Tải bản đầy đủ (.doc) (153 trang)

Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên việt nam hiện nay (qua thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.98 KB, 153 trang )

Ket-noi.com kho ti liu min phớ
1

mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
nhân loại đang sống trong những năm đầu cđa thÕ kû
21, thÕ kû cđa sù bïng nỉ vỊ thông tin khoa học và kỹ thuật
hiện đại, tiên tiến nhất từ trớc đến nay. Những thành tựu mà
nhân loại đà đạt đợc trong những năm gần đây đà làm thay
đổi cuộc sống của nhiều dân tộc trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia thuộc các nớc đang phát triển
về mặt kinh tế, lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài.
Song, dới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại, Việt Nam cũng đang từng ngày từng giờ thay đổi
diện mạo của mình.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc, Đảng ta chủ trơng phát triển nền kinh tế thị trờng theo
định hớng xà hội chủ nghĩa. Sau gần 20 năm đổi mới, đất nớc ta đà thu đợc những thành tựu đáng tự hào. Về cơ bản,
chúng ta đà thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xà hội
và đà có sự tăng trởng về kinh tế, phá đợc thế bao vây cấm
vận, mở rộng quan hệ đối ngoại, tình hình kinh tế chính
trị cơ bản là ổn định, quốc phòng an ninh đợc tăng cờng,
thế và lực ngày càng đợc củng cố và phát triển.
Kinh tế thị trờng đà đem lại cho ta những điều "kỳ
diệu" trong sự phát triển kinh tế - xà hội, tuy nhiên nó cũng là
mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ lợi, những thói


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
2


h tËt xÊu, nh÷ng tƯ nạn xà hội đà và đang từng ngày, từng
giờ làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống.
Mặt trái của cơ chế thị trờng đà tạo ra mét bé phËn kh«ng
nhá líp ngêi trong x· héi nãi chung, mét bé phËn thanh niªn,
sinh viªn nãi riªng cã lối sống chạy theo đồng tiền, buông
thả, quay lng với văn hóa, với truyền thống dân tộc.
Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng
trởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xà hội, vừa
phát triển kinh tế thị trờng, đồng thời phải bảo tồn và phát
huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ơng lần thứ t khóa VII,
nguyên Tổng Bí th Đỗ Mời đà khẳng định: Phát triển tách
khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ
tha hóa. Đi vào kinh tế thị trờng, hiện đại hóa đất nớc mà
xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc
dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ
của ngời khác, của dân tộc khác.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về "Một số định hớng
lớn trong công tác t tởng hiện nay" tiếp tục khẳng định: Sự
phát triển của một dân tộc phải vơn tới cái mới tạo ra cái mới,
nhng lại không thể tách rời khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa
trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội
nguồn, giữ đợc cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là
văn hóa (cốt lõi là những giá trị luân lý đạo đức).
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tơng lai của mỗi dân tộc phụ
thuộc một phần rất lớn vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

3

riªng. LiƯu chóng ta cã thể giữ vững định hớng xà hội chủ
nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt lý tởng, thiếu ý thức giữ
gìn những giá trị truyền thống dân tộc? Trong những điều
kiện mới của đất nớc, chúng ta đà chuẩn bị "hành trang" gì
cho họ? Điều tiên quyết và không thể thiếu đó là "truyền
thống dân tộc", những truyền thống đáng tự hào của lịch
sử mấy nghìn năm dựng nớc và giữ nớc đà giúp chúng ta "hội
nhập" mà không bị "hòa tan", phát triển mà không bị "mất
gốc", trọng truyền thống mà không bảo thủ, tất cả những
điều đó đà và ®ang gióp cho thanh niªn ViƯt Nam nãi
chung - sinh viên Việt Nam nói riêng nâng cao hơn nữa bản
lĩnh của mình, đứng vững trớc mọi thử thách khắc nghiệt
của cuộc sống hiện đại.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc là vấn đề hết sức cấp bách trong giai
đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn chän:
" Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện
nay (qua thùc tÕ một số trờng đại học và cao đẳng ở
thành phố Hà Nội)" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm
gần đây đà có nhiều công trình nghiên cứu ở dới các góc độ
khác nhau, một số bài viết đà đề cập đến khía cạnh này
hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể nh: "Giá trị tinh thần
truyền thống Việt Nam" do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa
häc x· héi, Hµ Néi, 1980; "BiƯn chøng cđa trun thống" của
Hà Văn Tấn, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "VÒ truyÒn thèng



Ket-noi.com kho ti liu min phớ
4

dân tộc" của Trần Quốc Vợng, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981;
"Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng
con ngời mới ở nớc ta" của Đỗ Huy, Tạp chí Thông tin Khoa học
xà hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, một nhu cầu phát triển của xà hội hiện đại" của Lơng Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4-1992; "Tìm hiểu
định hớng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trờng" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994;
"Giá trị - định hớng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" do
Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, tháng 4-1995; "Đặc điểm lối
sống sinh viên hiện nay và những phơng hớng, biện pháp
giáo dục lối sống cho sinh viên", Đề tài nghiên cứu khoa học,
mà số B94-38-32 do Mạc Văn Trang chủ biên (Viện nghiên cứu
phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo), 1995; "Sự biến
đổi định hớng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều
kiện kinh tế thị trờng" của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học,
số 5-1995; "Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hớng các giá trị đạo đức hiện nay" cđa Ngun ThÕ KiƯt, T¹p
chÝ TriÕt häc, 6-1996; "Sù tác động hai mặt của cơ chế thị
trờng đối với đạo đức ngời cán bộ quản lý" của Nguyễn Tĩnh
Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2-1997; "Định hớng xà hội chủ
nghĩa về các quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trờng ở nớc
ta hiện nay" của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "T tởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện
đạo đức trong
nền kinh tế thị trờng" của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số
5, 1998; "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục
tiêu phát triển" của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số
2, 1998; "Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát



Ket-noi.com kho ti liu min phớ
5

triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay",
Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán, 1999; "Vì sao Hồ
Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức?" của
Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 4, 2000; "Tình cảm đạo
đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay"
của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6, 2000; "Kế thừa
và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình
chuyển sang nỊn kinh tÕ thÞ trêng ë ViƯt Nam hiƯn nay",
Ln án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000; "Giá trị
đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xà hội" của
Mai Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3, 2001; "Lý tởng đạo đức
và việc giáo dục lý tởng đạo đức cho thanh niên trong điều
kiện hiện nay" của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2,
2001; "Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo
đức mới của ngời cán bộ lÃnh đạo quản lý" của Nguyễn Ngọc
Long, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2001; "Giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của
đạo đức trong nền kinh tế thị trờng" của Trần Nguyên ViƯt,
T¹p chÝ TriÕt häc, sè 5, 2002; "KÕ thõa t tởng đạo đức Hồ
Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay" của
Lê Sĩ Thắng, Tạp chí TriÕt häc, sè 5, 2002; "Mét sè biĨu
hiƯn cđa sù biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trờng ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của
Nguyễn Đình Tờng, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Khoa học
công nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trờng"

của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Từ "cái
thiện" truyền thống đến "cái thiện" trong cơ chế thị trờng
ở Việt Nam hiện nay" cđa Ngun Hïng HËu, T¹p chÝ TriÕt


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
6

häc, sè 8, 2002; "Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam
hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh,
2002; "Tiêu chuẩn đạo đức của ngời cán bộ lÃnh đạo chính
trị hiện nay" của Trần Văn Phòng, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 5, 2003 v.v...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết trên
đều có ý nghĩa to lớn đối với việc kế thừa và phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nớc ta. Tuy
nhiên, những công trình này cha đề cập một cách trực tiếp
đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
sinh viên Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nớc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho sinh viên các trờng đại học và
cao đẳng ở Hà Nội và nguyên nhân của nó, từ đó đa ra phơng hớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh
viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống của

dân tộc, từ đó xác định tầm quan trọng và yêu cầu của việc
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam
trong giai đoạn hiÖn nay.


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
7

- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho sinh viên các trờng đại học và cao đẳng ở
Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phuơng hớng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay (qua thực tế thành phố Hà Nội).
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tợng nghiên cứu: Đối tợng nghiên cứu của đề tài là
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên
hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là
vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên các trờng
đại học và cao đẳng ở Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
t tởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống. Ngoài ra,
tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu của các
công trình nghiên cứu đà đợc công bố có liên quan đến đề

tài.
5.2. Phơng pháp nghiên cứu


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
8

Tác giả luận văn sử dụng phơng pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phơng pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp quy nạp và
diễn dịch, điều tra xà hội học... nhằm thực hiện mục đích
và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của
việc giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống cho sinh
viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các trờng đại học và
cao đẳng ở Hà Nội, bớc đầu đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ
nghĩa.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn "Đạo
đức học" ở các trờng đại học và cao đẳng. Đồng thời, nó cũng
góp phần nhất định vào việc nhận thức rõ vai trò của việc
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho tầng lớp sinh viên
trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả luận văn cố
gắng lợng hóa nội dung các giá trị đạo đức truyền thống quý
báu của dân tộc, làm cho đạo đức truyền thống dân tộc mÃi

mÃi là những chuẩn mực đạo đức mà mỗi con ngời Việt Nam
luôn hớng tới.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
9

7. KÕt cÊu cđa ln văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 ch¬ng, 6 tiÕt.


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
10

Chơng 1
Tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho sinh viên Việt Nam hiện nay

1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay

1.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức truyền thống
Thuật ngữ "giá trị" ra đời cùng với sự ra đời của triết
học. Nói cách khác, ngay từ đầu, gắn với triết học đà có những
hiểu biết về giá trị và giá trị học. Trớc thế kỷ XIX, những kiến
thức về giá trị học đà gắn liền với những tri thức triết học. Sau
này, khi khoa học có sự phân ngành, thì giá trị học tách ra
thành một môn khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị đợc dùng

để chỉ một khái niệm khoa học.
Khái niệm "giá trị" trở thành trung tâm của giá trị học,
nó đợc sử dụng trong các lÜnh vùc nh: triÕt häc, x· héi häc,
t©m lý häc, ®¹o ®øc häc, kinh tÕ häc... Trong lÜnh vùc kinh
tÕ học, "giá trị" chỉ sức mạnh của vật này khống chế lại vật
khác khi trao đổi với nhau, để bộc lộ giá trị thì vật phẩm
đợc làm ra đó phải có ích cho cuộc sống con ngời và đáp
ứng đợc nhu cầu của con ngời. Chính vì lẽ đó trong kinh tế,
giá trị là yếu tố hàng đầu. C.Mác viết: "Lao động có một sức
sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động đợc nhân lên
cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian nh nhau, nó tạo ra
giá trị cao hơn so với một lao động giá trị trung bình cùng
loại" [40, tr. 104-105].


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
11

Trong triÕt häc, chđ nghÜa duy tâm chủ quan coi giá
trị là hiện tợng của ý thức, là biểu tợng của thái độ chủ quan
của con ngời đối với khách thể mà ngời đó đang đánh giá.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh bản chất xà hội, tính
lịch sử của giá trị, đồng thời khẳng định giá trị có thể
nhận thức đợc và giá trị có tính thực tiễn. Tất cả mọi cái gọi
là giá trị đều có nguồn gốc xuất phát từ chính cuộc sèng lao
®éng thùc tiƠn cđa con ngêi. Do vËy, cã thể nói, chỉ trong xÃ
hội loài ngời mới có cái gọi là giá trị. Và chính "con ngời là giá
trị cao nhất của mọi giá trị là thớc đo của mọi giá trị. Đầu t
vào con ngời là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển ngời
kinh tế - xà hội" [66, tr. 11]

Trong hoạt động thực tiễn, giá trị của một sự vật hiện
tợng đều đợc xác định bởi sự đánh giá của con ngời. Sự
đánh giá đó nằm trong quy luật của sự vận động và phát
triển tiến lên trong thế giới, nó phục vụ ngày càng tốt hơn
cho cuộc sống con ngời, cho lợi ích và tiến bộ xà hội. Có thể
nói, "mọi giá trị đều thĨ hiƯn mèi quan hƯ gi÷a ngêi víi vËt;
chØ khi nào sự vật khách quan có ích với con ngời thì mới là
giá trị" [38, tr. 32] và "nói đến giá trị là nói đến cái có ích,
có lợi cho nhân dân, cho dân tộc, cho sự phát triển của xÃ
hội, nói đến những gì có thể thỏa mÃn đợc nhu cầu và lợi
ích của con ngời trong lịch sử" [67, tr. 136].
Trong cuốn Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống
vì mục tiêu phát triển có viết nh sau: "Nói đến giá trị tức là
muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là
đà bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
12

tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con
ngời hành động và vơn tới" [2, tr. 16].
Trong cuốn Từ điển Bách khoa toàn th Xô viết định
nghĩa:
Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý
nghĩa của các đối tợng thế giới xung quanh đối với
con ngời, giai cấp, nhóm của toàn bộ xà hội nói chung.
Giá trị đợc xác định không phải bởi bản thân các
thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút (lôi
cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động

sống của con ngời, phạm vi các hứng thú và nhu cầu,
các mối quan hệ xà hội, các chuẩn mực và phơng thức
đánh giá ý nghĩa nói trên đợc biểu hiện trong các
nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tởng,
tâm thế và mục đích [63, tr. 1462].
Qua các khái niệm, các quan điểm về giá trị trên đây,
có thể khái quát lại nh sau:
Thứ nhất, giá trị là tất cả những cái gì mang ý nghĩa
tích cực, gắn với cái đúng, cái tốt, cái đẹp, đợc con ngời
thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có một vị trí quan
trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu góp
phần vào sự phát triển của xà hội.
Thứ hai, giá trị không phải là một cái gì nhất thành bất
biến mà nó luôn vận động biến đổi theo thời gian và không
gian sao cho phù hợp trong từng thời điểm nhất định. Chính
vì vậy, trên thực tế không phải những cái gì đà có giá trị


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
13

trong quá khứ đều giữ nguyên giá trị đối với hiện tại. Điều
đó cho thấy giá trị mang tính lịch sử khách quan, sự ra đời
tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc
vào ý thức của con ngời mà do yêu cầu của từng thời đại nhất
định trong lịch sử.
Thứ ba, giá trị đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong đời sống xà hội, giá trị giúp con ngời điều chỉnh hành
vi của mình trong cuộc sống, giá trị giúp con ngời định hớng
và xác định mục đích cho hành động của mình, là động

cơ thúc đẩy hoạt ®éng cđa con ngêi.
Trªn thùc tÕ ®· cã rÊt nhiỊu cách phân loại giá trị. Dựa
vào tiêu chí mục đích phơc vơ cho nhu cÇu cđa con ngêi,
ngêi ta chia ra làm hai loại giá trị: Giá trị vật chất và giá trị
tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế,
nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xà hội loài ngời.
Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ,
tình cảm, ý chí, nó đợc thể hiện trên các lĩnh vực t tởng,
đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, phong tục tập quán... Những
phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống tinh thần
và chúng trở thành các chuẩn mực để con ngời đánh giá
phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống
hàng ngày, trong quan hƯ gi÷a con ngêi víi con ngêi, con ngời với xà hội.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh
thần của đời sống xà hội và đợc con ngời lựa chọn, nhằm
điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con ngời với con


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
14

ngêi, con ngêi víi x· hội, chúng đợc thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của d luận xà hội. Giá trị
đạo đức biến đổi theo sự biến đổi của đời sống xà hội.
Về khái niệm truyền thống, trong lịch sử đà từng tồn
tại nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề "truyền thống".
Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xô, "truyền thống"
có nguồn gốc từ tiếng Latinh là traditio - sự chuyển giao, lu
truyền lại - đó là các giá trị tinh hoa văn hóa đợc lu truyền từ

những thế hệ trớc và nó đợc gìn giữ ë c¸c x· héi, giai cÊp
hay nhãm x· héi nhÊt định. Trong cuốn Giá trị truyền thống
trớc những thách thức của toàn cầu hóa có đoạn viết: "Từ
đây, cái đợc gäi lµ trun thèng chØ khi nµo nã trë thµnh
mét bé phËn thiÕt u cđa cc sèng chóng ta vµ chỉ khi
nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó có khả
năng phát triển cuộc sống cđa chóng ta" [3, tr. 23].
Trun thèng cđa mét céng đồng dân tộc bao gồm
những đức tính, thói quen, những phong tơc tËp qu¸n x· héi
cđa c¸c thÕ hƯ nèi tiếp nhau, nó mang các đặc trng: cộng
đồng, bình ổn, lu truyền. "Nói đến truyền thống là nói đến
phức hợp những t tởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những
phong tơc, lèi sèng, c¸ch øng xư, ý chÝ... cđa mét cộng đồng
ngời đà hình thành trong lịch sử, đà trở nên ổn định và đợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác" [3, tr. 16-19].
Dới góc độ khoa học, truyền thống đợc hiểu theo hai
nghĩa. Nghĩa thứ nhất, truyền thống đó là những giá trị tốt
đẹp, đợc lu truyền từ đời này qua đời khác, nó đứng vững
đợc trong thời gian và có thể đơng đầu với những biÕn


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
15

động của lịch sử. Hơn nữa, những giá trị ấy có khả năng tạo
ra sức mạnh, sản sinh ra các giá trị mới, đem lại lợi ích cho con
ngời.
Tuy nhiên, trong đó cũng có những cái mà chúng ta vẫn
gọi là "truyền thống" nhng không đem lại lợi ích cho con ngời, nhiều khi nó kìm hÃm sự phát triển đây là nghĩa thứ
hai, nghĩa tiêu cực của phạm trù này. Trong cuốn Ngày mời
tám tháng Sơng mù của Louis Bonaparte, C.Mác viết rằng:

"Truyền thống của tất cả các thế hệ đà chết đè nặng nh quả
núi lên đầu óc những ngời đang sống". Còn Hồ Chí Minh,
trong bài "Đạo đức cách mạng" (tháng 12-1958) cũng đà viết:
"Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó
ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không
thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó,
rất lâu dài"
Hiểu theo nghĩa thứ nhất, truyền thống trở thành mét
bé phËn thiÕt u cđa ®êi sèng con ngêi. Nã góp phần duy
trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống của chúng ta. Tóm lại, sự
nhận thức truyền thống không tách rời nhận thức các giá trị.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu
thành của hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, nó là
nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của
dân tộc đợc xác định là những chuẩn mực, những khuôn
mẫu lý tởng, những quy tắc øng xư gi÷a con ngêi víi con ngêi, gi÷a con ngời với tự nhiên (mà ngày nay ta gọi là giá trị
đạo đức sinh thái). Đặc điểm cơ bản của truyÒn thèng nãi


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
16

chung, giá trị đạo đức truyền thống nói riêng là sự kế thừa.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nớc và giữ nớc, dân tộc Việt Nam
đà rèn luyện và tạo nên những thế hệ ngời Việt Nam giàu
lòng yêu nớc, yêu thơng con ngời, cần cù, thông minh, sáng tạo,
chịu thơng, chịu khó... Những đức tính đó đà trở thành
những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà
hàng ngàn đời nay chúng ta vẫn nâng niu quý trọng.

Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân
tộc, chính là nói ®Õn trun thèng tèt ®Đp cđa céng ®ång
d©n téc ®ã. Nó chính là những giá trị bình ổn, tốt đẹp,
có thể lu truyền từ đời này qua đời khác, là những cái cần
đợc giữ gìn phát huy phát triển cho phù hợp với xà hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị
đạo đức truyền thống là một bộ phận thiết yếu, nổi lên
hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó. Chính
vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc ta, là nói đến những phẩm chất tốt đẹp, quý báu
đà đợc hình thành và bảo lu trong suốt chiều dài lịch sử của
dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc ta đợc cô đúc, đợc thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ
khác nhau, theo những bớc thăng trầm của lịch sử, nó chứa
đựng một tiềm năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là
sức mạnh vốn cã cđa d©n téc ViƯt Nam, gióp cho d©n téc
ViƯt Nam tồn tại và phát triển. Giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc ta do chính cộng đồng ngời Việt Nam tạo lập
trong quá trình dựng nớc và giữ nớc, với tất cả những điều


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
17

kiện lịch sử đặc thù riêng vốn có, đà tạo nên một bản sắc
hết sức độc đáo.
1.1.2. Nội dung cơ bản của một số giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc Việt Nam
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam đợc hình thành, lắng đọng và phát triển qua hàng

mấy nghìn năm lao động sáng tạo, chiến đấu kiên cờng của
cả dân tộc. Là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa
nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Việt Nam là một quốc gia nằm giữa Đông Nam á, với
địa hình chạy dài theo bờ biển và tiếp nối giữa ba vïng:
miỊn nói, ®ång b»ng, bê biĨn. KhÝ hËu nhiƯt đới gió mùa
nóng ẩm và ma nhiều, giàu tài nguyên thiên nhiên, tạo điều
kiện thuận lợi và cũng không ít khó khăn cho nghề trồng lúa
nớc.
Về mặt lịch sử, Việt Nam là một quốc gia nhỏ hẹp lại
phải trải qua rất nhiều cuộc đấu tranh chống ách đô hộ,
chống kẻ thù từ bên ngoài mà thờng là những kẻ thù hùng mạnh
hơn ta gấp bội phần. Vì lẽ đó ngời dân Việt Nam luôn luôn
tập hợp lại thành một khối đại đoàn kết, đấu tranh chống
giặc ngoại xâm và mở mang bờ cõi.
Chính trong quá trình ấy, văn hóa Việt Nam đà có dịp
giao lu với văn hóa bên ngoài, trong đó văn hóa phơng Đông
đà ảnh hởng mạnh mẽ đến nền văn hóa tín ngỡng và tôn giáo
của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là t tởng Phật giáo, Nho gi¸o,


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
18

Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam từ rất lâu và đà đi sâu
vào đời sống tín ngỡng ngời dân Việt Nam.
Phật giáo truyền bá t tởng từ bi hỷ xả, cứu khổ cứu nạn,
yêu thơng chúng sinh. Phật giáo cho rằng, có một thế giới
vĩnh hằng, tồn tại tích cực siêu việt, đó là cõi "niết bàn", nhng muốn đến đợc nơi cực lạc đó thì con ngời phải sống từ
bi, ăn hiền, ở lành, xa lánh mọi ham muốn vật chất, mọi thú

vui hởng lạc, sống không tranh giành, yêu thơng nhau. Đơng
nhiên, t tởng này vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực,
nhng ít nhiều nó cũng ảnh hởng đến những truyền thống
vốn có của ta, làm sâu đậm thêm truyền thống nhân ái yêu
thơng con ngời của dân tộc Việt Nam.
Đạo Nho là một hệ thống quan điểm về thÕ giíi, vỊ x·
héi vµ vỊ con ngêi, lµ mét học thuyết chính trị - đạo đức xà hội (mà Khổng Tử là ngời khởi xớng) đà ảnh hởng mạnh mẽ
tới đời sống đạo đức của xà hội Việt Nam. Những nội dung t
tởng của Nho giáo nh: Nhân; lễ; chính danh; tam cơng; ngũ
thờng... cũng dần thấm sâu vào đời sống, trở thành lối sống,
cách ứng xử ở đời của ngời Việt Nam và đợc Việt hóa.
Đạo gia của LÃo Tử cũng góp phần làm phong phú thêm
cho truyền thống vốn có của dân tộc ta, nó góp phần làm
mạnh mẽ thêm tinh thần đoàn kết thân ái, gắn bó và tinh
thần chống áp bức, đô hộ khi có thời cơ.
Văn hóa Việt Nam không chỉ giao lu với văn hóa phơng
Đông mà còn có sự giao lu với văn hóa phơng Tây, đặc biệt
là văn hóa Pháp. Tuy nhiên, khi các trào lu văn hóa, tôn giáo


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
19

đó du nhập vào Việt Nam đà đợc nhân dân Việt Nam kế
thừa có chọn lọc để hình thành nên những nét riêng đặc
trng cho mình, nhng cái riêng đó nó vẫn luôn ẩn chứa cái
chung tạo nên sự tơng đồng trong việc hình thành nên các
giá trị đạo đức của các dân tộc khác trên thế giới.
Cho đến nay, văn hóa Việt Nam tuy có nhiều thay đổi
trên nhiều phơng diện nhng vẫn giữ đợc cốt cách, bản sắc

văn hóa riêng của mình, hội nhập mà không hòa tan, không
đánh mất mình và vẫn giữ đợc những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp quý báu của dân tộc. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ơng Đảng (khóa VIII)
"Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc", đà khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao
gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa đợc vun
đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng
nớc và giữ nớc. Đó là lòng yêu nớc nồng nàn; lòng tự
tôn, tự cờng dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết
cá nhân - gia đình - làng xà - Tổ quốc; lòng nhân ái
khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần
cù sáng tạo trong lao động; là đức hy sinh cao thợng
tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân
dân; là sự tế nhị trong c xử, tính giản dị trong lối
sống [10, tr. 10-11].


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
20

Xung quanh việc xác định các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc Việt Nam, đà có rất nhiều quan điểm của các
học giả, các nhà khoa học bàn về vấn đề này.
Giáo s Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: lòng yêu nớc, truyền
thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo; trong đó yêu nớc là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của
dân tộc [25, tr. 74-86].
Giáo s Trần Văn Giàu nói về giá trị đạo đức truyền

thống dân tộc ta với bảy nội dung nh sau: "Yêu nớc, cần cù,
anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thơng ngời, vì nghĩa" [22, tr.
108].
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hớng
lớn trong công tác t tởng hiện nay chỉ rõ: "Những giá trị văn
hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng
yêu nớc nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thơng
ngời nh thể thơng thân", đức tính cần cù, vợt khó sáng tạo
trong lao động..." [15, tr. 19].
Trong chơng trình khoa học công nghệ cấp nhà nớc:
"Con ngời Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xà hội" (KX-07) đà khẳng định: Cốt lõi của các giá trị
truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân cách con ngời Việt
Nam bao gồm: tinh thần yêu nớc, vì nghĩa, lòng thơng ngời...
Tuy còn có sự khác biệt nào đó trong việc sắp xếp
thang giá trị đạo đức. Nhng nhìn chung, các quan điểm các


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
21

ý kiÕn ®Ịu thèng nhÊt cao độ ở một điểm coi chủ nghĩa
yêu nớc là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó là "sợi chỉ đỏ xuyên
qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại" [20,
tr. 100], là "tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá
trị" [22, tr. 94], là "động lực tình cảm lớn nhất của đời sống
dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá
trị đạo đức của dân tộc ta" [48, tr. 74].
Tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều có tình cảm yêu

quê hơng đất nớc mình. Nhng đối với dân tộc Việt Nam,
tình yêu quê hơng đất nớc là một thứ tình cảm hết sức
thiêng liêng, nó xuất phát từ ý thức cộng đồng gắn bó keo
sơn. Mỗi ngời dân Việt Nam, đều đặt lợi ích của Tổ quốc
lên trên hết, khi có giặc ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh thân
mình, lúc hòa bình biết chăm lo xây dựng và bảo vệ quê
hơng đất nớc. Lòng yêu nớc của dân tộc ta đà trở thành triết
lý sống, triết lý nhân sinh, trở thành chủ nghĩa yêu nớc. GS.
Trần Văn Giàu có viết: "Chủ nghĩa yêu nớc là sản phẩm của
bản thân lịch sử Việt Nam đợc bắt đầu từ tình cảm tự
nhiên của mỗi ngời đối với quê hơng mình tiến lên thành lý
tởng và hệ thống t tởng làm chủ của nhận thức đúng sai, tốt
xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phơng lợc xây dựng và
bảo vệ nớc nhà" [21, tr. 7].
Lịch sử dựng nớc và giữ nớc của dân tộc Việt Nam ngay
từ đầu đà gắn bó con ngời với thiên nhiên, với quê hơng xứ sở
của mình, chính vì vậy truyền thống yêu nớc của dân tộc


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
22

ViƯt Nam b¾t ngn tõ tình yêu đối với quê hơng làng xóm,
yêu cây đa, bến nớc, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, anh chị em, con cái, bạn bè, bà con hàng xóm, nơi có
mồ mả tổ tiên. Nơi con ngời hàng ngày vất vả chiến đấu với
thiên nhiên để duy trì và xây dựng cuộc sống.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử
chống giặc ngoại xâm. Vì vậy, yêu nớc trớc hết là tinh thần
chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Cho dù ở

hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn luôn kiên cờng bất
khuất, "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nớc,
nhất định không chịu làm nô lệ", già trẻ gái trai nhất tề
đứng lên đánh giặc, "còn cái lai quần cũng đánh". Chính vì
vậy mà trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, ông cha ta
vẫn bám trụ đến cùng, giữ đất, giữ làng, gắn bó với mồ mả
tổ tiên, giữ vững nơi chôn rau, cắt rốn của mình. Kiên
quyết chống lại chính sách đô hộ của ngoại bang, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào tinh
thần yêu nớc của dân tộc Việt Nam không hề giảm sút mà nó
luôn luôn đợc hun đúc, âm ỉ cháy trong lòng mỗi ngời dân
nớc Việt.
Tinh thần yêu nớc của dân tộc Việt Nam thể hiện ngay
từ thuở vua Hùng dựng nên nớc Văn Lang cho đến thời đại Hồ
Chí Minh. Với hơn 1000 năm ®Êu tranh giµnh ®éc lËp tõ 197
(TCN) ®Õn 938 (SCN), đầu tiên là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trng, cho đến cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền đánh quân
Nam Hán với chiến thắng giòn giÃ, đà mở ra một thời kú míi cho


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
23

lịch sử dân tộc. Từ 938 - 1789 dân tộc ta liên tiếp đánh tan
quân xâm lợc Tống, Nguyên, Minh, Thanh... Đến thời kỳ chiến
tranh giải phóng dân tộc: từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1975,
chúng ta đà đánh thắng cả hai tên đế quốc to: Pháp, Mỹ. Với
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta đà giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nớc, giang sơn thu về một
mối, nớc nhà hoàn toàn độc lập. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng
Lao động Việt Nam (11-2-1951), Bác Hồ nói: Dân ta có một

lòng nồng nàn yêu nớc. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần
ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng m¹nh mÏ, to
lín, nã lít qua mäi sù nguy hiĨm, khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả lũ bán nớc và cớp nớc.
Chủ nghĩa yêu nớc của dân tộc Việt Nam đợc hình
thành, đợc thử thách và đợc khẳng định qua bao thăng trầm
của lịch sử, nó đà đợc bổ sung và phát triển qua từng thời
kỳ, nó là một trong những giá trị truyền thống cao quý và
bền vững nhất của dân tộc ta. Ngày nay, truyền thống yêu
nớc của nhân dân Việt Nam thể hiện trong xây dựng đất nớc, trớc hết là chăm lo xây dựng đất nớc về mọi mặt kinh tế,
chính trị, văn hóa... Thể hiện ở sự nhất trí, tin tởng vào đờng lối đổi mới của Đảng, vào khả năng, sức mạnh tự lực tự cờng của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng xà hội công bằng, dân chủ, văn minh. Có thể
nói rằng, dới thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nớc đợc
phát huy lên tầm cao mới thành lý tởng: sống, chiến đấu, lao


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
24

động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xà hội, vì
hạnh phúc của nhân dân...
Cùng với chủ nghĩa yêu nớc, Truyền thống nhân ái - yêu
thơng con ngời là một trong những giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc ta, truyền thống ấy có nguồn gốc sâu xa
từ trong sinh hoạt công xà nông thôn, đợc củng cố và phát
triển qua quá trình chung lng, đấu cật khai phá giang sơn,
giữ gìn đất nớc. Tấm lòng nhân nghĩa, nhân ái đó chính
là cơ sở cho cách xử thế ở đời của ngời Việt Nam, là triết lý
sống của dân tộc Việt Nam. Hết lòng vì nghĩa cả, giúp đỡ

nhau trong hoạn nạn, khó khăn mà không hề tính toán, lên án
mạnh mẽ những kẻ tàn ác "táng tận lơng tâm", "phụ tình bạc
nghĩa".
Từ trong sâu lắng của lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn
luôn gắn tình yêu quê hơng đất nớc với lòng nhân ái - yêu
thơng con ngời. Do vậy, ngời Việt Nam luôn xả thân vì đất
nớc, con ngời yêu nớc và con ngời yêu dân gắn bó chặt chẽ với
nhau. Trong suốt trờng kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn luôn đứng
trớc nguy cơ bị xâm lợc và bị đồng hóa, hơn ai hết, chúng
ta hiểu rất rõ quyền sống của mình gắn với vận mệnh của
Tổ quốc và dân tộc.
Lòng nhân ái nhân nghĩa của ngời Việt Nam còn thể
hiện ở lòng vị tha cao thợng, không cố chấp đối với những
ngời lầm đờng lạc lối, nhng biÕt lËp c«ng chc téi, trë vỊ víi
chÝnh nghÜa. ChÝnh t tởng "lấy nhân nghĩa để thắng
hung tàn, lấy chí nhân để thay cờng bạo" trong Bình Ngô
đại cáo của Nguyễn TrÃi là sự thể hiện đỉnh cao của lòng


Ket-noi.com kho ti liu min phớ
25

nhân ái đó. Ngời Việt Nam lấy tình yêu thơng làm cách xử
thế ở đời, đối với kẻ thù thậm chí còn mở đờng hiếu sinh khi
thua trận, Vua Quang Trung sau khi đánh bại quân Thanh còn
cấp lơng thảo và phơng tiện cho đám tàn quân về nớc.
Hồ Chủ tịch là hiện thân của lòng nhân ái, nhân
nghĩa. Xuất phát từ lòng thơng yêu con ngời - ngời lao động,
yêu quê hơng đất nớc, Bác đà bôn ba tìm đờng cứu nớc, giải
phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy sinh cho độc lập

dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đúng nh nhà thơ Tố
Hữu viết: "Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông mọi
kiếp ngời". Lòng nhân ái của Ngời đà trở thành sức mạnh, nó
đà thấm sâu vào chủ trơng đờng lối chính sách của Đảng và
Nhà nớc ta, có tác dụng cảm hóa hàng vạn con ngời lầm đờng
lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ nh là
những đứa con "lạc bầy" cần đợc cu mang. Bác nói: Giống
nh bàn tay cũng có ngón dài ngón ngắn, nhng ngắn dài đều
hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy chục triệu ngời, có ngời thế
này, ngời thế khác, nhng tất cả đều là dòng dõi tổ tiên ta,
đều là ngời Việt Nam, nên cần phải khoan dung đại lợng. Hàng
năm, Đảng và Nhà nớc thờng có những đợt giảm án cho các
phạm nhân cải tạo tốt, điều đó thể hiện lòng nhân ái của
Đảng và Nhà nớc ta.
Ngày nay, truyền thống đó đợc thể hiện trong đờng
lối đối ngoại của Đảng: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển". Lòng nhân ái của ngời Việt Nam cũng là
lòng yêu chuộng hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân


×