Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BTL tài chínhh Phân tích quy định về thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân từ Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao đến Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện nay để đánh giá sự hoàn thiện của quy định về thu nhập chịu thuế trong Luật Thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.66 KB, 15 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP LỚN
MÔN:

Luật Tài Chính
ĐỀ BÀI 10

Họ và tên

:

Mã số sinh viên

:

Nhóm

:

Lớp

:

Hà Nội, 2021


Mục lục
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………. 1
NỘI DUNG 1


I.

Khái quát chung về Thuế Nhà nước Việt Nam ………………..……………...1

I. Khái quát về thuế thu nhập cá nhân và một số đánh giá sự hoàn thiện của quy
định về thu nhập chịu thuế trong Luật Thuế thu nhập cá nhân…………………….5
1.

Khái niệm và đặc điểm. ……………………………………..………………...2

2.

Các đối tượng nộp và kỳ tính thuế thu nhập cá nhân. ………………………...3

3. Áp dụng chịu thuế thu nhập cá nhân trong Pháp lệnh thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao. ……………………………………..………………............4
4. Một số đánh giá sự hoàn thiện của quy định về thu nhập chịu thuế trong Luật
Thuế thu nhập cá nhân…………………………………………………………...…6
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Một hiết chế đặc biệt được tổ chức với chức năng quản lý xã hộichính là Nhà
nước và một trong những công việc mà nhà nước phải thực hiện để đạt được chức
năng nói trên là điều tiết nền kinh tế và thu thuế thu nhập cá nhân là một biện pháp
vừa góp phần tăng ngân sách, vừa có vai trị lớn trong điều tiết kinh tế vĩ mơ. Cho
nên, không phải mọi cá nhân, mọi thu nhập đều phải chịu thuế thu nhập cá nhân mà
chỉ có những thu nhập nhất định. Quy định của pháp luật về vấn đề này đã ra đời từ
lâu với nhiều sự bổ sung, thay thế. Đến nay, quy định mới trong Luật thuế thu nhập

cá nhân đã hoàn thiện hơn nhiều so với quy định trước đây. Để tìm hiểu rõ hơn về
vấn đề này, em chọn đề tài số 10: “Phân tích quy định về thu nhập chịu thuế thu
nhập cá nhân từ Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao đến
Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện nay để đánh giá sự hoàn thiện của quy định về thu
nhập chịu thuế trong Luật Thuế thu nhập cá nhân” để làm bài tập của mình.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về Thuế Nhà nước Việt Nam
1. Khái niệm “Thuế”
Thuế là một khoản thu bắt buộc, khơng bồi hồn trực tiếp của Nhà nước đối
với các tổ chức và các cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước vì lợi
ích chung.
Ngồi ra cịn có khái niệm khác “Thuế là một khoản phí tài chính bắt buộc
hoặc một số loại thuế khác áp dụng cho người nộp thuế (một cá nhân hoặc pháp
nhân) phải trả cho một tổ chức chính phủ để tài trợ cho các khoản chi tiêu công khác
nhau
2. Đặc điểm Thuế của nhà nước Việt Nam

1


Các khoản thu thuế được tập trung vào Ngân sách nhà nước là những khoản
thu nhập của nhà nước được hình thành trong quá trình nhà nước tham gia phân phối
của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
Thứ nhất, Thuế là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Thứ hai, Thuế dựa vào thực trạng của nền kinh tế (GDP, chỉ số giá tiêu dùng,
chỉ số giá sản xuất, thu nhập, lãi suất,...).
Thứ ba, Thuế được thực hiện theo ngun tắc hồn trả khơng trực tiếp là chủ
yếu
3. Vai trò của Thuế trong xã hội

Thuế giữ vai trò quan trọng trong xã hội hiện tại nếu khơng có thuế nhà nước
sẽ khơng thể hoạt động vững mạnh.
Nguồn thu của ngân sách nhà nước: Thuế được coi là khoản thu quan trọng
nhất, mang tính chất ổn định lâu dài và khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu
này

càngtăng.

Cơng cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mơ: Góp phần thực hiện chức
năng kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở
rộng lưu thơng đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế
hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong
nền kinh tế quốc dân.
4. Phân loại thuế
Căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau mà người ta phân thuế ra thành nhiều
loại để có thể dễ dàng quản lý.
Phân loại theo hình thức thu gồm:
2


-Thuế trực thu: Là loại thuế thu trực tiếp vào khoản thu nhập, lợi ích thu được
của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân. VD: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
thu nhập cá nhân, thuế chuyển nhượng quyền sở hữu đất.
-Thuế gián thu: Là loại thuế do các nhà sản xuất, thương nhân hoặc người
cung cấp dịch vụ nộp cho Nhà nước thông qua việc cộng số thuế này vào giá
bán cho người tiêu dùng chịu. VD: Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế xuất nhập khẩu.
II. Khái quát về thuế thu nhập cá nhân và một số đánh giá sự hoàn thiện
của quy định về thu nhập chịu thuế trong Luật Thuế thu nhập cá nhân
1. Khái niệm và đặc điểm.

Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập thực nhận của
các cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần. Thuế này thu vào một số
khoản thu nhập cao chính đáng của cá nhân nhằm thực hiện việc điều tiết thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư, góp phần thực hiện công bằng xã hội và tăng nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước.
Chính vì thế thuế thu nhập cá nhân có những đặc điểm sau:
- Có diện đánh thuế rộng là tất cả các cá nhân có thu nhập chịu thuế.
- Thuế thu nhập cá nhân luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
- Việc đánh thuế thu nhập cá nhân thường áp dụng theo nguyên tắc lũy tiến
từng phần.
Trước đây do điều kiện hoàn cảnh nền kinh tế tập trung, do nguồn thu nhập
của dân cư trong xã hội mang tính thuần chất nên Nhà nước không thu thuế đối với
thu nhập của cá nhân không kinh doanh. Hiện tại, cơ chế quản lý và cơ chế kinh tế đã
thay đổi theo hướng nền kinh tế thị trường, mức độ phân hóa giàu nghèo ngày càng
lớn nên để thực hiện điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, ngày
3


27/12/1990, Hội đồng nhà nước ban hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao, Pháp lệnh này được áp dụng trên thực tế kể từ ngày 01/4/1991. Qua
quá trình thực hiện, Quốc hội đã sửa đổi bổ sung nhiều lần vào năm 1992, 1993,
1994, 1997. Đến năm 2001 Pháp lệnh mới được ban hành thay thế pháp lệnh đó.
Ngày 21/11/2007 Quốc hội đã ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2009. Và đến năm 2012, Luật thuế thu nhập cá nhân đã được sửa
đổi bổ sung một số điều để phù hợp với thực tiễn.
2. Các đối tượng nộp và kỳ tính thuế thu nhập cá nhân.
Có hai đối tượng phải nộp thuế thu nhập cá nhân là:
Thứ nhất, cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh
thổ Việt Nam, đáp ứng các điều kiện sau: Một là, có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày
trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu

tiên có mặt tại Việt Nam; hai là, có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi
ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời
hạn.
Thứ hai, cá nhân khơng cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ
Việt Nam
Kỳ tính thuế đối với cá nhân cư trú được quy định như sau:
- Kỳ tính thuế theo năm áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ
tiền lương, tiền công;
- Kỳ tính thuế theo từng lần phát sinh thu nhập áp dụng đối với thu nhập từ
đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, trừ thu nhập từ chuyển nhượng chứng
khoán; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ trúng thưởng; thu nhập
từ bản quyền; thu nhập từ nhượng quyền thương mại; thu nhập từ thừa kế; thu nhập
từ quà tặng;

4


- Kỳ tính thuế theo từng lần chuyển nhượng hoặc theo năm đối với thu nhập từ
chuyển nhượng chứng khoán. Trường hợp cá nhân áp dụng kỳ tính thuế theo năm thì
phải đăng ký từ đầu năm với cơ quan thuế.
Kỳ tính thuế đối với cá nhân khơng cư trú được tính theo từng lần phát sinh
thu nhập áp dụng đối với tất cả thu nhập chịu thuế.
3. Áp dụng chịu thuế thu nhập cá nhân trong Pháp lệnh thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao.
a. Quy định của Pháp lệnh năm 2001.
Trong nội dung này, mặc dù Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) đầu tiên ra đời từ năm 1990 nhưng do thời
gian đã rất lâu nên để thuận lợi và tăng sức thuyết phục trong việc so sánh với Luật
Thuế thu nhập cá nhân nên em chỉ trình bày về thu nhập chịu thuế trong Pháp lệnh
năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2004.

Theo Pháp lệnh năm 2001, các khoản thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập
cá nhân bao gồm:
Thứ nhất, thu nhập thường xun dưới các hình thức: tiền lương, tiền cơng,
các khoản phụ cấp, tiền thưởng; các khoản thu nhập ngoài tiền lương, tiền công do
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ không thuộc đối tượng nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp, trừ các khoản thu nhập quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh này.
Theo đó, các khoản thu nhập khơng dùng để tính thuế thu nhập cá nhân gồm: tiền lãi
gửi ngân hàng, lãi tiền gửi tiết kiệm, lãi mua tín phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu;
Phụ cấp làm đêm; phụ cấp độc hại, nguy hiểm; phụ cấp khu vực; phụ cấp thâm niên
đối với lực lượng vũ trang; phụ cấp đặc biệt đối với một số đảo xa và vùng biên giới
có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn; phụ cấp thu hút; tiền cơng tác phí; tiền ăn
định lượng, phụ cấp đặc thù của một số ngành nghề theo chế độ Nhà nước quy định;
các khoản phụ cấp của cán bộ, công chức nhà nước và các khoản phụ cấp khác từ
ngân sách nhà nước; Tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh, các giải
5


thưởng quốc gia, quốc tế, tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà nước phong
tặng, tiền thưởng hoặc chế độ đãi ngộ khác từ ngân sách nhà nước; Tiền trợ cấp xã
hội, bồi thường bảo hiểm, trợ cấp thôi việc, trợ cấp điều động về cơ sở sản xuất theo
quy định của pháp luật; Thu nhập của chủ hộ kinh doanh cá thể thuộc diện chịu thuế
thu nhập doanh nghiệp; Thu nhập phát sinh tại Việt Nam của người nước ngồi được
coi là khơng cư trú tại Việt Nam dưới 30 ngày; Tiền nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế từ tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, quà biếu quà tặng từ nước ngồi chuyển về.
Thứ ba, chuyển giao cơng nghệ, bản quyền sử dụng sáng chế, nhãn hiệu, bí
quyết kỹ thuật, thiết chế kỹ thuật xây dựng, thiết kế công nghiệp và dịch vụ khác, trừ
trường hợp biếu, tặng.
Thứ tư, trúng thưởng xổ số.
Như vậy, Pháp lệnh 2001 quy định 4 loại thu nhập phải chịu thuế thu nhập cá

nhân. Bốn nhóm thu nhập này bao gồm cả thu nhập thường xuyên và thu nhâp không
thường xuyên, thu nhập do lao động và thu nhập do được tặng, biếu và trúng thưởng.
Đồng thời, đối với thu nhập thường xuyên cũng đã có quy định loại trừ các khoản
nhất định. Điều này cho thấy quy định của Pháp lệnh tại thời điểm đó cũng có những
điểm sáng, điểm hồn thiện nhất định. Thể hiên ở việc pháp luật đã xem xét một cách
toàn diện, có hệ thống, khoa học mọi nguồn thu nhập của cá nhân cũng như xem xét,
đánh giá khoản nào phải chịu, khoản nào khơng phải chịu thuế để có quy định cụ thể.
Tuy nhiên, quy định này nhanh chóng bị sửa đổi sau 03 năm thi hành bởi những hạn
chế, bất cập và thiếu sót.
b. Những thay đổi, bổ sung của Pháp lệnh 2004.
Theo đó, Pháp lệnh sửa đổi năm 2004 có một số điểm mới so với Pháp lệnh
năm 2001 như sau:
Thứ nhất về thu nhập chịu thuế:
6


Một, coi các khoản thu nhập từ bản quyền sử dụng sáng chế, nhãn hiệu, dịch
vụ tin học, tư vấn, đào tạo, đại lý, tiền nhuận bút, hoa hồng môi giới là các khoản thu
nhập thường xuyên. Đây là sự thay đổi tiến bộ của Pháp lệnh 2004 bởi thu nhập phát
sinh từ các nguồn này mang tính thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình khai
thác quyền sử dụng, kinh doanh các dịch vụ. Đồng thời, Pháp lệnh 2001 loại trừ
những thu nhập này trong trường hợp được biếu, tặng nhưng Pháp lệnh 2004 lại quy
định trong trường hợp được biếu, tặng thì vẫn phải chịu thuế.
Hai, bỏ thu nhập không thường xuyên phải chịu thuế là thu nhập được biếu,
quà tặng bằng hiện vật từ nước ngoài chuyển về.
Thứ hai, đối với các khoản thu nhập được loại trừ nghĩa vụ chịu thuế thu nhập
cá nhân:
Một, thu nhập phát sinh tại Việt Nam của người nước ngoài được coi là không
cư trú tại Việt Nam dưới 30 ngày khơng cịn được loại trừ. Theo đó, Pháp lệnh 2001
quy định trường hợp này khơng dùng để tính thuế thu nhập cá nhân nhưng Pháp lệnh

2004 đã bỏ quy định này ra khỏi khoản 2 Điều 3 về thu nhập không chịu thuế.
Hai, bổ sung một số loại phụ cấp không chịu thuế là phụ cấp lưu động; phụ
cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm đối với cán bộ, công chức.
Các điểm mới của Pháp lệnh 2004 được đánh giá là phù hợp, tiến bộ trong
điều kiện kinh tế, xã hội thời điểm đó. Tuy nhiên, các sửa đổi, bổ sung vẫn chưa
hoàn thiện, chưa đáp ứng được yêu cầu điều tiết kinh tế của Nhà nước. So với quy
định trong Luật Thuế thu nhập cá nhân ra đời sau đó 03 năm thì vẫn cịn nhiều thiếu
sót và hạn chế.
4. Một số đánh giá sự hoàn thiện của quy định về thu nhập chịu thuế
trong Luật Thuế thu nhập cá nhân
Theo quy định tại Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân, có 10 nhóm thu nhập
phải chịu thuế thay vì 4 nhóm (tiền lương, tiền cơng; thu nhập do tham gia hoạt động
7


sản xuất, kinh doanh; chuyển giao công nghệ và trúng thưởng xổ số) như Pháp lệnh
2004. Các nhóm thu nhập chịu thuế này được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số
111/2013/TT-BTC, cụ thể:
a. Thu nhập từ kinh doanh thuộc diện chịu thuế TNCN.
Thu nhập từ kinh doanh thuộc diện chịu thuế TNCN bao gồm:
– Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ: Việc sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề
kinh doanh theo quy định của pháp luật như: sản xuất, kinh doanh hàng hóa; xây
dựng; vận tải; kinh doanh ăn uống; kinh doanh dịch vụ, kể cả dịch vụ cho thuê nhà,
quyền sử dụng đất, mặt nước, tài sản khác. Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh
doanh nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản không đáp
ứng đủ điều kiện được miễn thuế cũng thuộc diện chịu thuế.
– Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc
chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật.
Thu nhập từ kinh doanh quy định tại khoản này không bao gồm thu nhập của

cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống.
Đối với nhóm thu nhập này, nếu như Pháp lệnh 2004 chỉ quy định chung
chung, không rõ ràng, không cụ thể là “thu nhập do tham gia hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ không thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp” thì
Luật thuế thu nhập cá nhân lại quy định rất cụ thể, chi tiết. Theo đó, tất cả các dịch
vụ sản xuất, kinh doanh hàng hóa, vận tải, ăn uống, kinh doanh dịch vụ đều phải chịu
thuế thu nhập cá nhân. Riêng đối với việc sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, lâm
nghiệp, làm muối và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, xuất phát từ đặc điểm đặc thù,
hồn cảnh và thu nhập của nhóm ngành nghề này nên pháp luật quy định chỉ phải
chịu thuế khi không đáp ứng điều kiện miễn thuế.
b. Thu nhập từ tiền lương, tiền công thuộc diện chịu thuế TNCN.
8


Thu nhập từ tiền lương, tiền công chịu thuế TNCN bao gồm:
– Tiền lương, tiền cơng và các khoản có tính chất tiền lương, tiền cơng;
– Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản:
+ Phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có cơng; phụ
cấp quốc phịng, an ninh;
+ Phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm
việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm;
+ Phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật;
+ Trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ
cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao
động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng và các khoản trợ cấp khác theo
quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội;
+ Trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động;
+ Trợ cấp mang tính chất bảo trợ xã hội và các khoản phụ cấp, trợ cấp khác
khơng mang tính chất tiền lương, tiền cơng theo quy định của Chính phủ.
Thu nhập về tiền lương, tiền công là khoản thu nhập chịu thuế được xác định

ngay từ pháp lệnh đầu tiên về thuế thu nhập cá nhân. Đây là khoản thu nhập hiện hữu
rõ nhất, là thu nhập chính của phần lớn người dân. Tuy nhiên, quy định trong các văn
bản khác nhau có sự khác nhau mà nhất là quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân.
Theo đó, có hai điểm mới cơ bản như sau:
Thứ nhất, bổ sung các khoản phụ cấp không chịu thuế thu nhập cá nhân, đó là
trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp khi sinh con, trợ cấp do suy giảm khả năng lao
động, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp hưu trí, trợ cấp về ưu đãi người có cơng… Xét về
bản chất, những khoản trợ cấp này nhằm khắc phục một phần khó khăn hoặc để ghi
nhận sự đóng góp của cá nhân. Do đó, nếu đánh thuế thu nhập cá nhân đối với những
9


khoản này thì sẽ làm giảm hoặc mất giá trị đó của các khoản trợ cấp. Do đó, việc ghi
nhận này của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp là hết sức phù hợp.
Thứ hai, bỏ một số khoản phụ cấp không chịu thuế như phụ cấp chức vụ, phụ
cấp thâm niên… Khác với các khoản trợ cấp ở nội dung thứ nhất, những khoản phụ
cấp này có được nhờ vào cơng sức lao động của người lao động, có tính chất như đối
với tiền lương, tiền cơng. Do đó, cần thiết phải đánh thuế đối với những khoản này.
c. Thu nhập từ đầu tư, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản
thuộc diện chịu thuế TNCN.
Thu nhập từ đầu tư vốn thuộc thu nhập chịu thuế TNCN bao gồm: Tiền lãi
cho vay; lợi tức cổ phần; thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác trừ trái
phiếu Chính Phủ.
Thu nhập từ chuyển nhượng vốn thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân: Thu
nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế; thu nhập từ chuyển
nhượng chứng khoán; thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác.
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm: Thu nhập từ chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; thu nhập từ chuyển nhượng
quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, quyền
thuê mặt nước; khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản dưới

mọi hình thức.
Pháp lệnh 2001 cũng như Pháp lệnh 2004 đều khơng quy định đây là nhóm thu
nhập chịu thuế. Đối với nhóm tiền lãi cho vay, Pháp lệnh nêu rõ “tạm thời chưa thu
thuế” có nghĩa pháp luật đã dự liệu nhưng tại thời điểm đó chưa đặt ra yêu cầu thu
thuế đối với thu nhập này. Các nhóm cịn lại chưa được dự liệu trong luật. Việc đầu
tư, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản cũng là một hình thức kinh
doanh, thơng qua đó có thể phát sinh thu nhập (lớn hoặc rất lớn). Nếu không coi đây
là thu nhập chịu thuế sẽ là một điểm hạn chế lớn, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị
10


trường đang ngày một phát triển, việc kinh doanh, góp vốn, đầu tư ngày càng sôi
động và đem lại nguồn lợi lớn.
d. Thu nhập từ trúng thưởng thuộc diện chịu thuế TNCN, thừa kế và qùa
tặng.
Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm: Trúng thưởng xổ số; trúng thưởng trong
các hình thức khuyến mại; trúng thưởng trong các hình thức cá cược.
Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng: Áp dụng đối với các khoản thu nhập từ
nhận thừa kế, quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở
kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
Đối với nhóm thu nhập này, Pháp lệnh 2004 chỉ xác định thu nhập từ trúng
thưởng xổ số là phải chịu thuế (đối với nhận quà tặng, Pháp lệnh 2001 có quy định
quà biếu, quà tặng bằng hiện vật từ nước ngoài chuyển về phải chịu thuế nhưng Pháp
lệnh 2004 đã bỏ quy định này). Đến Luật thuế thu nhập cá nhân, thu nhập từ trúng
thưởng, nhận thừa kế, q tặng đều được xem là có cùng tính chất phát sinh thu
nhập, do đó đều phải chịu thuế như nhau. Việc bổ sung này cũng rất phù họp với
thực tiễn. Đối với q tặng, ngồi xổ số thì các hình thức khác như khuyến mại, cá
cược cũng đang ngày càng phong phú, đa dạng. Chính sách maketing nhằm thu hút
khách hàng được sử dụng phổ biến và hiệu quả nhất chính là khuyến mại. Đối với
thừa kế và quà tặng, đời sống người dân ngày càng nâng cao, tài sản thuộc sở hữu tư

nhân ngày càng lớn đặt ra vấn đề thừa kế và quà tặng có những trường hợp lên đến
cả chục tỷ đồng. Do đó, việc đánh thuế đối với các khoản thu nhập này là yêu cầu
cấp thiết nhằm mục tiêu điều tiết nền kinh tế.
e. Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại.
Thu nhập từ bản quyền, bao gồm: Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử
dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ; từ chuyển giao cơng nghệ. Quy định
này kế thừa quy định của Pháp lệnh.
11


Thu nhập từ nhượng quyền thương mại: Nhượng quyền thương mại là hoạt
động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự
mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện luật
định. Thu nhập từ nhượng quyền thương mại cũng là thu nhập chịu thuế TNCN. Đây
tiếp tục là một bổ sung hoàn toàn mới của Luật thuế thu nhập cá nhân so với Pháp
lệnh 2001, 2004 dựa trên yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn.
Như vậy, đối với các khoản thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân, Luật thuế thu
nhập cá nhân đã có nhiều bổ sung, sửa đổi tiến bộ so với quy định của Pháp lệnh
2001, 2004. Những sửa đổi, bổ sung này là phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được yêu
cầu của xã hội, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.

KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy trong vấn đề thu nhập chịu thuế nói riêng, so với quy
định của Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế thu
nhập cá nhân đã hoàn thiện hơn nhiều. Hiện nay, các quy định của Luật vẫn thể hiện
rõ sự phù hợp, tiến bộ của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại điện tử đang
phát triển nhanh chóng như hiện nay thì vấn đề thu thuế thu nhập cá nhân phát sinh
từ thương mại điện tử cũng là vấn đề đang đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu, đưa ra cơ
chế quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.


12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 2001.
2. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao năm 2004.
3. Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
4. Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013: Hướng dẫn thực hiện Luật thuế
thu nhập cá nhân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân
và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật thuế thu nhập cá nhân.
5. />6. />
13



×