Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 20 trang )

Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO),
Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến đáng kể cả về kinh tế, chính trị và xã hội,
khơng những nâng cao được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế mà còn nâng
cao được mức sống của người dân. Một trong những động lực của sự phát triển này
là do Việt Nam, với tư cách là một thành viên chính thức của WTO, phải tham gia
ký kết và cam kết thực hiện tất cả các hiệp định đa phương của tổ chức này. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành quả đã đạt được, Việt Nam vẫn đang gặp nhiều khó
khăn trong việc thực hiện các hiệp định, trong đó có “Hiệp định về các khía cạnh
liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ” (gọi tắt là Hiệp định TRIPS).
Mặc dù đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và sửa đổi năm 2009, song tại
Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ vẫn đang là một vấn đề chưa được thực hiện triệt để,
gây ra rào cản lớn đối với sự phát triển thương mại quốc tế cũng như thực hiện cam
kết xây dựng hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ với WTO.
Chính vì lý do đó, nhóm 9 đã quyết định chọn đề tài “Hiệp định về các khía
cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ” nhằm nghiên cứu tình hình
thực hiện các cam kết trong Hiệp định TRIPS tại Việt Nam, từ đó đưa ra những kiến
nghị, giải pháp để vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khơng cịn là rào cản đối tiến
trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam.

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
1


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

PHẦN I : HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC KHÍA CẠNH LIÊN QUAN TỚI
THƯƠNG MẠI CỦA QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ (HIỆP ĐỊNH TRIPS)
1.



Hồn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiệp định TRIPS

1.1.

Hoàn cảnh ra đời
Sở hữu trí tuệ (SHTT) là một vấn đề xuất hiện từ rất sớm, ngay từ thế kỷ 19 đã

có nhiều điều ước đa phương về SHTT như Cơng ước Paris (1983), Công ước Berne
(1886), Công ước Rome (1961)… Tuy nhiên, chỉ từ những năm 1980 trở lại đây,
SHTT mới trở thành mối quan tâm thường xuyên và là điều kiện để tham gia các thể
chế thương mại quốc tế. Hệ thống bảo hộ SHTT của các quốc gia được xem xét, đánh
giá lại và phải tuân thủ theo các tiêu chuẩn quốc tế thống nhất. Do đó, ngày
15/4/1994, Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT
(Hiệp định TRIPS) ra đời nhằm đưa ra một tiêu chuẩn chung thống nhất cho tất cả
các thành viên của WTO.
Trong hệ thống các Hiệp định của WTO, Hiệp định TRIPS nằm trong Phụ lục
C, bao gồm 73 điều được chia thành 7 phần: Phần I: Các điều khoản chung và các
nguyên tắc cơ bản; Phần II: Các tiêu chuẩn về việc xác lập, phạm vi và việc sử dụng
các quyền SHTT; Phần III: Thực thi quyền SHTT; Phần IV: Thủ tục để hưởng và
duy trì các quyền SHTT và thủ tục khác theo yêu cầu của các bên liên quan; Phần V:
Ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp; Phần VI: Các quy định chuyển tiếp; Phần VII:
Các thoả thuận về thể chế, điều khoản cuối cùng.
Hiệp định TRIPS được xây dựng trên cơ sở các công ước trước đó về các
quyền SHTT, nhưng điểm khác biệt chủ yếu tạo nên ưu điểm của Hiệp định này là:


Phạm vi các loại quyền SHTT được đề cập trong Hiệp định rộng hơn, bao quát

hơn;

Hiệp định chỉ tập trung vào các khía cạnh thương mại của quyền SHTT chứ
khơng phải là tất cả các nội dung của các quyền này;




Hiệp định chỉ quy định ngưỡng bảo hộ tối thiểu cho từng loại đối tượng quyền

SHTT, các nước có thể quy định mức bảo hộ cao hơn, với điều kiện khơng trái các
ngun tắc của Hiệp định.

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
2


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

1.2.

Mục tiêu cơ bản của Hiệp định TRIPS
Hiệp định TRIPS được thiết lập với mục tiêu được qui định ở Điều 7 là: “góp

phần thúc đẩy phát minh công nghệ và chuyển giao và phổ biến cơng nghệ, phục vụ
lợi ích của người sản xuất và người sử dụng tri thức công nghệ và theo hướng có lợi
cho sự thịnh vượng kinh tế và xã hội, và cân đối giữa quyền lợi và nghĩa vụ.”
1.3.

Các nguyên tắc cơ bản của Hiệp định TRIPS
Theo quy định của Hiệp định TRIPS, việc ban hành và thực thi các biện pháp


bảo hộ về quyền SHTT phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
a)

Đối xử tối huệ quốc (MFN)

Điều 4 của Hiệp định quy định thành viên WTO phải dành cho tất cả các
thành viên khác sự bảo hộ đối với các quyền SHTT như nhau, nhằm bảo đảm sự
công bằng giữa các nước thành viên
b)

Đối xử quốc gia (NT)

Điều 3 của Hiệp định quy định: “Mỗi Thành viên phải chấp nhận cho các
công dân của các Thành viên khác sự đối xử khơng kém thiện chí hơn so với sự đối
xử của Thành viên đó đối với cơng dân của mình trong việc bảo hộ SHTT”
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt (được quy định tại Điều 3 và
Điều 4 của Hiệp định), các thành viên có thể được miễn trừ các nghĩa vụ tuân thủ
Hiệp định TRIPS.
1.4.

Các quy định cơ bản của hiệp định TRIPS
Các quy định cơ bản của Hiệp định có thể chia thành 5 nhóm sau:

- Nhóm 1 gồm các quy định liên quan đến việc thực hiện sự bảo hộ theo
nguyên tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc, đặc biệt đối với việc cấp bằng độc quyền,
xác lập, hưởng, phạm vi, duy trì và thực thi các quyền SHTT;
- Nhóm 2 gồm các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu về nội dung bảo hộ, các
quyền kèm theo bằng và thời hạn bảo hộ tối thiểu của 7 loại quyền SHTT.
- Nhóm 3 gồm các quy định về quyền áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm
ngăn chặn chủ SHTT lạm dụng quyền của mình hoặc có hành động hạn chế thương

mại hay chuyển giao công nghệ một cách bất hợp lý;
Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
3


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

- Nhóm 4 gồm các quy định về bảo đảm việc thực thi sự bảo hộ bằng các quy
định về cơ chế tổ chức, thủ tục và đền bù có liên quan đến những việc như chủ sở hữu
có thể được hỗ trợ, trợ giúp tạm thời trong luật dân sự; không để hải quan cho qua
hàng giả, hàng ăn cướp hoặc vi phạm quyền SHTT; trừng trị những kẻ làm hàng
giả,...;
- Nhóm 5 gồm các quy định về thời hạn thực hiện việc điều chỉnh luật lệ quốc
gia cho phù hợp với các quy định trên là 1 năm đối với các nước phát triển, 5 năm đối
với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi, và 11 năm đối với các nước kém
phát triển nhất.
2.

Cam kết của Việt Nam về thực hiện hiệp định TRIPS

2.1.

Cam kết chung

Trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ Hiệp định
về các khía cạnh của quyền SHTT liên quan đến thương mại (TRIPs) ngay sau khi gia
nhập. Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực quan trọng trong suốt những năm qua
để những quy định và luật pháp của Việt Nam về SHTT phù hợp với Hiệp định
TRIPS.
Về vấn đề áp dụng nguyên tắc NT và MFN đối với công dân nước ngoài, Việt

Nam đã áp dụng nguyên tắc NT theo quy định của Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu
công nghiệp và áp dụng nguyên tắc MFN đối với cơng dân nước ngồi phù hợp với
các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên.
2.2.

Các cam kết cụ thể

Nhìn chung, các quy định của Việt Nam khá đầy đủ và phù hợp theo tinh thần
chung của Hiệp định TRIPS, bao gồm:
Thứ nhất: Các tiêu chuẩn về nội dung bảo hộ, bao gồm cả thủ tục xác lập và
duy trì quyền SHTT, gồm có:

Bản quyền và các quyền liên quan (phim: 50 năm, ảnh: 25 năm, các loại khác: 50
năm hoặc suốt đời tác giả cộng thêm 50 năm, những người trình diễn và sản xuất đĩa ca
nhạc: 50 năm - Điều 14:5; phát thanh: 20 năm kể từ ngày cuối của năm phát thanh - Điều
14:5);

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
4


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


Nhãn hiệu, bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ (7 năm cho mỗi lần đăng ký hoặc
đăng ký lại - Điều 18);

Chỉ dẫn địa lý, bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hố (khơng cho phép đăng ký
những nhãn hiệu thương mại gây hiểu lầm về nguồn gốc địa lý của hàng hóa, ví dụ
champagne được hiểu là rượu được sản xuất tại Pháp chứ không phải nơi khác - Điều

22 và 23);


Kiểu dáng cơng nghiệp (ít nhất là 10 năm - Điều 26:3);



Sáng chế (20 năm từ ngày nộp đơn xin cấp bằng - Điều 33);



Bảo hộ giống cây trồng;


Thiết kế - bố trí mạch tích hợp (10 năm từ ngày đăng ký hoặc sử dụng - Điều 38:2
và 38:3);


Các yêu cầu đối với thơng tin mật, bao gồm bí mật thương mại và dữ liệu thử

nghiệm (được bảo hộ chống lại việc tiết lộ không được phép và việc sử dụng không
công bằng vì mục đích thương mại - Điều 39).
Thứ hai: Các biện pháp kiểm soát hành vi lạm dụng quyền SHTT
Thứ ba: Cơ chế thực thi bảo hộ quyền SHTT, gồm có:


Các thủ tục và chế tài dân sự;




Các biện pháp tạm thời;



Các thủ tục và chế tài hành chính;



Các biện pháp kiểm soát biên giới đặc biệt;



Các thủ tục hình sự.

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
5


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

PHẦN II : THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH TRIPS Ở VIỆT NAM
1.
Những động thái từ phía Chính phủ và các cơ quan chức năng
1.1.

Sự đổi mới và hồn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam cho phù
hợp với hiệp định TRIPS
Pháp luật của Việt Nam về quyền SHTT là một lĩnh vực mới được phát triển

trong thời gian qua. Tuy nhiên, với việc nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo

hộ quyền SHTT tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nên trong suốt quá
trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp
luật về SHTT nhằm đảm bảo sự phù hợp với những điều ước quốc tế trong lĩnh vực
này.
Hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở nước ta đã được bắt đầu triển khai từ
những năm 1980. Tuy nhiên, vào thời điểm năm 1995 khi Việt Nam nộp đơn xin
gia nhập WTO, có thể thấy rằng hệ thống SHTT của nước ta khi đó chưa phải là
một hệ thống đầy đủ và có hiệu quả theo quy định trong Hiệp định TRIPS.
Sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995, bao gồm 61 điều về SHTT được quy
định trong phần thứ sáu “Quyền SHTT và chuyển giao công nghệ” với nội dung
thừa nhận quyền dân sự (quyền tài sản và quyền nhân thân) đối với các thành quả
sáng tạo trí tuệ được coi là bước khởi đầu có ý nghĩa quan trọng, đặt nền móng cho
việc xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện về SHTT của Việt Nam. Những
năm sau đó, hàng loạt Nghị định của Chính phủ, Thơng tư hướng dẫn của các Bộ,
ngành và các văn bản dưới luật đã lần lượt được ban hành trực tiếp điều chỉnh hoặc
liên quan tới bảo hộ và thực thi quyền SHTT, tạo cơ sở cho việc thi hành các quy
định về SHTT trong Bộ luật Dân sự 1995.
Tuy vậy, do vẫn chỉ là một phần trong Bộ luật Dân sự 1995 mà khơng có luật
riêng về SHTT nên hệ thống pháp luật về SHTT bộc lộ những bất cập lớn. Hơn nữa,
sự tồn tại quá nhiều những văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành như
các Nghị định, Thông tư...cho thấy rằng cấu trúc quy phạm quá cồng kềnh, phức tạp,
chồng chéo, “gốc nhỏ hơn ngọn”, khiến cho hiệu lực của toàn bộ hệ thống bị suy
giảm và dễ gây ấn tượng rằng các quy định về SHTT của Việt Nam không ổn định,
dễ bị thay đổi.
Để giải quyết vấn đề trên, hệ thống pháp luật về SHTT của Việt nam không
ngừng được hoàn thiện. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005, trong đó tái khẳng định
Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
6



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

những nguyên tắc dân sự cơ bản của quyền SHTT trong Phần VI của Bộ luật, cùng
với việc thơng qua Luật SHTT 2005, có hiệu lực từ 01/07/2006, đã điều chỉnh tất cả
các khía cạnh của quyền SHTT, đã đánh dấu một bước phát triển mới trong hệ
thống pháp luật về SHTT của Việt Nam, đã pháp điển hóa các quy định trước đây
về quyền SHTT trong hàng loạt các văn bản dưới luật, đảm bảo sự phù hợp của
pháp luật Việt Nam với các quy định quốc tế về quyền SHTT. Hai văn bản này đã
tạo thành một hệ thống các quy định hoàn chỉnh và thống nhất về quyền SHTT thay
thế cho các quy định truớc đây. Trong đó Bộ luật Dân sự 2005 là luật gốc còn Luật
SHTT 2005 là luật chuyên ngành, trong trường hợp có sự xung đột giữa hai văn bản
thì Luật SHTT 2005 sẽ được áp dụng (Điều 5.2 của Luật SHTT 2005).
Bên cạnh đó, cùng với việc ban hành và triển khai Luật SHTT, nhiều Quyết
định và Nghị định hướng dẫn thi hành cũng đã được ban hành, chủ yếu là để cụ thể
hóa từng khía cạnh, từng lĩnh vực và hướng dẫn thi hành, nên không có sự chồng
chéo, phức tạp.
Đặc biệt, ngày 19/6/2009, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật SHTT (có hiệu lực từ ngày 01/01/2010) nhằm sửa đổi một số bất
cập trong Luật SHTT 2005, cụ thể là một số điều khoản chưa tương thích với điều
ước quốc tế và một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn thi hành.
Nhìn vào hệ thống luật pháp SHTT của Việt Nam, có thể khẳng định rằng
chúng ta đã hoàn thành khung pháp lý phù hợp với chuẩn mực quốc tế, điển hình là
Hiệp định TRIPS (WTO), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) và các
thỏa thuận song phương khác; đồng thời đã đáp ứng yêu cầu về tính đầy đủ của
Hiệp định TRIPS, tạo nền tảng vững chắc cho Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, đẩy mạnh cơng tác thực thi pháp luật về SHTT.
Sự tích cực trong cơng tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về SHTT và
mạnh tay thực thi pháp luật về SHTT
Ngoài các kết quả đạt được về mặt lập pháp, chúng ta còn thấy được sự tích
cực triển khai các chương trình hành động về SHTT của các cơ quan hữu quan. Các

1.2.

hoạt động hỗ trợ và bổ trợ cho công tác thực thi quyền SHTT như đào tạo cán bộ,
tuyên truyền – phổ biến kiến thức và pháp luật SHTT, về tác hại của hàng giả, hàng
xâm phạm bản quyền cũng được thực hiện thường xuyên, liên tục nhằm nâng cao
nhận thức của các cán bộ quản lý, giới doanh nhân và toàn thể cơng chúng về SHTT.
Điển hình nhất, có thể kể đến Chương trình hành động số 168/CTHĐ/VHTTNhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
7


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

KHCN-NNPTNT-TC-TM-CA về hợp tác phịng, chống xâm phạm quyền SHTT
giai đoạn 2006-2010 (gọi tắt là Chương trình 168) của Bộ Khoa học và Cơng nghệ,
Bộ Văn hóa – Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nơng thơn, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại (nay là Bộ Cơng Thương),
Bộ Cơng an và Bộ Bưu chính – Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông)
đã ký kết nhằm tuyên truyền sâu rộng pháp luật về SHTT, thực hiện các biện pháp
cứng rắn hơn để bảo vệ quyền SHTT.
Sự mạnh dạn thực thi pháp luật về SHTT có thể minh chứng bằng những kết
quả đạt được trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm về SHTT. Theo
báo cáo số 1650/BC-BKHCN ngày 08/7/2009 của Bộ Khoa học và Công nghệ về
kết quả thực hiện chương trình hành động 168 năm 2008, các lực lượng thực thi
quyền SHTT ở các bộ và các địa phương đã xử lý 1.064 vụ xâm phạm quyền SHTT,
tổng số tiền xử phạt là 4,1 tỷ đồng, tịch thu xử lý nhiều phương tiện, tang vật vi
phạm hành chính khác. Cụ thể là:

Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã thụ lý 20 vụ xâm phạm quyền
tác giả đối chương trình máy tính và buộc tiêu hủy các tang vật vi phạm.



Thanh tra chuyên ngành khoa học và công nghệ đã thụ lý 158 vụ xâm phạm

quyền sở hữu công nghiệp (118 vụ xâm phạm nhãn hiệu, 36 vụ xâm phạm kiểu
dáng công nghiệp, 3 vụ xâm phạm sáng chế và 1 vụ cạnh tranh không lành mạnh),
đã xử lý 154 vụ (chỉ có 4 vụ xâm phạm kiểu dáng công nghiệp chưa xử lý).

Lực lượng cảnh sát điều tra về tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
đã điều tra phát hiện và bắt giữ 76 vụ và khởi tố nhiều đối tượng có các hành vi sản
xuất bn bán các hàng hoá giả mạo SHTT như: thực phẩm, quần áo, mỹ phẩm, tân
dược, rượu… Điển hình là vụ triệt phá đường dây buôn bán thuốc giả Viagra và
Cialis từ Trung Quốc vào Việt Nam, với tang vật thu giữ là 13.600 viên thuốc giả,
đã khởi tố 02 đối tượng; vụ thu giữ 85 tấn phân NPK giả do Công ty Tân Trường
Sinh (Hoài Đức, Hà Nội) sản xuất.


Tổng cục Hải quan - Bộ Tài chính, đã tiếp nhận và xử lý 26 đơn yêu cầu

kiểm tra, giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu, đơn gia hạn kiểm tra, giám sát có liên
quan đến SHTT. Cơ quan hải quan đã ra thông báo tạm thời dừng 10 trường hợp,
tạm dừng làm thủ tục hải quan 05 trường hợp, xử lý 03 trường hợp xác định là hàng
giả mạo về SHTT (điện thoại và linh kiện điện thoại di động, thuốc lá điếu...) với

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
8


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

giá trị hàng hố vi phạm khoảng 200 triệu đồng. Cơ quan Hải quan đã xử phạt vi

phạm hành chính với số tiền 400 triệu đồng [1]
1.3.

Thúc đẩy hợp tác quốc tế về sở hữu trí tuệ
Ngồi những nỗ lực tăng cường thực thi pháp luật về SHTT ở trong nước,

Việt Nam cịn khơng ngừng tăng cường thúc đẩy hợp tác quốc tế về SHTT trên cả
hai bình diện đa phương và song phương.
Hiện nay, liên quan đến lĩnh vực SHTT, Việt Nam còn là thành viên của
Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả ước Madrid về Đăng ký
quốc tế nhãn hiệu từ năm 1949; Công ước thành lập Tổ chức SHTT thế giới từ năm
1976; Hiệp ước Hợp tác bằng sáng chế từ tháng 3/1993; thành viên chính thức của
Công ước Bern từ ngày 26/10/2004; Công ước Geneva từ ngày 6/7/2005; Công ước
Brussels từ ngày 12/1/2006; và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid về
đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ ngày 11/7/2006.
Trong khuôn khổ đa phương, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực SHTT chủ yếu
liên quan đến các hoạt động trong khuôn khổ WTO, Diễn đàn Hợp tác châu Á –
Thái Bình Dương (APEC) và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt
Nam đã tích cực và chủ động tham gia các hoạt động với tư cách thành viên chính
thức. Việt Nam đã tham gia các cuộc rà soát về pháp luật SHTT trong khuôn khổ
WTO; tham gia thảo luận các vấn đề SHTT trong Vịng đàm phán Đơha gồm: Thiết
lập hệ thống đa phương về thông báo và đăng bạ chỉ dẫn địa lý; mối quan hệ giữa
Hiệp định TRIPS và Hiệp định về đa dạng sinh học; mở rộng sự bảo hộ mạnh đối
với chỉ dẫn địa lý đang áp dụng cho rượu vang và rượu mạnh sang các sản phẩm
khác.
Đối với APEC, Việt Nam đã tham gia Nhóm chuyên gia APEC về SHTT;
tham gia triển khai các hoạt động tập thể về SHTT của APEC và tham gia xây dựng
Chương trình hành động quốc gia về SHTT của Việt Nam trong APEC. Trong
phạm vi ASEAN, Việt Nam chính thức là thành viên Nhóm cơng tác về hợp tác
SHTT giữa các nước ASEAN (AWGIPC) từ năm 1995 và luôn chủ động, tích cực

cùng các thành viên khác triển khai các hoạt động chung của ASEAN như dự án

[1] Tổng hợp từ Báo cáo số 1650/BC-BKHCN ngày 08/7/2009 của Bộ Khoa học và Cơng nghệ về

kết quả thực hiện chương trình hành động 168 năm 2008
Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
9


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

hợp tác, chia sẻ kết quả thẩm định đơn sáng chế; triển khai các chương trình hợp tác
về SHTT giữa ASEAN với các đối tác khác.
Bên cạnh đó, quan hệ hợp tác song phương về SHTT không ngừng được mở
rộng. Bên cạnh các đối tác truyền thống như Tổ chức SHTT thế giới (WIPO), Liên
minh châu Âu, Thụy Sỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan... trong những năm qua,
quan hệ hợp tác song phương với nhiều nước khác cũng đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận. Nhiều hoạt động và dự án hợp tác với sự trợ giúp của các đối tác đã
được triển khai có hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc cải thiện năng lực của
toàn bộ hệ thống SHTT quốc gia, giúp Việt Nam thực hiện tốt hơn các nghĩa vụ và
cam kết quốc tế về SHTT.
2.

Những động thái từ phía doanh nghiệp và cộng đồng

2.1.

Sự thờ ơ với bảo hộ sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp

Nhìn tồn cảnh bức tranh về tình hình tuân thủ pháp luật về SHTT, có thể

thấy rằng, sự thi hành pháp luật về sỡ hữu trí tuệ của doanh nghiệp là hết sức hời
hợt, lấy lệ và bắt buộc. Điều này một phần bắt nguồn từ sự nhận thức về SHTT của
doanh nghiệp và một phần do lợi ích thu được từ việc chấp hành pháp luật về SHTT
với doanh nghiệp là chưa lớn, nếu khơng muốn nói là thiệt hại.
Về nhận thức: Do chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo hộ
SHTT với nhãn mác, kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm, nên thời gian qua nhiều
doanh nghiệp của Việt Nam còn thờ ơ, chưa thực sự quan tâm đến việc bảo vệ
thương hiệu, sản phẩm của mình. Khơng ít doanh nghiệp lại có tâm lý ngại nếu làm
to chuyện sẽ bị mất khách hàng, ảnh hưởng đến doanh thu.
Có thể thấy rằng, sự chủ động của doanh nghiệp trong việc yêu cầu pháp luật
bảo vệ quyền SHTT của mình còn thấp. Theo quy định tại các văn bản pháp luật, cơ
quan Hải quan đang chủ yếu thực thi bảo hộ SHTT theo các yêu cầu của chủ sở hữu
(tạm dừng làm thủ tục cho hàng hóa xuất nhập khẩu). Tuy nhiên trên thực tế, từ
trước đến nay các trường hợp cơ quan Hải quan thực hiện bảo hộ SHTT theo yêu
cầu của chủ sở hữu là rất ít, phần lớn là do trong khi thực hiện chức năng phòng
chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, lực lượng hải quan
mới phát hiện xử lý nhiều vụ bn bán vận chuyển hàng giả, hàng khơng có nguồn
gốc xuất xứ. Ví dụ, mặt hàng kem đánh răng nhãn hiệu P/S của Việt Nam hay bột
ngọt Ajinomoto được làm giả từ nước ngồi đưa vào Việt Nam…
Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
10


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Thống kê cho thấy, từ trước tới nay số vụ mà chủ sở hữu chủ động nộp đơn
cho cơ quan Hải quan để yêu cầu dừng làm thủ tục đối với hàng hóa xuất nhập khẩu
nghi ngờ xâm phạm SHTT chỉ đếm trên đầu ngón tay. Một vụ duy nhất là do một
công ty sản xuất thuốc lá nước ngồi ủy quyền cho một cơng ty luật trong nước tiến
hành từ năm 2003. Sau khi đại diện của công ty sản xuất thuốc lá này cung cấp đầy

đủ hồ sơ chứng cứ và nộp tiền tạm ứng theo qui định của pháp luật, cơ quan Hải
quan đã ngay lập tức dừng làm thủ tục cho lô hàng thuốc lá này.
Một biểu hiện cho thấy sự thờ ơ của doanh nghiệp về thực thi quyền SHTT
đó là kết quả trong việc đăng ký quyền sở hữu cơng nghiệp, theo báo cáo của Cục
SHTT thì năm 2007 số lượng đơn đăng ký của các tổ chức, cá nhân Việt Nam chưa
nhiều, trong số các doanh nghiệp đã đăng ký bảo hộ, các doanh nghiệp Việt Nam
mới chỉ chiếm 1/3 (khoảng 100.000 doanh nghiệp), thấp hơn nhiều so với các doanh
nghiệp nước ngồi. Năm 2007, có 17.990 đơn của người nước ngồi và chỉ có 1.777
đơn của người Việt Nam

[2]

. Hơn nữa trong số các loại đăng ký SHTT, thì doanh

nghiệp chỉ tập trung đăng ký nhãn hiệu hàng hố (84%); cịn lại các hình thức khác
chiếm tỷ lệ không đáng kể: đăng ký sáng chế (9%); đăng ký bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp (6%); đăng ký bảo hộ Giải pháp hữu ích (1%).[3]
Nguyên nhân của sự thờ ơ của doanh nghiệp là do sự phức tạp và tốn kém
khi thực hiện các yêu cầu liên quan. Chỉ khi có đơn đề nghị của chủ sở hữu và họ
phải cung cấp đầy đủ bằng chứng về sở hữu hợp pháp quyền SHTT, bằng chứng về
việc vi phạm quyền SHTT cho cơ quan Hải quan, đồng thời phải nộp một khoản
tiền tạm ứng tương đương 20% trị giá lô hàng hoặc chứng từ bảo lãnh của tổ chức
tín dụng, ngân hàng để bảo đảm bồi thường thiệt hại và các chi phí phát sinh do đề
nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan khơng đúng, thì cơ quan mới thực hiện việc
dừng làm thủ tục cho hàng hóa nghi ngờ xâm phạm SHTT. Vì thế doanh nghiệp
khơng muốn bỏ nhiều chi phí và cơng sức cho việc u cầu này do khơng nắm chắc
được kết quả.
Về lợi ích doanh nghiệp thu được khi chấp hành pháp luật về SHTT: Có thể
thấy rằng, hầu hết các doanh nghiệp đều chưa muốn tuân thủ theo pháp luật về
SHTT, hoặc chỉ thực hiện trên một số mặt, còn lại vẫn muốn duy trì theo cơ chế cũ.

[2] Theo báo điện tử Người đại biểu nhân dân:
/>[3]: Anh Tuấn- WTO & Market access Portal, cổng thông tin về WTO và tiếp cận thị trường

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
11


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Nguyên nhân là do doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra một số vốn rất lớn để đầu tư xây
dựng hoặc sử dụng các chương trình có bản quyền. Điển hình nhất là trên khía cạnh
xây dựng hệ thống mạng máy tính cho cơng ty. Hầu hết các chương trình mà doanh
nghiệp sử dụng đều là các chương trình khơng có bản quyền. Lấy một ví dụ nhỏ để
thấy rằng cái giá phải trả cho việc tuân thủ pháp luật SHTT là quá lớn: Nếu sử dụng
phần mềm Windows chính hãng thì chi phí phải bỏ ra là 2.000USD cho một máy
tính, trong khi nếu dùng phần mềm crack (khơng có bản quyền) thì chi phí chỉ là
7.000 đồng cho một máy, thấp hơn rất nhiều.
Tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng tinh vi và phức tạp
Xâm phạm quyền SHTT trong giai đoạn hiện nay được thực hiện bằng nhiều
phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các thiết bị hiện
đại để sản xuất hàng hoá làm cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị trường khó
phát hiện thật /giả. Các hành vi vi phạm này ngày càng nguy hiểm hơn ở tính chất vi
phạm, có tổ chức chặt chẽ khơng những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn
mở rộng đối với tổ chức và cá nhân nước ngồi. Ví dụ như, hàng năm sản lượng
nước mắm Phú Quốc chỉ đạt tối đa 15 triệu lít, nhưng có tới hàng trăm triệu lít nước
mắm mang tên Phú Quốc tung ra thị trường. Hoặc Cơng ty Unilever Việt Nam có
thời điểm bị thiệt hại do hàng nhái, hàng giả và buôn lậu lên tới hàng chục triệu
USD, trong đó đã xác định được 90% hàng giả theo các nhãn hàng của Unilever là
2.2.


có xuất xứ từ nước ngồi [4].
Nhóm tội phạm thuộc lĩnh vực SHTT có đặc điểm rất phức tạp vì chủ thể của
tội phạm hầu hết là những người có điều kiện kinh tế, trình độ chun mơn, kỹ thuật,
tay nghề cao, am hiểu những lĩnh vực mình đang quản lý, một số người cịn có chức
vụ, quyền hạn nhất định. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của khoa học, cơng nghệ đã tạo
nhiều thiết bị, công cụ, phương tiện phạm tội ngày càng tinh vi nên rất khó phát
hiện. Các tội xâm phạm SHTT đã gây ra hoặc đe dọa đến thiệt hại nền kinh tế của
cả nước cũng như từng lĩnh vực, từng ngành, ảnh hưởng đến tài sản, sức khoẻ và
tính mạng con người, tác động đến với cả cộng đồng, triệt tiêu sức sáng tạo và khiến
giới đầu tư e ngại.
[4] Ths. Lê Việt Long – Thanh tra, Bộ Công Thương, theo website của người bảo vệ quyền lợi số
Thứ năm, ngày 12/05/2011 03:11:44

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
12


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

3.

Đánh giá những tồn tại - yếu kém trong việc áp dụng hiệp định TRIPS ở
Việt Nam

Từ những thực trạng về thực thi quyền SHTT ở nước ta có thể nhận thấy rõ
cịn tồn tại quá nhiều yếu kém và bất cập.
Thứ nhất: Hệ thống luật pháp vẫn còn nhiều điểm chưa thực sự phù hợp.
Một số quy định chung về nguyên tắc bảo hộ và một số quy định cụ thể về quyền
tác giả và quyền liên quan trong Luật SHTT 2005, đã sửa năm 2009 vẫn bị cho là
chưa hoàn toàn phù hợp với Hiệp định TRIPS và Công ước Berne về bảo hộ các tác

phẩm văn học và nghệ thuật.
Luật SHTT đã giao cho hải quan thẩm quyền rất lớn, vượt quá khả năng của
cơ quan này và vượt quá yêu cầu của Hiệp định TRIPS đối với các quốc gia thành
viên của WTO. Với trình độ về SHTT hiện nay và hạn chế về trang bị, hải quan
Việt Nam khó có khả năng thẩm định được các vi phạm về sáng chế, giống cây
trồng, kiểu dáng công nghiệp… Nếu mời chuyên gia thẩm định thì lại vượt quá thời
gian tạm dừng thủ tục thông quan mà Luật SHTT quy định. Như vậy, quy định này
sẽ rất khó thực thi. Điều này đã phần nào lý giải hiện tượng hàng hóa vi phạm
quyền SHTT có nguồn gốc từ nước ngồi đang tràn ngập trên thị trường Việt Nam
hiện nay.
Có nhiều mâu thuẫn trong quy định của Luật SHTT và Luật Cạnh tranh, ví
dụ như về cạnh tranh khơng lành mạnh. Trước khi ban hành Luật SHTT 2005,
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh là một đối tượng được bảo hộ theo quy
định tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP, nhưng điều 3 của Luật SHTT không nhắc đến
đối tượng này mà lại quy định ở điều khoản khác.
Thứ hai: Hiệu quả thực thi pháp luật về SHTT cịn rất thấp, hiện nay chúng
ta chưa có Toà án, cơ quan thực thi chuyên trách quyền SHTT, chưa có được các
thẩm phán, cơng chức thực thi, xử lý chuyên trách các tội phạm, hành vi xâm phạm
quyền SHTT.
Việc xử lý các vụ việc liên quan đến xâm phạm quyền SHTT cũng chưa thực
sự mạnh tay và triệt để. Các xử lý vi phạm vẫn nặng về xử lý hành chính. Do mức
phạt hành chính rất nhỏ so với những lợi ích thu được từ các hành vi vi phạm nên
khó có thể đảm bảo việc tuân thủ nghiêm túc luật pháp về SHTT.
Thứ ba: Nhận thức của chính cộng đồng và doanh nghiệp đối với vấn đề
SHTT nói chung, thực thi quyền SHTT nói riêng mặc dù đã được cải thiện nhưng
cịn thấp. Trong hồn cảnh kinh tế như Việt Nam hiện nay, cùng với những lợi ích
thu được từ những hành vi xâm phạm quyền SHTT đã khiến cho các doanh nghiệp
khó có thể triệt để tuân thủ theo các quy định của pháp luật về SHTT.
Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
13



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

1.
1.1.

PHẦN III : NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI HIỆP ĐỊNH TRIPS Ở VIỆT NAM
Các giải pháp từ phía chính phủ
Tiếp tục hồn thiện pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ
Thứ nhất, hồn thiện pháp luật điều chỉnh nội dung quyền SHTT.

Các hạn chế trên tồn tại trong pháp luật Việt Nam là khó tránh khỏi, bởi việc
bảo hộ quyền SHTT là một lĩnh vực còn rất mới và khó áp dụng với thực tiễn của
Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, để bảo đảm
thực hiện đúng, đầy đủ các cam kết quốc tế cũng như phù hợp với các điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế, pháp luật Việt Nam cần phải được hoàn thiện hơn nữa theo
hướng tập trung vào một số nội dung chính.
Trước hết, cần quy định cụ thể hơn về phạm vi và điều kiện bảo hộ để nhằm
hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nội dung quyền SHTT. Trong một thời gian dài
chúng ta mới chỉ tập trung vào một số đối tượng được xem là “nóng” của quyền
SHTT, như: bản quyền, nhãn hiệu hàng hố, sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp... cịn
các đối tượng khác, trong đó có bí mật kinh doanh (BMKD) hầu như khơng được
chú ý tới. Theo đó có thể quy định cụ thể: “BMKD là các thông tin về khoa học kỹ
thuật, về quy trình sản xuất, về tài chính hoặc các thông tin về các hoạt động sản
xuất kinh doanh khác”. Khái niệm cụ thể này sẽ giúp chúng ta xác định được phạm
vi các thông tin sẽ được pháp luật Việt Nam bảo hộ là BMKD một cách chính xác,
tránh những tranh cãi khơng cần thiết như hiện nay.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật về bộ máy thực thi bảo hộ quyền

SHTT, tập trung vào một số cơng việc cụ thể sau :

Hồn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền SHTT trong pháp luật dân sự, bao
gồm: hoàn thiện các quy định về việc xác định các hành vi xâm phạm quyền SHTT;
nâng cao vai trị của Tồ án dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền
SHTT; xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi quyền SHTT một cách kịp thời và
có hiệu quả; xác định rõ thẩm quyền vụ việc của Toà án trong việc xét xử các tranh
chấp về SHTT; bổ sung những quy định chi tiết về các chế tài đủ mạnh để chống lại
các hành vi xâm phạm quyền SHTT; tham khảo một số biện pháp khẩn cấp tạm thời
đã được áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền SHTT ở một số nước
trên thế giới.

Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền SHTT trong pháp luật hành chính,
bao gồm: xây dựng và ban hành những quy định, hướng dẫn riêng về thủ tục tố tụng
Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
14


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

và những vấn đề cụ thể, riêng biệt cần được áp dụng trong quá trình giải quyết các
khiếu kiện hành chính về SHTT một cách cụ thể hơn; xem xét lại quy trình thủ tục
trong việc yêu cầu được bảo về quyền SHTT, quy định rõ ràng hơn, đơn giản hơn;
đồng thời có chỉ dẫn rõ ràng, hướng dẫn thực hiện cụ thể từng bước, từng công đoạn,
các loại chứng từ cần chuẩn bị, liên hệ cơ quan nào để được giải quyết. Phải làm
được điều này thì các doanh nghiệp mới thực sự có động lực để thực hiện việc bảo
vệ quyền SHTT của mình.
Hồn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền SHTT trong pháp luật hình sự:
ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Hình sự có liên



quan tới việc xét xử các vụ án hình sự về xâm phạm quyền SHTT.
- Hồn thiện các quy định pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý
vi phạm về bảo hộ quyền SHTT: quy định rõ ràng và mạnh tay hơn các việc xử lý vi
phạm.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của lĩnh vực SHTT, tranh chấp về SHTT
cũng ngày càng nhiều, tuy nhiên doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều bối rối về cách
giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm quyền. Để bảo hộ quyền SHTT, pháp luật
Việt Nam qui định ba biện pháp để xử lý các hành vi xâm phạm là biện pháp dân sự,
hành chính và hình sự tùy vào mức độ xâm phạm. Trong khi đó, ranh giới giữa biện
pháp dân sự và biện pháp hành chính lại chưa thật sự rõ ràng, đặc biệt vấn đề những
tranh chấp nào được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự và những tranh chấp nào
được giải quyết theo thủ tục hành chính. Hệ quả là, nhiều tranh chấp về quyền
SHTT lẽ ra phải được giải quyết theo thủ tụng tố tụng dân sự nhưng lại giải quyết
theo thủ tục hành chính. Do đó cần quy định rõ ràng hơn về thẩm quyền giải quyết
các xâm phạm quyền SHTT để tránh dẫn đến sự chồng chéo trong hoạt động của
các cơ quan hữu quan.
- Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về SHTT: tích cực hơn nữa trong việc
tuyên truyền để doanh nghiệp và cộng đồng nhận thức được lợi ích của quyền
SHTT; tổ chức thêm nhiều chương trình tuyên truyền, phổ biến sâu rộng hơn nữa;
nâng cao khả năng nhận biết vi phạm quyền SHTT và kiến thức để xử lý các trường
hợp vi phạm của các cơ quan chức năng có trách nhiệm bảo vệ quyền SHTT.
Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người dân về sở hữu trí tuệ và
lợi ích của việc thực hiện pháp luật về sở hữu trí tuệ
Để làm được điều này thì cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về pháp luật
cũng như việc thực thi pháp luật về SHTT. Thực tế trong những năm qua, việc nâng
1.2.

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
15



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

cao nhận thức của cơng chúng, cộng đồng doanh nghiệp về SHTT đã được thực
hiện thơng qua một số dự án. Điển hình là Dự án tuyên truyền, phổ biến kiến thức
về SHTT trên Đài Truyền hình Việt Nam - Chương trình “Chắp cánh thương hiệu”
đã thu hút được số lượng lớn các doanh nghiệp, trường đại học, cao đẳng, các cơ
quan, đoàn thể và đông đảo tầng lớp trong xã hội tham gia. Bên cạnh đó, cơng tác
triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp
giai đoạn 2005-2010 được phê duyệt theo Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg ngày
4.4.2005 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Chương trình 68) cũng đã có tác dụng
vơ cùng to lớn.
Tuy nhiên, SHTT - từ pháp luật đến thực thi là cả một quá trình dài, nên việc
nâng cao nhận thức của cơng chúng về SHTT cần phải có thời gian. Vì vậy, song
song với việc hồn thiện hệ thống pháp luật, cần thúc đẩy hoạt động tuyên truyền,
nâng cao nhận thức của công chúng về việc thực thi pháp luật bảo vệ quyền SHTT,
khuyến khích doanh nghiệp và người tiêu dùng phối hợp chặt chẽ hơn với các cơ
quan chức năng để thi hành có hiệu quả quy định về quyền SHTT. Nhà nước cần có
các chiến dịch truyền thơng liên tục và thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức của
công chúng về thực thi SHTT, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng, xuất bản các ấn phẩm liên quan đến chống hàng giả, hàng nhái, tầm quan
trọng của việc thực thi Luật SHTT...
Ngồi ra, do ít được đào tạo về SHTT nên việc nhận diện các vi phạm pháp
luật về SHTT là một khó khăn lớn đối với đa số các công chức, bao gồm cả thẩm
phán, điều tra viên. Bên cạnh đó, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước có nhiệm vụ
thực hiện việc bảo hộ quyền SHTT chưa được tổ chức một cách khoa học. Do đó
khơng chỉ cần nâng nhận thức của doanh nghiệp và người dân về SHTT và lợi ích
của việc thực hiện pháp luật về SHTT mà còn phải đẩy mạnh hoạt động đào tạo cán
bộ công chức cốt cán để hoàn thành tốt việc thực thi luật bảo hộ SHTT.

2.
2.1.

Các giải pháp từ phía doanh nghiệp
Cần chủ động nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ
Việc nâng cao nhận thức về SHTT bao gồm nâng cao hiểu biết của doanh
nghiệp về pháp luật SHTT, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc bảo vệ
tài sản trí tuệ của mình.
Mặc dù trong điều kiện hiện nay việc tuân thủ hoàn toàn theo quy định của
pháp luật SHTT sẽ mang lại cho doanh nghiệp thêm nhiều chi phí, nhưng xét một
cách tồn diện thì thực hiện tốt quyền SHTT sẽ mang lại cho doanh nghiệp giá trị
Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
16


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

vơ cùng lớn, khơng chỉ bảo vệ được quyền SHTT của doanh nghiệp về thương hiệu,
nhãn hiệu, bản quyền - những giá trị vô cùng lớn đối với một doanh nghiệp - mà
hơn nữa còn đem lại giá trị cho xã hội, cho người tiêu dùng.
Việc thực hiện bảo về quyền SHTT và tuân thủ pháp luật về SHTT có thể sẽ
gặp khó khăn trong giai đoạn đầu tuy nhiên doanh nghiệp cần nhận thấy trách
nhiệm của mình trong việc góp phần xây dựng nền tảng tốt cho tương lai.
Nâng cao tinh thần chủ động tuân thủ luật pháp về sở hữu trí tuệ
Trước hết các doanh nghiệp phải kiên quyết đứng ra bảo vệ quyền lợi của
mình khi bị xâm phạm SHTT. Điều này góp phần nâng cao uy tín thương hiệu của
2.2.

doanh nghiệp, giữ hình ảnh của doanh nghiệp với khách hàng. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp phải chủ động đăng kí quyền SHTT đối với những tài sản trí tuệ của mình

khơng chỉ ở phạm vi trong nước mà còn cả ở các khu vực nước ngoài. Thực tế cho
thấy việc thiếu chủ động tìm hiểu và đăng kí quyền sỡ hữu trí tuệ sớm tại một số thị
trường tiềm năng tại nước ngoài mà một số thương hiệu và doanh nghiệp Việt Nam
đã vướng phải những vụ tranh chấp về SHTT khi phát triển kinh doanh tại thị
trường thế giới.
Doanh nghiệp cần xác lập quyền SHTT về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng
cơng nghiệp, nguồn gốc xuất xứ hàng hố, thực hiện quy chế ghi nhãn; sử dụng các
biện pháp chống hàng giả (tem chống hàng giả hoặc các dấu hiệu đặc biệt trên sản
phẩm) và tuyên truyền đến người tiêu dùng; lập đường dây nóng để người tiêu dùng
phản ánh nếu phát hiện hàng giả; đăng ký bảo vệ SHTT tại biên giới với cơ quan
hải quan Việt Nam; nắm vững luật pháp về SHTT, và quyền xử lý của các cơ quan
Nhà nước để khởi kiện hoặc tố cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
17


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy là bên cạnh những kết quả đáng khích lệ mà Việt Nam
đã đạt được về việc thực hiện Hiệp định TRIPS trong thời gian qua, vẫn còn tồn tại
rất nhiều hạn chế, cả từ phía Chính phủ cũng như từ phía doanh nghiệp và người
dân, gây cản trở đến sự phát triển và hội nhập kinh tế. Hệ thống pháp luật chưa chặt
chẽ và chưa được phổ biến rộng rãi nên chưa thật sự phát huy hiệu quả, đồng thời
khó nhận được phản hồi từ phía doanh nghiệp cũng như cộng đồng đẻ có thể điều
chỉnh phù hợp. Bản thân các doanh nghiệp và người dân cũng chưa chủ động tìm
hiểu và thực hiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, cũng như chủ động tố giác các hành vi
vi phạm cho các cơ quan chức năng khiến công tác điều tra và xử lý gặp nhiều khó
khăn. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần phải củng cố hệ thống pháp luật,

đồng thời tổ chức bộ máy quản lý về vấn đề sở hữu trí tuệ một cách khoa học và
đồng bộ, từ cấp lập pháp đến cấp thi hành. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường công
tác tuyên truyền, phổ biến và thực hiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, nhằm khuyến
khích các tầng lớp xã hội chủ động hơn nữa trong việc tuân thủ triệt để pháp luật về
sở hữu trí tuệ, từ đó thúc đẩy thương mại phát triển, đồng thời đáp ứng được các
yêu cầu của WTO, tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia sâu rộng hơn nữa vào các
hoạt động kinh tế - xã hội quốc tế.

Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
18


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

I.
1.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt

Hệ thống bài giảng về SHTT dịch từ bài giảng của Giáo sư Michael
Blakeney trong khng khổ chương trình hợp tác EC-ASEAN về SHTT.
Tháng 10-2007

2.

Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, NXB thống kê 2006

3.


T.S Trần Văn Hải; Tạp chí thơng tin và dự báo kinh tế xã hội; Bộ Kế hoạch
và đầu tư’ số 31 tháng 7 năm 2008; Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn; Đại học Quốc gia Hà Nội
II.

4.

Website

Cổng thông tin về WTO và tiếp cận thị trường của Bộ công thương

/>ID=5

5.

Website của Bộ Khoa học và cơng nghệ
/> /> /> /> />
6.

Website diễn đàn luật học
/>
Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
19


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

7.

Website điện tử báo Đất Việt

/>
8.

Website của Phịng thương mại và cơng nghiệp Việt nam
/>
9.

Websie của Trung tâm tư vấn pháp luật tại thành phố Hồ Chí Minh – trung
ương hội luật gia Việt Nam
/>015

10.

/>
Nhóm 9 – Chính sách Thương mại Quốc tế và Việt Nam
20



×