến hành cải cách
hành chính để tạo thn lợi cho nhân dân, khơng được cửa quyền hách dịch với nhân dân.
Theo quy định tại Điều 9 Hiến pháp năm 2013; khoản 1, Điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì
đối tượng giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội gồm: hoạt động của cơ quan nhà nước; cán bộ, công
chức nhà nước và đại biểu dân cử. Những quy định trên cho thấy phạm vi, đối tượng giám sát của các tổ chức
này là rất rộng. Thực tế, cho đến nay, các tổ chức chính trị - xã hội và các đồn thể nhân dân thực hiện vai trị
giám sát chủ yếu ở hai lĩnh vực “dân chủ” và “dân sinh”; lựa chọn những vấn đề mà người dân đang quan
tâm và còn bức xúc.
Kết quả giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội
Thứ nhất, thực hiện vai trò tham gia giám sát cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân
dân)
Thực hiện quyền và trách nhiệm của mình, trong những năm qua, các tổ chức chính trị - xã hội thơng

qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cố gắng, chủ động tổ chức nhiều hoạt động giám sát như giám sát thực
hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân; giám sát việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư; giám
sát đầu tư của cộng đồng,...
Trong các kỳ họp định kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp (6 tháng và cuối năm), các tổ chức chính trị xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã kiến nghị chính quyền cùng cấp quan tâm giải quyết những
vấn đề thuộc về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và cả quyền dân sự, chính trị của người dân như: giải tỏa
đền bù, tái định cư, vấn đề việc làm, xóa đói giảm nghèo, khám, chữa bệnh, học phí, bầu các chức danh chủ
chốt của chính quyền cấp xã,.... Ngồi ra, các tổ chức này còn giám sát việc giải quyết những kiến nghị của
các thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đặt ra trong kỳ họp Hội đồng nhân dân trước và nhắc lại tại kỳ
họp Hội đồng nhân dân tiếp theo nếu chính quyền chưa giải quyết (hoặc đã và đang giải quyết, nhưng chưa
phản hồi cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
Một trong những nội dung giám sát được quan tâm thực hiện trong thời gian vừa qua là việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các cơ quan nhà nước mà chủ yếu là Ủy ban nhân dân các cấp. Các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp đã nghiên cứu kỹ để thực hiện chức năng giám sát và thể hiện chính kiến của
mình khi kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền giải quyết những khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực hoạt
động của từng tổ chức.
Ngoài việc xử lý bình thường như nghiên cứu, lập phiếu chuyển, tại một số địa phương, như Thành phố
Hồ Chí Minh, Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố còn tổ chức phòng tiếp dân với sự tham gia
của một số luật sư nhằm trợ giúp pháp lý, giải thích pháp luật, hướng dẫn người dân khiếu nại đúng nơi có
thẩm quyền. Lãnh đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố còn trực tiếp tiếp dân để nghe người
dân trình bày nội dung muốn khiếu nại, tố cáo mà khơng thể trình bày đầy đủ trong đơn, trên cơ sở đó có ý
kiến, kiến nghị với chính quyền hoặc giải thích lại cho người dân nếu chính quyền đã giải quyết đúng theo
quy định của pháp luật. Với những trường hợp chưa “thấu tình, đạt lý”, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc mời Ủy ban nhân dân đến làm việc và nghe trình bày trực tiếp để có ý kiến giải quyết cụ thể từng
trường hợp.

8


Đặc biệt trong giám sát việc bảo đảm quyền của người nghèo và của các nhóm yếu thế khác (người già,

người khuyết tật,...), các tổ chức chính trị - xã hội thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ln đóng vai
trị nổi bật, kể cả trong việc đề xuất chủ trương, tổ chức thực hiện, như xây dựng những căn nhà “Đại đoàn
kết” cho các hộ nghèo, lớp học tình thương, hay trạm y tế thơn, bản,..., nhất là tại 62 huyện nghèo.
Thứ hai, thực hiện vai trò tự giám sát
Các tổ chức chính trị - xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức giám sát nhiều cơng
trình, dự án tại các địa phương mang tính chất phản biện xã hội, chẳng hạn việc giám sát dự án lọc nước Hồ
Tây ở Hà Nội và dự án cổ phần hố bệnh viện Bình Dân tại thành phố Hồ Chí Minh(1),.... Ở Hà Nội, sự giám
sát và phản biện của Liên hiệp các hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam đã phát hiện các yếu tố không hợp lý
của Dự án lọc nước Hồ Tây. Kết quả là Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã không tiến hành thực hiện dự
án tốn kém và không hợp lý này. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
thành phố đã mời các chuyên gia, bác sĩ từng công tác trong ngành y tế tham gia phản biện. Kết quả, đề án
này phải dừng lại do khó có thể đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh của đại đa số người dân, nhất là dân nghèo
và dân cận nghèo.
Việc giám sát đối với đại biểu dân cử được các tổ chức chính trị - xã hội các cấp quan tâm nhằm bảo vệ
quyền chính trị của người bầu cử, trong đó chủ yếu là giám sát việc tham gia tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi
kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Qua giám sát, các tổ chức chính trị - xã hội, thơng qua Mặt trận Tổ
quốc, thường có văn bản chính thức gửi Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp, góp ý với các đại biểu
Hội đồng nhân dân vắng nhiều lần trong các cuộc tiếp xúc cử tri. Nhìn chung, các đại biểu Hội đồng nhân
dân đã tiếp thu, điều chỉnh theo khuyến nghị qua việc giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong những năm gần đây, cùng với việc phát triển kinh tế, việc bảo vệ các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa của người dân ngày càng trở nên bức thiết. Trước tình hình trên, các tổ chức chính trị - xã hội và đồn thể
nhân dân đã chủ động và tích cực thực hiện giám sát đối với những việc như giải tỏa đền bù, tái định cư,
chăm lo đời sống của người dân tại nơi ở mới trong quá trình thực hiện các dự án giao thông, dự án công
nghiệp và đô thị, ... Vai trò giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội cũng được đề cao và giữ vị trí ngày
càng quan trọng trong việc giải quyết tình trạng gây ơ nhiễm mơi trường của các doanh nghiệp tại các khu
công nghiệp - khu chế xuất; thực hiện vệ sinh an tồn thực phẩm, phịng chống dịch bệnh; giải quyết các vụ
đình cơng của cơng nhân tại các khu công nghiệp và công tác thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân
sự, ....
Thứ ba, thực hiện vai trò vận động nhân dân giám sát ở cơ sở
Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng(2) quy định: người dân được khuyến khích theo dõi, đánh giá

việc chấp hành các quy định về quản lý đầu tư của cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư, chủ đầu tư, ban
quản lý dự án, các nhà thầu và đơn vị thi công dự án trong quá trình đầu tư. Một trong những hoạt động giám
sát cơ bản của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức đoàn thể trong giai đoạn hiện nay, như các quy định
trong Chương II của Quy chế - là tổ chức thực hiện giám sát đầu tư của cộng đồng (Điều 7 đến Điều 11) ở
cấp xã.
Các tổ chức chính trị - xã hội thơng qua tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền: hướng dẫn,
động viên cộng đồng tích cực thực hiện quyền giám sát đầu tư theo quy định của quy chế trên; tổng hợp,
phản ánh, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền về các nội dung giám sát. Có hai cách thức thực hiện vai
trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát đầu tư cộng đồng là: Thứ nhất, giám sát thông qua
Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng theo yêu cầu của cộng đồng; Thứ hai, giám sát thông qua Ban Thanh tra
nhân dân.
Nhìn chung, hiệu quả nổi bật trong việc tham gia giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội là:
- Bảo vệ quyền có nhà ở, quyền chăm sóc y tế, quyền học tập của một bộ phận người nghèo, người có
cơng với nước, người dân tộc thiểu số; bảo vệ quyền an sinh xã hội của phần lớn người dân thuộc diện thu
hồi đất để xây dựng các cơng trình giao thơng, khu cơng nghiệp, đơ thị.
- Làm rõ việc gây cản trở, thậm chí xâm phạm đến quyền công dân, quyền con người do lợi dụng chức
vụ, quyền hạn của một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là ở cơ sở; thu chi các loại quỹ, thuế, lệ phí; cấp các

9


loại giấy phép, chứng thực xác nhận hồ sơ, tài liệu, văn bằng, chứng chỉ; sử dụng ngân sách và các khoản
đóng góp của nhân dân.
- Phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong một số văn bản dự thảo
của các cơ quan Đảng, Nhà nước; kiến nghị một số nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù
hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
- Phát hiện, kiến nghị khắc phục những sai sót, yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện và sửa đổi,
bổ sung đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho phù hợp với thực tiễn của
đời sống xã hội.

- Góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm và chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng và của
chính quyền các cấp, nhất là các tổ chức giải quyết những công việc trực tiếp liên quan đến quyền con người,
quyền công dân.
- Giúp cấp ủy đảng, chính quyền các cấp nắm chắc hơn tình hình cán bộ, công chức, đảng viên thuộc
diện quản lý về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, quan hệ với dân, trên cơ sở đó có hướng bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ tốt hơn; phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi tiêu cực, quan liêu xa dân, không tôn trọng dân,
thiếu trách nhiệm với dân; kịp thời giáo dục, xử lý những cán bộ, cơng chức, đảng viên có sai phạm, góp
phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh phịng chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, làm trong sạch đội ngũ cán bộ,
công chức, đảng viên.
- Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội và đồn thể nhân dân trong việc tham gia xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân, và trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Hạn chế, nguyên nhân và giải pháp
Về hạn chế, tuy có nhiều văn bản pháp luật đề cập đến vai trò và trách nhiệm giám sát của Mặt trận
nhưng vẫn thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể, chưa có biện pháp chế tài thích hợp với việc tiếp nhận và xử lý,
giải quyết kết quả giám sát do Mặt trận Tổ quốc kiến nghị; thậm chí nếu có giải quyết thì chỉ mang tính chiếu
lệ, từ đó làm cho người dân mất niềm tin vào nơi gửi gắm tâm tư, nguyện vọng, các ý kiến, kiến nghị của
mình là Mặt trận Tổ quốc.
Nguyên nhân của hạn chế: Một mặt, trong hầu hết các văn bản pháp luật hiện nay, vai trò giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ mới dừng ở quy định có tính ngun tắc về quyền năng giám sát, chưa có quy
định cụ thể và đầy đủ về cơ chế, chính sách, về quyền và trách nhiệm của chủ thể bị giám sát và chủ thể giám
sát, về điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát, cơ chế tiếp nhận, giải quyết, xử lý vi phạm và trả lời cho
chủ thể giám sát. Mặt khác, ở những lĩnh vực hoạt động giám sát tuy có cơ chế đầy đủ, rõ ràng, hoặc pháp
luật quy định cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện, nhưng việc xem xét, xử lý của cơ quan đối tượng giám sát
không thực hiện đúng các quy định về thời hiệu giải quyết vụ việc, về việc trả lời kiến nghị.
Về giải pháp
- Quốc hội sớm ban hành Luật về giám sát của nhân dân, nhằm tạo hành lang pháp lý để nhân dân
thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, thực hiện quyền và trách nhiệm giám
sát hoạt động của Đảng, Nhà nước.
- Chính phủ phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chỉ đạo thực

hiện tốt các nghị định, nghị quyết liên tịch giữa hai bên nhằm thực hiện Quy chế về giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Trong đó cần có cơ chế bảo vệ những tổ
chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân và người dân thực hiện giám sát nhằm bảo đảm quyền công dân.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố cần tăng cường các hoạt động giám sát; chỉ
đạo, hướng dẫn cấp dưới thực hiện tốt Luật Thanh tra nhân dân, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, Quyết định số 80 của Thủ tướng Chính phủ về giám sát đầu tư của cộng đồng, Nghị quyết liên tịch
giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về giám sát cán bộ, cơng chức, đảng viên
ở khu dân cư. Q trình thực hiện cần được tổng kết kinh nghiệm, có kiến nghị với Đảng, Chính phủ, Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn nhằm thực hiện tốt các

10


văn bản pháp luật quy định về hoạt động giám sát của các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam./.
Câu 3: Anh , chị hãy cho biết pháp luật có vai trị như thế nào đối với quản lý nhà nước và quản lý xã
hội? Theo anh chị cần phải làm gì để phát huy tốt vai trò của pháp luật ở nước ta hiện nay?
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, là yếu tố đảm bảo
sự ổn định và trật tự của xã hội.
Như chúng ta đều biết pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với quản lý nhà nước, giúp nhà nước quản lý
xã hội nghiêm minh, thuận lợi, đảm bảo sự công bằng và ý thức thượng tơn pháp luật của tồn dân.Vai trị của pháp
luật đối với quản lý NN được thể hiện trên các mặt: đối với kinh tế, đối với hệ thống chính trị, đối với đạo đức và tư
tưởng, đối với quá trình hội nhập quốc tế.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, không thể không khẳng định vai trò
quan trọng của pháp luật đối với quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Điều 8 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Với mục tiêu xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật ở
nước ta hiện nay có vai trị đặc biệt quan trọng và được thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, vai trò của pháp luật đối với kinh tế:
Đối với kinh tế, pháp luật là phương tiện hàng đầu xác định địa vị pháp lý bình đẳng đối với các chủ
thể tham gia quan hệ kinh tế; tạo lập các “khung pháp lý” để các chủ thể quản lý nhà nước dựa vào các chuẩn
mực pháp lý để điều khiển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thông qua pháp luật, nhà nước tạo ra môi trường
thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh thực hiện có hiệu
quả.
Pháp luật là phương tiện làm cho các quan hệ kinh tế trở thành quan hệ pháp luật. Khi đó, pháp luật xác
định rõ các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, quyền và nghĩa vụ cũng như khách thể mà các bên tham gia
hoạt động kinh tế.
Pháp luật là phương tiện củng cố và bảo vệ những nguyên tắc vốn có của nền kinh tế thị trường như:
tính quy định của lợi ích, nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản xuất, bảo đảm tôn trọng sự cạnh tranh,
cạnh tranh lành mạnh…Đồng thời, pháp luật còn là phương tiện bảo vệ lợi ích kinh tế tốt nhất cho các bên
tham gia hoạt động kinh tế trong trường hợp xảy ra tranh chấp kinh tế, vi phạm hợp đồng kinh tế…
Thứ hai, vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị
Đối với sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chúng trên quy mơ tồn xã hội. Đồng
thời, pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối của mình trong thực tiễn. Mặt khác, pháp luật còn
là phương tiện phân định rõ phương thức lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước.
Đối với Nhà nước, pháp luật là cơ sở pháp lý tổ chức và hoạt động của chính mình, là sự ghi nhận về
mặt pháp lý trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân, công dân, là phương tiện quản lý có hiệu
lực đối với mọi mặt đời sống xã hội. Pháp luật là phương tiện chứa đựng trong nó sự kết hợp giữa thuyết
phục và cưỡng chế, giữa tập trung và dân chủ, giữa năng động, sáng tạo với kỷ cương, kỷ luật. Do đó, khi
thực hiện các chức năng của mình, Nhà nước khơng thể khơng sử dụng phương tiện pháp luật.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, pháp luật là cơ sở pháp lý đảm bảo cho nhân dân tham gia vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội của mình. Pháp luật thể chế và phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân dựa
vào pháp luật để phản ứng đấu tranh với các hành vi lạm quyền, cưỡng chế ngoài quy định của pháp luật.
Thứ ba, vai trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng:

11



Đối với đạo đức, các nguyên tắc căn bản của đạo đức được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật,
hay nói cách khác, giữa đạo đức và pháp luật có sự đan xen về mặt nội dung. Do vậy, pháp luật xã hội chủ
nghĩa bảo vệ và phát triển đạo đức xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính cơng bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lịng
tin và lương tâm con người. Sự ghi nhận bằng pháp luật các nghĩa vụ, đạo đức trước xã hội nhằm củng cố và
bảo vệ hạnh phúc gia đình, giáo dục thế hệ trẻ, khuyến khích sự giúp đỡ đồng chí, tính lương thiện, thật thà…
thể hiện vai trò của pháp luật.
Đối với tư tưởng, có thể nói, pháp luật là phương tiện đăng tải thế giới quan khoa học, các tư tưởng
tiến bộ và các giá trị nhân loại. Vì thế, pháp luật xã hội chủ nghĩa có vai trị quan trọng trong củng cố và nâng
cao nhận thức tư tưởng cho con người dưới chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, vai trị của pháp luật đối với q trình hội nhập quốc tế.
Pháp luật là công cụ, phương tiện thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại của các quốc gia trên
trường quốc tế. Đồng thời, pháp luật còn là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong q
trình hội nhập quốc tế.
Với ý nghĩa đó Pháp luật là công cụ, phương tiện thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại của các quốc gia
trên trường quốc tế. Đồng thời, PL còn là phương tiện để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Như vậy từ việc phân tích vai trị của PL ta thấy được tầm quan trọng của PL không chỉ đối với mọi cá nhân, tổ
chức mà còn đối với sự tồn tại và vận hành của XH.
* Để phát huy tốt vai trò của pháp luật ở nước ta hiện nay
Nhà nước Việt Nam là nhà nước xã hội chủ nghĩa, pháp luật xã hội chủ nghĩa là cơng cụ chun chính
giai cấp, là phương tiện để bảo vệ lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thực hiện những mục
đích mà nhà nước và nhân dân đề ra; mặt khác pháp luật là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội mang
tính quy phạm và tính bắt buộc chung để tổ chức quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội vì sự tồn tại
và phát triển của mỗi con người và của cả xã hội; ngồi ra pháp luật cịn là cơng cụ để bảo vệ cơng lý và cơng
bằng xã hội.Vai trị của pháp luật là hết sức quan trọng, vì vậy để phát huy tốt vai trò của pháp luật ở nước ta
hiện nay, một số giải pháp được đặt ra như sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN Việt Nam:
Một hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ, đồng bộ là yếu tố quan trọng hàng đầu để tăng cường pháp chế xã hội

chủ nghĩa. Pháp luật phải phù hợp với trình độ dân trí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với đường lối đổi mới của
Đảng và Nhà nước. Hiện nay hệ thống PL của nước ta đang dần hồn thiện tuy nhiên cịn có sự chồng chéo, cồng
kềnh, tính hiệu lực hiệu quả chưa thực sự cao, một số luật chưa đi vào thực tiễn cuộc sống, thậm chí khơng phù hợp
với điều kiện kinh tế XH của đất nước, chậm thay đổi so với sự thay đổi nhanh chóng của đời sống XH.
Ngày 24 tháng 05 năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Để xây dựng một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, Nghị quyết đã chỉ rõ
những giải pháp về xây dựng và thi hành pháp luật như sau:
- Các giải pháp về xây dựng pháp luật:
+ Xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để xây dựng và hồn thiện pháp luật.
+ Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật.
+ Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội.
+ Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động
xây dựng pháp luật.
+ Hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật.
+ Hồn thiện pháp luật về Cơng báo.
+ Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại
quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hồn thiện pháp luật.

12


- Các giải pháp thi hành pháp luật: Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật trong Nghị quyết này với các nội dung cải cách hành chính và
các giải pháp về cải cách tư pháp.
+ Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng và triển khai Chương trình
Quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật dài hạn.
+ Cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, trọng tâm là hoạt động xét xử của toà án theo
nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp.
+ Đề cao kỷ luật, kỷ cương trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước.

+ Bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cán bộ, công chức làm công tác pháp luật.
+ Huy động các nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế.
Ví dụ về một số Luật hiện nay chưa được hoàn thiện hoặc còn lỗ hỏng, bất cập:
- Trên cơ sở những sửa đổi của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ mơi trường, Quốc hội khóa XIII đã
thơng qua Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn thực hiện, các quy định
trong Luật này đã bộc lộ nhiều hạn chế ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường
khơng khí, đặc biệt là quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân được Hiến pháp ghi nhận.
Sau khi ban hành, chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường khơng khí
được ghi nhận trong Luật Bảo vệ mơi trường năm 2014 nên rất khó thực hiện; chức năng, nhiệm vụ, thể chế
và thiết chế quản lý mơi trường khơng khí đô thị chưa rõ ràng, thiếu nhất quán giữa các ngành tài nguyên môi
trường, giao thông vận tải, chất thải, xây dựng…
Thứ hai, tích cực chủ động tổ chức thực hiện pháp luật, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống xã hội để mọi người hiểu và thực hiện tốt nhằm phát
huy vai trị của pháp luật.
Tìm hiểu pháp luật để nâng cao hiểu biết về pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật là bổn phận, nghĩa vụ của
công dân. Đồng thời trách nhiệm của NN và cơ quan quản lý hành chính là đưa PL đến với nhân dân và đó cũng là
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Vì vậy các cơ quan nhà nước phải có kế hoạch tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật cho nhân dân; trong đó có sự phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành với
các tổ chức chính trị xã hội.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, phù hợp với từng
hoàn cảnh điều kiện cụ thể trong những thời gian, không gian và đặc điểm của từng đối tượng. Pháp luật phải
được công khai đăng tải trên công báo Trung ương cũng như địa phương. Ngoài ra, pháp luật đến với người
dân qua các kênh thơng tin: Báo chí, tạp chí, đài phát thanh, đài truyền hình, phát hành sách pháp luật…Phải
thường xuyên đổi mới hình thức nội dung và hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục để mang lại hiệu
quả.
Tăng cường giáo dục pháp luật trong trường học, cấp học....; thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức giáo
dục pháp luật.
Thứ ba, tăng cường kiểm tra, thanh tra và giám sát kiểm tốn việc thực hiện pháp luật nhằm phịng
ngừa và xử lý các vi phạm pháp luật.
Đây là giải pháp cần thực hiện thường xun và tồn diệnnhằm phịng, chống các vi phạm PL. Tăng

cường kiểm tra, thanh tra, giám sát cũng là để khắc phục việc tuyên truyền phổ biến luật một chiều, nắm bắt
tình hình thực hiện pháp luật, phát hiện các sơ hở của pháp luật để có kiến nghị sửa đổi bổ sung…
Kiểm tra là hoạt động của các cơ quan NN cấp trên với các cơ quan NN cấp dưới; của các cơ quan NN đối với
các tổ chức chính trị, chính trị - XH, các tổ chức XH nghề nghiệp, các tổ chức XH, các đơn vị kinh tế, các cộng đồng
dân cư về tình hình thực hiện PL.
Tăng cường thanh tra việc thực hiện PL là hoạt động của các cơ quan thanh tra NN, phát hiện các sơ hở của cơ
chế, chính sách PL để kiến nghị sửa đổi bổ sung. Đồng thời thanh tra việc thực hiện PL để có những kết luận đánh giá
sự thực hiện đúng đắn, vạch ra những tổ chức, cá nhân VPPL để kiến nghị biện pháp xử lý.

13


Tăng cường giám sát việc thực hiện PL là tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt
động hành pháp và hoạt động tư pháp. Tăng cường giám sát của các cơ quan ngôn luận, các tổ chức chính trị - XH và
giám sát trực tiếp của nhân dân. Tăng cường công tác kiểm toán NN đối với việc quản lý sử dụng tài sản công.
Thứ tư,tổ chức thực hiện PL thông qua việc xử lý nghiêm minh các hành vi VPPL:
Ngoài việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục PL, NN còn phải làm tốt cơng tác cải cách hành chính, cải cách tư
pháp đồng thời có chế tài xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm PL đối với các cá nhân, tổ chức có các hành vi vi
phạm PL bằng các chế tài: chế tài hình sự, chế tài dân sự, chế tài hành chính, chế tài kỷ luật.
Xử lí nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật để để đảm bảo tính răn đe, tính nghiêm minh của pháp luật;
bảo vệ PL và nâng cao pháp chế XHCN, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ ANCT,
TTATXH, bảo vệ lợi ích NN và lợi ích tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các lĩnh vực trật tự PL khác.
Thường xun hệ thống hóa pl, rà sốt, đánh giá, tổng kết luật để có hướng chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với
sự vận động của XH, bảo đảm cho xã hội phát triển ổn định và bền vững, đồng thời phát huy vai trò và hiệu lực của PL
để góp phần giữ vững xã hội, giữ vững ổ định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước trong
sạch vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân, thực hiện mục tiêu “dân giàu nước
mạnh xã hội, dân chủ, công bằng, văn minh.”
Thứ năm, tăng cường các hoạt động bổ trợ tư pháp.
Hoạt động bổ trợ tư pháp là các hoạt động bổ trợ giúp các hoạt động tư pháp nhằm làm cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án được nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật. Các hoạt động bổ trợ tư

pháp ở nước ta hiện nay là: hoạt động của luật sư và bào chữa viên nhân dân; hoạt động giám định tư pháp;
dịch vụ bảo vệ tư nhân và thám tử tư, và vấn đề trợ giúp pháp lý cho công dân, đặc biệt là trợ giúp miễn phí
cho người nghèo, người thuộc diện chính sách xã hội.
Các hoạt động bổ trợ tư pháp trên có vai trị quan trọng trong việc giải quyết các vụ án dân sự, lao
động, kinh tế, tài chính, đặc biệt là trong các giai đoạn tố tụng hình sự, dân sự, khách quan, đúng pháp luật.
Như vậy muốn thực hành tốt sự quản lý quốc gia, đẩy nhanh sự phát triển của xã hội, mở rộng quan hệ
và cộng tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai trị của luật pháp, phải xây dựng một hệ thống pháp
luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ, thích hợp với những điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời hợp với
xu hướng phát triển chung của tình hình quốc tế và khu vực.
Tóm lại, vai trị của pháp luật đối với nhà nước ta hiện nay là vô cùng quan trọng. Pháp luật và nhà
nước có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, khơng thể tách rời. Nhà nước xuất hiện dẫn đến sự xuất hiện
của pháp luật, pháp luật là cơ sở để nhà nước tồn tại và phát triển.
Câu 4: Anh chị so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa các hình thức thực hiện pháp luật? Liên hệ việc
thực hiện pháp luật tại địa phương nơi anh chị cư trú?
Xây dựng được hệ thống pháp luật tốt là tiền đề, là yêu cầu cấp bách nhằm tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhưng điều quan trọng hơn và có ý nghĩa quyết định là hệ thống
pháp luật đó có được thực hiện khơng và được thực hiện như thế nào. Pháp luật dù tốt như thế nào chăng nữa
nhưng nếu khơng được thực hiện thì pháp luật cũng chỉ “nằm trên giấy”
Thực hiện phát luật là quá trình các thành viên trong xã hội thực hiện các hành vi xử sự theo yêu cầu
của pháp luật dưới những hình thức và tính chất thực hiện khác nhau nhưng cùng nhằm mục đích đảm bảo
cho pháp luật được thực hiện tăng cường pháp chế trong đời sống trong nhà nước và xã hội.
Do tính chất đa dạng, phong phú của quy phạm pháp luật và tính chất khác nhau của thực hiện pháp
luật nên cũng có nhiều hình thức thực hiện pháp luật khác nhau.
Có 4 hình thức thực hiện pháp luật. Cụ thể như sau:
Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật không thực hiện
những hành vi xử sự mà pháp luật cấm.
Vd: Không được chặt cây phá rừng; không được săn bắt, buôn bán động vật quý hiếm ...

14



Chấp hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể thực hiện pháp luật chủ
động thực hiện các nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Vd: Khi tham gia giao thông đường bộ người ngồi trên xe môtô, gắn máy hoặc các xe khác tương tự
khơng đội mũ bảo hiểm thì sẽ bị xử lý vi phạm hành chính.
Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó các chủ thể pháp luật sử dụng quyền
của mình được pháp luật cho phép.
Vd: Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm
trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại (chủ thể) có quyền khiếu nại lần đầu đến
người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành
chính tại Tịa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật chỉ có thể là do cơ quan nhà nước, cán bộ cơng
chức có thẩm quyền tổ chức cho chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật tự mình căn cứ vào các quy
định của pháp luật tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Vd: Các cơ quan Nhà nước có quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối cới các tổ chức, cá
nhân vi phạm (được thay mặt Nhà nước xử lý vi phạm).
Sự giống nhau giữa các hình thức thực hiện pháp luật:
- Tất cả các hình thức trên đều là hình thức thực hiện pháp luật.
- Đều là quá trình mà các thành viên trong xã hội đều thực hiện các hành vi xử sự theo u cầu của
pháp luật.
- Đều có chung mục đích là bảo đảm cho pháp luật được thực hiện trên thực tế, trở thành hiện thực
trong cuộc sống
- Nhằm tăng cường pháp chế trong đời sống, nhà nước và xã hội.
Sự khác nhau được thể hiện qua bảng sau:
ST
T

Hình thức/

Tuân thủ


Chấp hành

Sử dụng

Áp dụng

Tiêu chí
1 Chủ thể

Mọi tổ chức, cá
nhân

Mọi tổ chức, cá
nhân

2 Hình thức

Khơng làm những
gì PL cấm

Thực hiện những
Làm hoặc
Làm theo những gì
nghĩa vụ mà PL u khơng làm
PL qui định
cầu
những gì PL
qui định hoặc
cho phép


3 Tính chất

Thụ động và bắt
buộc

Chủ động và bắt
buộc

Chủ động và
không bắt
buộc

Chủ động và bắt
buộc

4 Trình tự, Khơng phải theo
thủ tục
một quy trình áp
dụng nhất định

Khơng phải theo
một quy trình áp
dụng nhất định

Có 1 số
trường hợp
theo quy
trình, và 1 số
trường hợp

khơng theo
quy trình

Tn thủ theo 1
quy trình, thủ tục
chặt chẽ theo luật
định gồm các giai
đoạn khác nhau

15

Mọi tổ chức,
cá nhân

Cơ quan nhà nước
có thẩm quyền,
CBCC được giao
quyền


5 Trường
Áp dụng trong
hợp
áp trường hợp PL
dụng PL
cấm

Áp dụng trong
trường hợp theo
quy định là nghĩa

vụ (PL yêu cần phải
thực hiện

Áp dụng
trong trường
hợp PL quy
định hoặc
cho phép
thực hiện

Áp dụng trong 4
trường hợp trên

*Liên hệ việc thực hiện pháp luật tại địa phương nơi anh chị đang cư trú.
Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền, sự phối hợp của
các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở từ việc thực hiện các chủ trương về phát triển kinh tế xã hội đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được quan tâm tổ chức thực hiện thường xuyên nên việc
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước ở địa phương có sự chuyển
biến tốt. Người dân chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động và nghiêm chỉnh.
Ví dụ như có nhiều vụ tham nhũng của các cán bộ công chức nhà nước như tham nhũng về đất, tiền
đóng góp của người dân… đã bị người dân khiếu nại, tố cáo. Nhân dân ủng hộ nhiệt tình với các chủ trương
của địa phương; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước,… Qua đó góp phần ổn định xã hội, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
+Về tuân thủ PL: các chủ thể PL không thực hiện các hành vi xử sự mà PL cấm
VD: mọi người không đốt pháo, không trốn thuế, không đi vào đường ngược chiều...
+ Chấp hành PL: mọi người đều chủ động thực hiện các nghĩa vụ do PL quy định
VD: các hộ kinh doanh, cơ sở kd đóng thuế đủ, đúng quy định,
+ Sử dụng PL: do trình độ dân trí từng bước được nâng lên, nên mọi cá nhân, tổ chức đề chủ động, tích
cực trong việc sử dụng các quyền về PL luật của mình như: thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, quyền thuê
luật sư bảo vệ quyền lợi trong các trường hợp bị xâm phạm lợi ích.
+ Áp dụng PL: các cơ quan Nhà nước, cán bộ cơng chức nhà nước có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

do PL quy định thực hiện nghiêm quyền, nghĩa vụ của mình trong khi thi hành cơng vụ khơng để xảy ra sai
sót dẫn đến người dân phải khiếu nại, tố cáo...
Bên cạnh những mặt đạt được, trong thực tiễn hoạt động thực hiện pháp luật ở địa phương vẫn còn tồn
đọng một số hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật như: Trong xã hội vẫn tồn tại một bộ phận
không nhỏ thực hiện pháp luật trái với quy định nhà nước, có thể gọi là vi phạm pháp luật và tội phạm. Ý
thức tuân thủ và chấp hành pháp pháp luật của một bộ phận người dân đặc biệt là người dân tộc thiểu số chưa
cao gây ảnh hưởng xấu tới sự ổn định và trật tự xã hội. Một số người dân còn khiếu nại, tố cáo sai quy định
của pháp luật.
Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế trên là do: Việc nắm bắt các quy phạm pháp luật của đa
số người dân còn hạn chế, nhất là địa phương có tỷ lệ cao dân tộc thiểu số. Việc áp dụng pháp luật của một số
cơ quan nhà nước chưa thật triệt để, chưa mang lại tính răn đe.Công tác tuyên truyền về việc thực hiện pháp
luật đến tất cả mọi đối tượng chưa được sâu sát. Điều kiện vật chất, phương tiện, kinh phí cho hoạt động bảo
đảm thi hành pháp luật, nhất là ở cơ sở rất khó khăn. Đội ngũ cán bộ làm cơng tác tuyên truyền ở cơ sở có lúc
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
Một số giải pháp như sau:
Một là, Đổi mới hoạt động để nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật tạo ra hệ thống pháp
luật đồng bộ bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật mang tính khả thi cao, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.
Đây là yêu cầu quan trọng làm cơ sở cho việc bảo đảm thi hành pháp luật, nhất là ở địa phương.
Hai là, Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về thẩm quyền của chính quyền địa phương trong việc bảo
đảm thi hành pháp luật.

16


Ba là, Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, trong đó
có việc quy định cụ thể hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân và nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra của uỷ ban
nhân dân.
Bốn là, Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, cơng chức, nhất là cán bộ, công chức cơ sở
trong việc phổ biến, triển khai thi hành các quy định của pháp luật và bảo đảm thi hành pháp luật ở địa
phương.

Năm là, Tăng cường các điều kiện cho việc bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương từ việc cung cấp
đầy đủ, kịp thời các văn bản pháp luật đến các điều kiện để tổ chức thi hành pháp luật và tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật đến từng người dân qua các nhiều hình thức, phương tiện thông tin tại cơ sở (đài
phát thanh, tuyên truyền viên tại thôn, xã,…) một cách thường xuyên:
Sáu là, Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị tạo
thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, mọi công dân trong xã hội
đều phải sống và làm việc theo pháp luật. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, nếu thiếu ý thức
pháp luật ở trình độ cao thì khơng thể hồn thành tốt nhiệm vụ thực hiện và áp dụng pháp luật của mình trong
quá trình giải quyết các cơng việc liên quan đến lợi ích của người dân. Sống và làm việc theo pháp luật là
nghĩa vụ, là trách nhiệm của mỗi công dân. Cần tạo thói quen “sống và làm việc theo pháp luật” trong hành
vi của các chủ thể pháp luật thì hoạt động thực hiện pháp luật sẽ đạt được hiệu quả.
Câu 5. Tại sao nói ngành Luật Hiến pháp là một ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật
VN?
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, là yếu tố bảo đảm
sự ổn định và trật tự của xã hội.
Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức
nhất định.
Luật Hiến pháp với tư cách là một ngành luật được xác định là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để
điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng nhất gắn liền với việc xác định chế độ chính trị, quyền con
người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ và môi
trường; bảo vệ tổ quốc và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng và được quy định tại Điều
119 Hiến pháp năm 2013: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu
lực pháp lý cao nhất.”
Đây là ngành luật chủ đạo, cơ bản nhất trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, nó điều chỉnh những

quan hệ xã hội quan trọng nhất, cơ bản nhất và tất cả những ngành luật khác đề hình thành trên những
nguyên tắc của hiến pháp. Nguyên thủy của Luật Hiến pháp chỉ điều chỉnh hai vấn đề cơ bản là cách thức tổ
chức bộ máy nhà nước và quyền cơng dân.Qua q trình phát triển của lịch sử, cùng với việc nhà nước ngày
càng can thiệp sâu vào đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa, phạm vi điều chỉnh của Luật Hiến pháp ngày càng
rộng rãi, bao gồm tất cả những quan hệ cơ bản, quan trọng của một quốc gia bên cạnh lĩnh vực tổ chức nhà
nước như cơ sở kinh tế, chính trị, cơ sở văn hóa... đây cũng là một điểm đặc trưng của Luật Hiến pháp theo
trường phái Xã hội chủ nghĩa.
Ngành Luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam bởi những lý do
sau đây:
Thứ nhất, Quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp là cơ sở pháp lý để các ngành luật khác
chi tiết hóa, cụ thể hóa thành các quy phạm pháp luật của ngành luật đó.

17


Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.Mọi
hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.”
Luật Hiến pháp giữ vị trí chủ đạo vì nó có đối tượng điều chỉnh đặc biệt và là cơ sở để liên kết các
ngành Luật khác. Chỉ căn cứ vào các quy định của Luật Hiến pháp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới
ban hành được các văn bản pháp luật khác nhằm cụ thể hóa Luật Hiến pháp, từ đó hình thành hệ thống pháp
luật và bảo đảm sự thống nhất của pháp luật.
Luật Hiến pháp quy định các nguyên tắc xây dựng pháp luật; thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của các cơ quan nhà nước; các hình thức văn bản quy phạm pháp luật; trình tự, thủ tục ban hành,
sửa đổi; chế độ giám sát, thanh tra, xử lý các văn bản quy phạm pháp luật sai trái, vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Luật Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước, xác định nguyên tắc của mối quan hệ giữa cơng dân và nhà nước, đó chính là những nguyên
tắc chủ đạo để xây dựng ngành luật hành chính, hay là Luật Hiến pháp xác lập những nguyên tắc cơ bản
trong những quan hệ kinh tế, xác lập nền tảng cơ bản cho việc xây dựng ngành luật dân sự, thương mại, kinh
tế...
Nói cách khác, đó là những quy định làm nền tảng cho các điều luật về tổ chức quyền lực nhà nước,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và mối liên hệ giữa nhà nước với xã hội dân sự trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Với nội dung như vậy, Luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo, làm cơ sở pháp lý cao nhất
trong quốc gia, đề ra những quy tắc căn bản nhất, ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật cho các
ngành luật khác.
Vị trí trung tâm của Luật Hiến pháp khơng có nghĩa là Luật Hiến pháp sẽ bao trùm và thống nhất tất cả
các ngành luật. Luật Hiến pháp chỉ xác lập những nguyên tắc cơ bản cho các ngành luật khác. Luật Hiến
pháp cịn quy định cả trình tự, thơng qua, sửa đổi quy phạm của các ngành luật khác.
Thứ hai, Ngành Luật Hiến pháp điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng nhất gắn
liền với việc xác định chế độ chính trị, quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của cơng dân; kinh tế,
văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường; bảo vệ tổ quốc và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp gồm có:
- Nhóm các quan hệ cơ bản trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế-xã hội, văn hóa, giáo dục, KH&CN, bảo
vệ Tổ quốc và đối ngoại.
- Nhóm các quan hệ xã hội cơ bản giữa Nhà nước và cá nhân.
- Nhóm quan hệ cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Các quy phạm pháp luật Hiến pháp hợp thành những chế định quan trọng của pháp luật Việt Nam.
Những chế định này là cơ sở điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của các ngành khác. Tất
cả các ngành luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội đều phải bắt nguồn từ các nguyên tắc mà quy
phạm pháp luật luật Hiến pháp đã quy định.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp là những quan hệ xã hội do Luật Hiến pháp tác động vào
nhằm thiết lập một trật tự xã hội nhất định phù hợp với ý chí nhà nước. Đó là những mối quan hệ xã hội cơ
bản nhất, quan trọng nhất gắn liền với việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hóa, giáo
dục, khoa học và cơng nghệ, địa vị pháp lý của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Những
quan hệ xã hội này phản ánh những đặc điểm cơ bản của xã hội và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam gắn liền với việc tổ chức quyền lực nhà nước.
Thứ ba, Sử dụng phương pháp điều chỉnh mang tính chất đặc thù
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp là những cách thức mà Luật Hiến pháp tác động đến các
quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp nhằm thiết lập một trật tự nhất định phù hợp
với ý chí nhà nước.

Luật Hiến pháp sử dụng 2 phương pháp điều chỉnh sau :

18


Xác lập những nguyên tắc chung mang tính định hướng cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ
Luật Hiến pháp, đó là các nguyên tắc: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo nhà nước và xã hội; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc tập trung dân chủ;
ngun tắc bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc,... đây là phương pháp điều chỉnh đặc thù của
Luật Hiến pháp.
Trong nhiều trường hợp Luật Hiến pháp quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ
thể tham gia vào mỗi quan hệ pháp luật Hiến pháp nhất định. Ví dụ: Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm Thẩm
phán Tịa án nhân dân tối cao; đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch Quốc hội; Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội có quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại
nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân,...
Tóm lại, luật Hiến pháp có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Các
chế định, quy phạm của luật Hiến pháp là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng mới, sửa đổi hoặc hủy bỏ các chế
định, quy phạm của các ngành luật khác. Việc hoàn thiện ngành luật hiến pháp có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với hồn thiện hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ
thống pháp luật Việt Nam.
Câu 6: Anh chị hãy cho biết tác hại của việc vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của Luật
HNGĐ 2014. Liên hệ thực tế việc thực hiện các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật tại địa
phương, nơi anh chị cư trú?
Ngày 19/6/2014, tại kỳ họp lần thứ 7 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố 13 đã
thơng qua Luật hơn nhân và gia đình năm 2014, gồm 9 chương, 133 Điều và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2015.Với những sửa đổi, bổ sung quan trọng, phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam,
Luật này đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của đời sống hơn nhân và gia đình trong tình hình mới;
bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình; bình đẳng
giới; kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân
tộc Việt Nam.

Khái niệm :Kết hôn là việc nam nữ xác lập mối quan hệ vợ - chồng với nhau theo quy định của pháp
luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn để xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, văn minh, hịa thuận
và bền vững.
Các điều kiện kết hôn :
Khi nam nữ kết hôn phải đáp ứng được các điều kiện sau :

-

-

Phải đủ tuổi kết hôn ( Nam từ đủ 20 trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên )
Phải có sự tự nguyện giữa 2 bên nam và nữ khi kết hôn
Không bị mất năng lực hành vi dân sự.
Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a,b,c và d khoản
2 Điều 5 luật HN & GĐ 2014.
+ Kết hôn giả tạo
+ Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hơn
+ Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có
vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng .
+Kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ ; giữa những
người có họ trong phạm vi 3 đời ; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con
nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng;
Việc đăng ký kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Vì vậy, nếu vi phạm điều kiện kết hôn sẽ gây ra những tác hại khơn lường. Cụ thể là đó là:

19


Thứ nhất, Việc vi phạm về độ tuổi kết hôn sẽ gây ra những hệ lụy khá nặng nề. Những người kết hôn

khi chưa đủ tuổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của nam, nữ. Không đảm bảo sức khỏe cho nam nữ khi
làm mẹ, làm cha. Đồng thời, con cái sinh ra không được khỏe mạnh cả về thể lực lẫn trí tuệ, có thể phát triển
khơng tốt để trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Con người khi chưa đạt đến độ tuổi nhất định thì suy nghĩ
cịn nơng cạn, chưa xác định được vai trị của bản thân khi kết hơn. Vì vậy, khơng đảm bảo cho việc xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Hơn nữa, nam nữ ở độ tuổi này chưa có khả
năng tham gia vào quá trình lao động tạo ra thu nhập. Điều đó khơng đảm bảo cho họ có cuộc sống độc lập
về kinh tế, chín muồi về tâm lý, đầy đủ ý thức xã hội để thực hiện các chức năng của gia đình và duy trì tế
bào của xã hội.
Thư hai, Việc vi phạm sự tự nguyện trong kết hôn đối với các trường hợp: Ép buộc kết hôn, cưỡng ép
kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hơn,…thì khơng đảm bảo cho cuộc sống gia đình được hạnh phúc, khơng
thể duy trì hơn nhân bền vững. Gia đình khơng hạnh phúc sẽ ảnh hưởng đến việc dạy dỗ, giáo dục con cái sau
này. Một số người bị ép buộc kết hôn sẽ dẫn đến những hành động tiêu cực: cờ bạc, rượu chè, trai gái,…
Thậm chí có những trường hợp tự kết thúc cuộc đời để thoát khỏi cảnh sống trong cuộc hơn nhân khơng tự
nguyện đó.
Thứ ba,người mất hành vi dân sự thì khi kết hơn không đảm bảo cho con cái sinh ra sẽ khỏe mạnh.
Người mất hành vi năng lực không nhận thức được nên khơng có khả năng tự nguyện. Người khơng nhận
thức được hành vi của mình thì khơng có khả năng thực hiện một cách đúng đắn ý chí của mình trong vấn đề
kết hôn, không thể nhận thức và thực hiện trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ trong đời sống
gia đình, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ (chồng) hoặc con. Người mất hành vi năng lực dân
sự không thể tham gia lao động tạo ra của cải xây dựng và phát triển gia đình.
Thứ tư, Việc kết hơn vi phạm vào các điều cấm kết hơn của pháp luật cũng có tác hại rất nghiêm trọng
đến xã hội, đến đời sống con người và chính bản thân của người vi phạm. Cụ thể như:
Kết hôn giả tạo để trở thành công dân các nước phát triển hoặc nhằm mục đích xuất cảnh: Có những
nạn nhân mất tiền mà khơng trở thành công dân ở các nước phát triển mà thành kẻ di dân lậu trên đất khách,
có người tiền mất nhưng không xuất cảnh được gây ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình sau này; có những
người sang được nước ngồi để đối phó với việc kiểm tra an ninh đã phải sống chung với người khác giới
nên gây ra nhiều hệ lụy không lường trước được; Trong nhiều trường hợp, việc kết hơn giả bất thành tạo trở
ngại pháp lí lớn sau này cho đối tượng kết hôn giả và con cái họ. Ví dụ: chị A đã làm thủ tục kết hôn với một
người đàn ông Hàn Quốc nhưng việc xuất cảnh bất thành. Chị A chấp nhận việc khơng sang Hàn Quốc và sau
đó cưới một người cùng làng, chấp nhận khơng được làm thủ tục đăng kí kết hơn với người chồng thực sự vì

đang có hơn nhân hợp pháp với người Hàn Quốc. Thế nhưng khi đứa con sinh ra không được cấp giấy khai
sinh do chị A cần có đơn li hơn với người chồng Hàn Quốc hoặc làm đơn cam đoan con mình sinh ra ngoài
giá thú và chỉ được mang họ mẹ! Việc kết hơn giả của người mẹ vơ hình trung đã xâm phạm tới quyềncủa
đứa trẻ: Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền bình đẳng, một trong những quyền đó là được khai sinh.
Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối, cản trở kết hôn : 1 hoặc 2 bên chưa đủ tuổi tảo hôn sẽ sinh ra
những đứa con còi cọc, khả căng chống lại bệnh tật kém nên dễ mắc bệnh, nhất là các bệnh hiểm nghèo. Như
vậy, gia đình phải chăm lo sức khỏe cho con nhiều hơn, tốn kém nhiều tiền hơn, thế hệ sau ngày càng nhỏ đi,
dịng dõi càng ngày càng bị suy thối.
Việc vi phạm chế độ một vợ một chồng, người đang có vợ, có chồng mà kết hơn hoặc chung sống
như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người có vợ, có chồng : sẽ gây ra những tác hại như: phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác; gây ra
những hằn học cá nhân và dẫn đến tranh chấp, gây bất ổn về mặt xã hội; làm băng hoại giá trị đạo đức của
con người; gây ảnh hưởng đến tâm lí con cái.
Vi phạm việc kết hơn giữa những người cùng dịng máu, trực hệ: hơn nhân cận huyết sinh ra những
đứa con có khả năng mắc những bệnh như: thiểu năng, dị hình, dị dạng, quái thai,… ảnh hưởng đến chất
lượng nòi giống, để lại hậu quả là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
+ Khơng đảm bảo chức năng duy trì nịi giống
+ Vi phạm các mối quan hệ trong gia đình và không phù hợp với truyền thống đạo đức, luân lý con
người.

20


* Liên hệ thực tế việc thực hiện các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật tại địa phương
Trong những năm qua được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương, sự phối
hợp của các ban, ngành, đoàn thể huyện việc thực hiện các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật tại
địa phương đã đạt được những kết quả nhất định như: Đa số kết hôn đúng độ tuổi quy định, dựa trên tinh thần
tự nguyện của cả nam và nữ; Khơng có trường hợp kết hơn giả tạo; Hiện tượng vi phạm về hôn nhân cận
huyết thống gần như khơng có; Những người kết hơn đảm bảo về hành vi năng lực dân sự; Đa số thực hiện
đăng kí kết hơn đúng theo quy định của địa phương.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được việc thực hiện các điều kiện kết hôn theo quy định của
pháp luật tại địa phương vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: vẫn cịn tình trạng tảo hơn tại địa bàn, theo
thống kê đến 30/5/2017 trên địa bàn huyện có 15 trường hợp tảo hơn.Tình trạng vi phạm chế độ một vợ, một
chồng vẫn xảy ra. Một số ít người dân, nhất là giới trẻ vẫn còn sống chung, sống thử trước khi đăng kí kết
hơn.
Những hạn chế trên là do một số nguyên nhân sau:
Một là, Trình độ nhận thức cũng như ý thức chấp hành pháp luật của một số người dân, đặc biệt là
người đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế.
Hai là, Do tác động, ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường, quan niệm sống thử, sống chung trước
hôn nhân trở nên hết sức bình thường nên dẫn đến mang thai sớm.
Ba là, Do phong tục, tập quán của một số ít người đồng bào dân tộc thiểu số trong việc ‘bắt chồng” về
sống chung rồi từ từ đăng kí kết hơn.
Bốn là, Ý thức về việc học tập của người dân tộc thiểu số chưa cao, họ thường bỏ học giữa chừng và về
lấy chồng sớm.
Năm là, Việc tuyên truyền và biện pháp xử lí vi phạm về điều kiện kết hôn chưa thật hiệu quả và thiếu
kiên quyết.
Để từng bước khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian tới địa phương cần thực hiện tốt
một số giải pháp như sau:
Một là, Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến những quy định của pháp luật về Luật hôn nhân và
gia đình, những hậu quả và hệ lụy khi vi phạm về điều kiện kết hôn cho người dân hiểu. Đổi mới phương
phức tuyên truyền để mang lại hiệu quả cao hơn.
Hai là, Phát huy vai trò của các cán bộ địa phương, vai trị của trưởng thơn trong việc tuyên truyền sâu
sát đến từng hộ gia đình.
Ba là, mở lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ tuyên truyền viên, hòa giải viên,
cộng tác viên dân số ở cơ sở... Đồng thời, xây dựng một chế tài đủ mạnh để răn đe các trường hợp vi phạm,
nêu gương cho cộng đồng.
Bốn là, Bài trừ các phong tục tập quán không phù hợp, tăng cường việc nâng cao trình độ dân trí cho
người dân.
Tóm lại, thực hiện tốt các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật là cần thiết và quan trọng.
Điều này đồng nghĩa với việc xây dựng gia đình hiện đại, phát huy thuần phong mỹ tục của dân tộc và góp

phần phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, dân chủ.

21



×