Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số ý kiến về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.96 KB, 6 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HƠN NHÂN
Lê Ngơ Thảo Tiên, Phạm Ngọc Mai Thi, Bùi Cẩm Tiên, Thái Phạm Tuân*
Khoa Luật, Trường Đại học Cơng nghệ TP. Hồ Chí Minh
GVHD: ThS. Đào Thu Hà

TĨM TẮT
Hơn nhân là một mối quan hệ cơ bản của mỗi gia đình trong xã hội. Gia đình được xem là tế
bào của xã hội, nơi sinh ra, nuôi dưỡng và giáo dục các thế hệ tương lai của đất nước, nơi gìn giữ
và phát triển các nét đặc trưng văn hóa, truyền thống của một dân tộc, một quốc gia. Bản chất bên
trong gia đình ln tồn tại quan hệ nhân thân gắn liền với tài sản. Chúng ta thường sẽ quan tâm
đến việc phân chia tài sản chung khi quan hệ hôn nhân đổ vỡ dẫn đến ly hôn, nhưng trên thực tế,
Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) vẫn cho phép các cặp vợ chồng phân chia tài sản chung ngay
cả trong thời kỳ hơn nhân. Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả phân tích các quy định pháp
luật và những bất cập liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân,
từ đó đưa ra kiến nghị hồn thiện về vấn đề này.
Từ khóa: Quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản, quyền lợi con chung, tài sản chung, thời kỳ hôn
nhân.

1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Quan hệ tài sản giữa vợ chồng là một vấn đề hết sức quan trọng, nó là một trong những tiền đề
giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống hạnh phúc, đáp ứng những nhu cầu về cả vật chất lẫn tinh
thần cho gia đình. Xuất phát từ bản chất của quan hệ hơn nhân và gia đình là các yếu tố nhân thân
và tài sản gắn liền với các chủ thể nhất định, khơng thể tách rời và khơng có tính đền bù ngang giá.
Chín h sự ràng buộc này làm nảy sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau mà chia tài
sản chung của vợ chồng, đặc biệt là chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một
vấn đề quan trọng trong chế độ tài sản của vợ chông. Quy định này đã từng bước đi vào cuộc
sống, phát huy được hiệu quả điều chỉnh, góp phần xây dựng củng cố chế độ HN&GĐ Việt Nam.
Khi Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát huy các quy định của hiến pháp năm
1980 về quyền sở hữu riêng của cơng dân đã cơng nhận quyền có tài sản của vợ chồng cũng như
quyền được yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân cịn tồn tại khi có lý do


chính đáng và được Tòa án chấp thuận. Việc quy định vợ chồng có thể chia tài chung trong thời kỳ
hơn nhân, giúp ổn định quan hệ gia đình khi chưa cần thiết phải ly hơn, đảm bảo quyền lợi chính
đáng về tài sản của vợ chồng, của các thành viên trong gia đình và người khác.

1624


2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ
HÔN NHÂN
2.1 Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Hiện nay Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Chính vì thế, trên thực tế vẫn áp dụng nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng
khi ly hôn căn cứ theo Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT – TANDTC - VKSNDTC – BTP ngày 06
tháng 01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ: về việc chia tài sản
chung được chia theo thỏa thuận của các bên. Vợ, chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản chung
thành hai phần bằng nhau hoặc chia theo các tỷ lệ nhất định trên cơ sở thống nhất về mặt ý chí
của các bên. Trong trường hợp các bên khơng thỏa thuận được có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết. Trên nguyên tắc tài sản chung được chia đơi nhưng phải tính đến các yếu tố để xác định tỷ lệ
chia tài sản chung [5] :

Thứ nhất: ‚Hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng‛ là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực
hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng
như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài
sản theo quy định của Luật HN&GĐ. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hơn được chia phần tài sản
nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống
của họ nhưng phải phù hợp với hồn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.

Thứ hai: ‚Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung.‛ là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, cơng việc gia đình và lao động của các bên
trong việc tạo lập và duy trì phát triển tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia

đình mà khơng đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng
hoặc vợ đi làm. Bên có cơng sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

Thứ ba: ‚Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các
bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập‛. Việc pháp luật đặt ra nhằm bảo vệ lợi ích chính
đáng của các bên trong sản xuất kinh doanh về nghê nghiệp tránh tình trạng mất giá trị cơng dụng
của tài sản. Đối với tài sản phục vụ nghề nghiệp như xưởng sản xuất, nhà cửa,… đối với những tài
sản cụ thể như máy móc, thiết bị y khoa may mặc, nhạc cụ, tàu thuyền, cửa hàng thì trước tiên Tịa
án chú trọng vào nguyện vọng của các bên, nếu giữa các bên phát sinh tranh chấp thì Tịa án sẽ
quyết định chuyển cho người cần tài sản để phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của vợ hoặc
chồng trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực tương ứng.

Thứ tư: ‚Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng‛ , là lỗi của vợ chồng vi phạm
quyền và nghĩa vụ về nhân thân hoặc tài sản.
2.2 Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Điều kiện tiên quyết cần phải có để đạt được mục đích chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân là
phải có quan hệ trong thời kỳ hơn nhân và trong thời kỳ hơn nhân vợ, chồng có tạo lập tài sản
chung hợp pháp theo quy định của pháp luật. Điều kiện về tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân được quy định rõ tại Điều 12 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm
1625


2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ. Như vậy, việc vợ chồng chia
tài sản chung phải tuân thủ quy định pháp luật về hình thức và thủ tục, nếu tài sản chung được chia
là bất động sản và động sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, thì thỏa thuận của
vợ chồng trong việc phân chia tài sản chung phải cơng chứng hoặc chứng thực mới có giá trị pháp
lý. Ngược lại, trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được về việc chia tài sản chung thì vợ
hoặc chồng có quyền u cầu Tịa án giải quyết. Khi thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án giải quyết việc chia
tài sản chung của vợ chồng theo yêu cầu của đương sự và việc giải quyết vụ việc theo thủ tục tố
tụng chung.

2.3 Hậu quả pháp lý chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hơn nhân
Hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được quy định rõ tại Điều
14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP. Theo đó, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân dẫn đến
các hệ quả bao gồm:
Hậu quả pháp lý về quan hệ nhân thân: Sau khi phân chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hơn nhân thì quan hệ vợ chồng vẫn tồn tại. Dù vợ chồng sống chung hay ở riêng cũng
không làm hạn chế các quyền nhân thân giữa vợ, chồng cũng như quan hệ hôn nhân vẫn chưa
chấm dứt nên vợ chồng vẫn có quyền hạn và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Như
vậy nghĩa vụ u thương, chung thủy, chăm sóc, tơn trọng, quan tâm lẫn nhau giữa các bên vẫn
được đảm bảo. Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm thay
đổi quan hệ giữa cha mẹ và con, không làm thay đổi mối quan hệ nhân thân giữa các thành viên
trong gia đình.
Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản:

Thứ nhất, theo Khoản 1 Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP: ‚Việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định‛.
Theo đó quan hệ hơn nhân cịn tồn tại thì khối tài sản đó cịn tiếp tục phát sinh và thay đổi. Do đó,
ngay cả trong trường hợp vợ chồng phân chia tồn bộ tài sản chung thì cũng không làm thay đổi
chế độ tài sản trong tương lai. Như vậy, có thể hiểu việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
không làm thay đổi chế độ tài sản giữa vợ và chồng. Dù vợ, chồng tiến hành chia tồn bộ tài sản
chung thì chế độ tài sản của vợ, chồng vẫn là chế độ tài sản theo luật định. Việc chia tài sản chung
khi hôn nhân đang tồn tại chỉ thay đổi hình thức sở hữu từ chung thành riêng đối với những tài sản
nhất định. Những tài sản cịn lại khơng nằm trong thỏa thuận vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng.

Thứ hai, kể từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu vợ chồng khơng có
thỏa thuận khác thì phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng. Trong trường hợp hai
vợ chồng đã phân chia tài sản mà khơng có thỏa thuận về việc hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
đã chia thì hoa lợi, lợi tức đó sẽ là tài sản riêng của người vợ hoặc người chồng.


Thứ ba, từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc
khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà khơng xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt
1626


động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì
thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Theo đó, sau khi chia tài sản mỗi người độc lập với nhau về thu
nhập hợp pháp của mình, phần thu nhập đó sẽ khơng thuộc phần tài sản chung của vợ chồng mà
thuộc phần tài sản riêng của mỗi người.

Thứ tư, thỏa thuận về việc phân chia tài sản không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ về tài sản xác
lập trước thời điểm phân chia tài sản có hiệu lực. Cụ thể quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ,
chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc phân chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có
giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Quyền lợi của con chung: đối với quyền của con chung sau khi chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân không quy định. Tuy nhiên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con
chung nhất là con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có
khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình. Chính vì thế, dựa vào căn cứ tại Điều 81
Luật HN&GĐ 2014 quy định về việc trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con sau khi ly hơn.
Ngồi ra căn cứ theo Điều 42 Luật HN&GĐ 2014 quy định về trường hợp cha mẹ chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân nhằm trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng hay gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình sẽ dẫn đến thỏa
thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu.

3 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHIA
TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HƠN NHÂN
Có rất nhiều lý do khác nhau dẫn đến việc quyết định chia tài chung của các cặp vợ chồng trong
thời kỳ hơn nhân. Ngồi việc tiếp nhận và áp dụng chia tài sản chung một cách tích cực thì mặt

khác việc chia tài sản chung lại mang mối nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng và
hạnh phúc gia đình. Trên thực tế, đã có nhiều cặp vợ chồng rơi vào tình trạng tiền chia, tình cũng
chia. Như trường hợp của bà Q và ông C sống tại Thơn 2, xã K, huyện B, tỉnh Bình Phước và kết hôn
với nhau tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã S, huyện B vào năm 2006, quá trình chung sống, bà Q và
ơng C có một người con chung tên Nguyễn Văn Hoàng T, đã xảy ra tranh chấp chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân về đất đai, tài sản trên đất (cụ thể là ngôi nhà chung và hoa lợi là số tiền bán
cà phê thu hoạch vào các năm 2016, 2017, 2018, ngồi ra cịn số tiền nợ mà ông C vay của vợ
chồng ông S bà G là 150.000.000 đ). Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Phước quyết định: Về tài sản
chung, chia cho bà Nguyễn Thị Q được quyền quản lý, sử dụng một phần diện tích đất 3229,8 m2
và ơng Nguyễn Văn C được quyền quản lý, sử dụng một phần diện tích đất 3235,3 m2, thuộc thửa
đất số 320, 324, tờ bản đồ số 05, tọa lạc tại thôn 2, xã K, huyện B, tỉnh Bình Phước; đất đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 586954, vào sổ cấp GCN số H 00192 do Ủy ban Nhân
dân huyện B, tỉnh Bình Phước cấp ngày 30/5/2008 cho hộ ơng Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị Q.
Đồng thời, ông Nguyễn Văn C được quyền quản lý, sử dụng, sở hữu 01 căn nhà cấp 4 diện tích 62,1
m2, buộc ơng Nguyễn Văn C có nghĩa vụ thanh tốn cho bà Nguyễn Thị Q ½ giá trị căn nhà cấp 4
được phân chia với số tiền 10.000.000 đ (Mười triệu đồng) và ½ giá trị thu hoạch hoa lợi trong các
năm 2015, 2016, 2017, 2018 với số tiền là 21.561.000đ (Hai mươi mốt triệu năm trăm sáu mươi mốt
1627


ngàn đồng). Đối với bà Nguyễn Thị Q có nghĩa vụ thanh tốn cho ơng Nguyễn Văn C ½ số tiền mà
ông C đã trả các khoản nợ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện B
và khoản nợ của ông Nguyễn Quốc V với số tiền là 51.050.000 đ (Năm mươi mốt triệu không trăm
năm mươi ngàn đồng); Về nợ, buộc bà Nguyễn Thị Q có nghĩa vụ thanh tốn cho ơng Nguyễn Văn
C ½ số tiền mà ông C đã trả các khoản nợ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi
nhánh huyện B và khoản nợ của ông Nguyễn Quốc V với số tiền là 51.050.000 đ (Năm mươi mốt
triệu không trăm năm mươi ngàn đồng). Buộc ông Nguyễn Văn C có nghĩa vụ trả cho ơng Nguyễn
Văn S, bà Nguyễn Thị G số tiền vay 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng),bà Nguyễn Thị Q
phải có nghĩa vụ liên đới trả số tiền 150.000.000 đ cho vợ chồng ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị
G; Về cấp dưỡng, buộc ơng Nguyễn Văn C phải có nghĩa vụ cấp dưỡng ni con chung tên Nguyễn

Văn Hồng T, sinh ngày 21/7/2006 với mức cấp dưỡng 1.000.000 đ/tháng (Một triệu đồng) cho đến
khi cháu T đủ 18 tuổi [1].
Theo đó cho thấy việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân về mặt xã hội vẫn
cịn những hạn chế tuy nhiên xét trên những phương diện khác như kinh tế thì quy định này là cần
thiết. Nhưng trên thực tiễn áp dụng quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân vẫn cịn một số bất cập từ đó nhóm đưa ra kiến nghị, phương pháp góp phần làm pháp luật
nước ta ngày được hoàn thiện và thống nhất hơn khi áp dụng vào cuộc sống hiện nay của các cặp
vợ chồng có thỏa thuận về vấn đề này:

Thứ nhất, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan
hệ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa họ vẫn tồn tại những quyền và nghĩa vụ được quy định từ Điều
17 đến Điều 23 Luật HN&GĐ 2014. Nhưng trong một số trường hợp ngoại lệ thì nó cũng có thể làm
thay đổi một số quan hệ nhân thân trong gia đình như vợ chồng ly hôn, lẫn tránh trách nhiệm nuôi
dưỡng con cái hay cả khi một bên bệnh tật, túng thiếu, khó khăn thì nghĩa vụ chăm sóc của bên
cịn lại như thế nào hoặc có được sử dụng phần tài sản riêng của bên kia để giải quyết vấn đề khi
một bên gặp khó khăn. Chính vì vậy, pháp luật cần có quy định ràng buộc trách nhiệm của mỗi
bên vợ chồng khi họ chia tài sản chung nhất là những quy định cụ thể đặc biệt cần quan tâm hơn
đến về quan hệ nhân thân trong việc chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình, trách nhiệm
ni dưỡng con cái để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con cái theo quy định của pháp luật
hiện hành.

Thứ hai, tại Khoản 1 Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định vợ, chồng có thể u cầu Tồ án giải
quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nếu khơng có hoặc khơng thoả thuận được.
Tuy nhiên, Luật HN&GĐ hay các văn bản hướng dẫn có liên quan chưa quy định cụ thể về nguyên
tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhất là phân chia về bất động sản
như đất đai hoặc tài sản gắn liền với đất. Do đó, trong thực tiễn áp dụng sẽ gặp khó khăn khi vận
dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Từ lý do đó, nhóm tác giả đề xuất
các nhà làm luật cần xem xét để ban hành một văn bản quy bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về
nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân để cơ quan có thẩm quyền
dễ dàng giải quyết các tranh chấp liên quan đến yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân.
1628


4 KẾT LUẬN
Hiện nay các thỏa thuận giữa vợ, chồng hay án kiện mà các bên có u cầu Tịa án chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân không nhiều. Điều này xuất phát từ tính chất của quan hệ hơn nhân.
Tuy nhiên khi thụ lý vụ việc thì các Tịa án gặp khơng ít khó khăn khi áp dụng các quy định của
pháp luật để giải quyết tranh chấp cũng như các cặp vợ chồng vẫn chưa hiểu rõ được những quy
định về vấn đề chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Một trong những nguyên nhân đó là
pháp luật quy định về vấn đề này đến nay vẫn còn nhiều vấn đề để bàn. Từ những phân tích, tìm
hiểu của nhóm tác giả đã dẫn chứng để đưa ra những điều bất cập khi áp dụng quy định của
pháp luật về vấn đề ‚Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân‛ nhằm kiến nghị để
hoàn thiện về mặt pháp lý giúp các nhà làm luật nhanh chóng hồn thiện các quy định về vấn đề
này để sớm đi vào cuộc sống và đáp ứng tốt được nhu cầu của các cặp vợ chồng có mong muốn
chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân. Mặc dù, cho dù xã hội có phát triển đến mức độ nào,
quan niệm về xã hội, kinh tế có đạt tầm cao văn minh như thế nào thì gia đình và quan hệ sở hữu
chung hợp nhất của vợ chồng vẫn cần phải được củng cố và giữ gìn những giá trị mang tính đặc
thù của chúng, không nên phá vỡ chúng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Bản án số: 21/2019/HNGĐ-PT của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Phước ngày: 02-10-2019 về việc
tranh chấp chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân.

[2]

Luật Hơn nhân và Gia đình số: 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 06 năm 2014 của Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


[3]

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 quy định chi tiết một số Điều và
biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4]

Thơng tư liên tịch số 01/2016/TTLT – TANDTC - VKSNDTC – BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016
hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ.

[5]

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình luật hơn nhân và gia đình Việt
Nam, NXB Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam.

1629



×