Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tiểu luận DỰNG nước gắn LIỀN với GIỮ nước, NHÀ nước gắn LIỀN với dân tộc đặc TRƯNG văn hóa nổi bật TRONG LỊCH sử ý NGHĨA đối với vấn đề xây DỰNG nền văn hóa TIÊN TIẾN đậm đà bản sắc dân tộc HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.18 KB, 32 trang )

0

MỞ ĐẦU
Việt Nam nằm ở Đông nam Châu Á, một đất nước đất khơng rộng, người
khơng đơng, nhưng đã có bề dày lịch sử hàng ngàn năm dựng nước đi đôi với
giữ nước. Trong những bước thăng trầm của lịch sử, dân tộc ta luôn chứa đựng
sức mạnh to lớn, vượt qua bao gian khổ, hiểm nguy. Có nhiều lý do để luận giải
cho nguồn sức mạnh đó, những hơn tất cả là bởi chúng ta có một nền văn hóa lâu
đời và thắm đượm tính dân tộc, sức nặng của của ánh hào quang trong quá khứ
đã nâng bước cho thế hệ hiện tại, vững bước hướng về tương lai. Đúng như lời
của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: Văn hố là sợi chỉ đỏ xun suốt
tồn bộ lịch sử dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc
Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác nghềnh tưởng chừng như không thể
vượt qua được. Hay cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã viết: Văn hố là cái cịn lại
khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả.
Văn hóa là biểu hiện của sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng và vị
thế, tầm vóc dân tộc. Thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển bền
vững, ngoài dựa vào các “yếu tố cứng” như tài nguyên thiên nhiên, tiền vốn, cơ
sở vật chất,…thì cần phải biết tận dụng, khai thác “yếu tố mềm”, đó chính là
nguồn nhân lực con người với vai trò là nhân cách văn hóa năng động, sáng tạo
nhất, đóng góp quyết định nhất đến sự hùng mạnh, phồn vinh của xã hội. Hay
nói cách khác, văn hóa là một “nguồn lực mềm” làm động lực và đòn bẩy thúc
đẩy kinh tế phát triển và làm “hài hịa hóa” các mối quan hệ xã hội và “lành
mạnh hóa” mơi trường xã hội.
Văn hố Việt Nam là kết quả q trình sáng tạo văn hố khơng ngừng của con
người Việt Nam trong q trình sản xuất vật chất và “sản xuất” tinh thần. Sự phát triển
của nền văn hóa Việt Nam tuân theo các quy luật: Quy luật tích hợp và lan toả văn hố,
quy luật kế thừa văn hoá, quy luật giao thoa và tiếp biến văn hoá. Nghiên cứu cả về mặt


1


lịch đại và đồng đại của lịch sử văn hoá đã làm rõ tính phong phú đa dạng của các vùng
miền, văn hoá, sự giao lưu và tiếp biến văn hoá cũng như bản sắc văn hoá dân tộc Việt
Nam trong q trình phát triển của nó.
Có một thời người ta phủ nhận sự hiện hữu của một nền văn hóa Việt
Nam, người ta gọi Việt Nam là một nước Trung Hoa thu nhỏ lại. Người ta tìm
cội nguồn của dân tộc Việt Nam ở đâu đó bên Trung hoa. Thế nhưng, những
cơng trình nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh xuống chiều sâu và chiều dài
lịch sử. Những tư liệu vật chất được lấy lên từ trong lòng đất mẹ, chiếu rọi một
ánh sáng mới mẻ vào qúa khứ ngàn năm (khi xưa cịn nằm trong bóng tối của
lịch sử), chứng minh một cách khoa học, nền văn hóa bản địa của người Việt do
chính người Việt sáng tạo ra với một hệ thống các đặc trưng; trong đó đặc trưng
dựng nước gắn liền với giữ nước, Nhà nước gắn liền với dân tộc là xuyên suốt,
bao trùm toàn bộ tiến trình lịch sử dân tộc.
1. Khái niệm về văn hóa và vai trị của văn hóa trong lịch sử dân tộc cũng
như trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay
1.1. Khái niệm về văn hóa
Vậy văn hóa là gì? Hiện nay vẫn đang cịn có nhiều định nghĩa về văn hóa,
bởi lẽ văn hóa là sản phẩm do lao động của con người tạo ra mà hoạt động lao
động của con người rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ đó đi đến
việc tạo ra những quan niệm cụ thể khác nhau: Văn hóa du lịch; văn hóa kinh
doanh, văn hóa ẩm thực …Ở phương Đơng, từ văn hóa đã có trong đời sống ngơn
ngữ rất sớm. Trong “Chu dịch”, quẻ bi đã có từ văn hóa “quan hồ nhân văn, dĩ hóa thành
thiên hạ” có nghĩa là xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ và người sử
dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là “Lưu Hướng” (năm 77 – 6 trước CN). Tuy vậy việc
xác định khái niệm văn hóa khơng đơn giản và thay đổi theo thời gian. Thuật ngữ văn
hóa với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử dụng vào thế kỷ XVII - XVIII bên cạnh


2
nghĩa gốc là quản lý, canh tác nông nghiệp. Vào thế kỷ XIX thuật ngữ văn hóa được các

nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho
rằng văn hóa thế giới có thể phân loại từ trình độ thấp nhất đến cao nhất và văn hóa của
họ chiếm vị trí cao nhất. bởi vì họ cho rằng văn hóa của họ hướng về trí lực và sự vươn
lên, sự phát triển tạo thành văn minh. Theo E.B Taylo, văn hóa là tồn bộ phức thể bao
gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và
tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Ở thế kỷ XX, khái niệm văn hóa thay đổi, theo F. Boa, ý nghĩa văn hóa
được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao
siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về văn hóa của từng dân tộc cũng khơng
phải theo tiêu chuẩn trí lực, đó cũng là “tương đối luận củavăn hóa”. Văn hóa
khơng xét ở mức độ thấp cao, mà ở góc độ khắc biệt.
A.L.Kroibơ và C.L.Clúcbơn quan niệm văn hóa là loại hành vi rõ ràng và
ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, là thành quả độc đáo của
nhân loại khác với các loại hình khác. Như vậy cho đến nay chưa phải mọi người
đã đồng ý với nhau về định nghĩa văn hóa. Hiện nay có hơn ba trăm định nghĩa
về văn hóa và con số đó dường như chưa dừng lại.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm về văn hố: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H, 1995, tr.431.


3

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh
vực vơ cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên
nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá
trình con người làm nên lịch sử…cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với
nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị tư tưởng và
tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu
cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc,
sức đề kháng và sức chiến đấu để bạo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”2.
PGS Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa văn hóa mang tính chất thao tác
luận, khác với những định nghĩa trước đó: Khơng có cái vật gì gọi là văn hóa cả
và ngược lại bất kỳ vật gì đều có cái mặt văn hóa. Văn hóa là một quan hệ, nó là
mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện
thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc
người khác, một các nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn, làm cho
chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ.
Trên cơ sở phân tích các định nghĩa về văn hóa PGS, TSKH Trần Ngọc
Thêm đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình
hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên
và xã hội của mình”3. Khái niệm này nêu bật lên 4 đặc trưng cơ bản của văn hóa:
Tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh.
Theo tổ chức khoa học và giáo dục thế giới UNESCO cho rằng: Thực tế đã
thừa nhận rằng, văn hoá khơng thể tách rời cuộc sống, ngồi sự tư duy và hoạt
động của mỗi cá nhân và cộng đồng, bởi văn hoá đã phản ánh và thể hiện một cách
tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống đã diễn ra trong quá khứ và hiện tại;
2
3

Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới, NXB CTQG, H, 1994, tr.16.
Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường ĐHTH, Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr. 20



4
qua hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và
lối sống, mà dựa trên đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Như vậy có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa cả trong và ngồi nước
dưới những cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên tựu chung các khái niện đó đều
hướng đến cách tiếp cận văn hóa như là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn, chinh phục thiên
nhiên. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII) của Đảng đã
đưa ra khái niệm được xem là định nghĩa bao quát, đầy đủ nhất về văn hóa Việt
Nam: Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu
tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là
kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để khơng
ngừng hồn thiện mình. Vǎn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách,
bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Như vậy Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra; là sự ứng xử trước tự nhiên, xã hội của con người và cộng
đồng người. Văn hóa gắn liền với con người, là ranh giới tuyệt đối để phân biệt
con người và động vật, chỉ có con người mới có văn hóa. Văn hố là biểu tượng
cái đẹp, cái chân - thiện – mỹ và nhân văn. Nói đến văn hóa là nói đến cái đẹp,
khơng có văn hóa xấu độc… Đồng thời văn hố mang tính dân tộc, tính giai cấp
và tính nhân loại sâu sắc.
Tính giai cấp của văn hóa được biểu hiện ở quan niệm, thái độ của một
giai cấp nhất định.Trong đó cốt lõi là hệ tư tưởng, giai cấp thống trị sử dụng hệ
tư tưởng để định hướng đời sống tinh thần cho xã hội, mỗi giai cấp có một lăng
kính về giá trị văn hố khác nhau.
Tính nhân loại của văn hóa biểu hiện ở chỗ: Văn hố là sản phẩm gắn liền
với từng dân tộc, nhưng những thành tựu và tinh hoa của nó đóng góp vào kho
tàng văn hố nhân loại, nó được truyền bá khắp mọi nơi trên thế giới.



5
Văn hố khơng phải là sự phát triển kín mà là sự phát triển trong sự giao lưu
không ngừng. Quá trình giao lưu văn hố là q trình các dân tộc tự toả sáng, tự
xem xét, phát triển những giá trị vốn có của mình và tiếp thu những giá trị văn hoá
của những dân tộc khác. Mỗi sản phẩm văn hoá đều chứa đựng sự thống nhất giữa
cái chung và cái riêng, cái phổ quát và cái bản sắc
Tóm lại: Văn hoá là do con người sáng tạo ra, phục vụ cho nhu cầu cuộc
sống của con người, nó là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần được tích luỹ
trong lịch sử, trong q trình con người đấu tranh với thiên nhiên, trong các mỗi
quan hệ xã hội, trong ứng xử để tồn tại và phát triển.
1.2. Vai trị của văn hóa trong lịch sử dân tộc cũng như trong sự nghiệp đổi
mới đất nước hiện nay
Do vị trí địa lý quy định, với tài nguyên thiên nhiên phong phú, dồi dào,
nhiều chủng loại, nên từ buổi bình minh của dân tộc, chúng ta đã phải đương đầu
với các thế lực ngoại bang hùng mạnh và hung hãn. Qúa trình dựng nước đi đơi
với giữ nước đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc. Cũng chính
trong lịch sử hàng ngàn năm đó, nền văn hóa Việt Nam ngày càng được bồi đắp,
hun đúc tạo nên cốt cách con người Việt Nam cần cù, sáng tạo trong lao động
sản xuất; kiên cường, mưu trí, dũng cảm trong chiến đấu chống lại sức mạnh
thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Hơn một ngàn năm dưới ách đô hộ của các triều
đại phong kiến phương Bắc, văn hóa Việt Nam khơng những khơng bị hịa tan,
trái lại còn tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa Trung Hoa, tạo nên bản sắc văn
hóa riêng cho dân tộc mình. Trong những giá trị bền vững thấm đượm bản sắc
văn hóa đó, thì tinh thần u nước, yêu quê hương xóm làng là nổi bật nhất, đúng
như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Dân ta có một lịng nồng nàn u
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc
bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh



6
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cứu nước”4.
Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước
của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà
Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,... với những Bằng Đằng Chi
Lăng, Xương Giang, Đống Đa… đã trở thành biểu tượng cho khí phách và tâm hồn
Việt Nam. Sơng núi vẫn cịn vọng mãi khí phách hiên ngang kiên cường của các vị
anh hùng trong sử sách, đó là trả nợ nước, rửa thù nhà của Hai bà Trưng:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đưa lại nghiệp xưa họ hùng
Ba kẻo oan ức lịng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở cơng lênh này”
Hay câu nói quả quyết của Trần Bình Trọng khi chẳng may bị giặc phương
Bắc bắt. Đứng giữa cái sống và cái chết ông đã khảng khái trả lời: “Ta thà làm
ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Trần Quốc Tuấn với tinh
thần căm thù giặc sâu sắc “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gơi, ruột đau
như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ mong sao xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu
quân thù, dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác ta bọc trong da ngựa
ta cũng yên lòng”. Người anh hùng áo vải Quang Trung nêu lên ý chí quyết tâm
trong bài “Hịch Tây Sơn”:
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích ln bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hồn
Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Nguyễn Công Trứ khảng khái “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam
thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, tinh thần đó được nâng lên một tầm cao mới,

dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo
Trích trong Báo Cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của
Đảng Lao Động Việt Nam
4


7
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã đánh thắng hai tên đế quốc
hùng mạnh nhất của thế kỷ XX, giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; với tinh thần “xẻ dọc trường sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới
dậy tương lai”, “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”, “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù”….
Cho đến nay có nhiều học giả phương Tây khơng thể lý giải được nguồn
sức mạnh nào mà một dân tộc nhỏ bé ở phương Đông đã đánh thắng được đế
quốc Mỹ với tiềm lực kinh tế và quân sự hơn rất nhiều lần. Sức mạnh đó chính là
sức mạnh của một nền văn hóa lâu đời. Thắng lợi của dân tộc Việt Nam suy cho
cùng là thắng lợi của một đất nước có truyền thống văn hóa hơn mấy ngàn năm
lịch sử trước một đất nước với nền văn hóa chỉ 200 năm. Những người con đất
Việt ra trận không phải để nhận những đồng Đô la như quân đội đánh thuê của
đế quốc, mà họ ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của dân tộc, của hào khí hàng
ngàn năm vọng lại. Họ ra đi để bảo vệ xóm làng với cây đa, bến nước, sân đình,
điệu lý, câu hị… Những yếu tố đã nng dưỡng hồn phách của dân tộc vượt qua
những cuộc bể dâu của lịch sử. Có thể nói chính sức lan tỏa của văn hóa dân tộc
là cội nguồn cho sức mạnh của đất nước ta.
Như vậy, Tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, ý
thức quốc gia dân tộc được hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước và nó đã in sâu vào trong tâm trí từng người dân và tầng
lớp lãnh đạo trong mỗi thời kỳ lịch sử. Trong lịch sử đất nước đã từng bị chia
cắt, nhưng đó chỉ là sự chia cắt tạm thời, sông Gianh thời Trịnh Nguyễn (thế kỷ
XVII, XVIII), sông Bến Hải thời Mỹ ngụy (nửa sau thế kỷ XX), âm mưu của

thực dân Pháp lập xứ Nam Kỳ tự trị…và trong giai đoạn hiện nay các thế lực thù địch
đang điên cuồng chống phá hòng chia cắt Tổ quốc (chẳng hạn như chúng đòi thành
lập xứ Tây Bắc tự trị, Tây Nguyên tự trị…), song tính thống nhất dân tộc, thống nhất
văn hố khơng có thế lực nào có thể phá nổi, bởi vì từ xưa người Việt đã có một ý


8
thức, một cội nguồn tổ tiên – con Rồng cháu Tiên, một chính quyền chung, một lãnh
thổ quốc gia chung, cùng chung lưng đấu cật để trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước, làm nên tính thống nhất bền vững của văn hoá Việt Nam. Như lời Bác Hồ
đã khẳng định: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một.
Ngày nay, chúng ta đang tiến nhanh trên con đường Cơng nghiệphóa, hiện
đại hóa đất nước, xu thế quốc tế hóa nền kinh tế đang tạo điều kiện để văn hóa
Việt Nam mở rộng, giao lưu với các nền văn hóa trong khu vực và trên thế giới,
đồng thời cũng đứng trước những thách thức không nhỏ về sự xâm lẫn của các
giá trị phản văn hóa. Với tinh thần “đổi mới chứ khơng đổi màu, hịa nhập khơng
hịa tan”, văn hóa thật sự giữ vai trị to lớn định hướng cho cả dân tộc thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa; vai trị của văn hóa
được thể hiện ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con
người sáng tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản
xuất nhằm cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người
ngày càng hoàn thiện, xa rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát
triển thành con người. Con người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất
mà cịn có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội
lồi người càng phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh thần địi hỏi ngày càng cao.
Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng
nhiều của cải vật chất cho con người và xã hội.
Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là
mục tiêu của sự phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người

quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng tồn diện
con người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ;
điều đó nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn,


9
nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy
trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù
hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến
bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã
hội mà chúng ta đang xây dựng và là thành quả của tư duy khơng ngừng tìm tịi,
sáng tạo và ngày càng hồn thiện lý luận về văn hóa trong lịch sử hơn 80 năm
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong vài thập kỷ trước đây, có một số nước cho rằng: Chỉ cần tăng trưởng
kinh tế với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát triển sử
dụng khoa học cơng nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian thực hiện kết
quả cho thấy, các quốc gia đó đạt được một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế
nhưng đã vấp phải sự xung đột gay gắt trong xã hội, sự suy thoái về đạo đức, văn
hóa ngày càng tăng. Từ đó, kéo theo kinh tế phát triển chậm lại, mất ổn định xã
hội tăng lên và cuối cùng là sự phá sản của các kế hoạch phát triển kinh tế, đất
nước rơi vào tình trạng suy thối, khơng phát triển được. Đây là quan niệm phát
triển nhanh bằng cách hy sinh các giá trị văn hóa – xã hội cho sự phát triển. Trên
thực tế đã bị phá sản. Từ thực tế đó, một số nước đã lựa chọn mơ hình: Tăng
trưởng kinh tế, cùng với việc phát triển tài nguyên con người, bảo vệ mơi trường
sinh thái. Mơ hình này, tuy tăng trưởng kinh tế không nhanh, nhưng lại bền
vững, xã hội ổn định. Đây là quan niệm phát triển kinh tế gắn liền với phát triển
văn hóa, được các nhà khoa học, các chính khách thừa nhận. Từ đó, cho rằng:
Phát triển là một quá trình nội sinh và tự hướng tâm của sự tiến hóa tồn cục đặc
thù cho mỗi xã hội. Vì vậy, cho nên ở đây có sự tương đồng về nghĩa và khả

năng chuyển hóa lẫn nhau giữa phát triển và văn hóa. Văn hóa bao trùm tất cả
các phương diện của hoạt động xã hội.
Thứ hai, văn hóa là động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều
do con người quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng


10
sáng tạo của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng
góp vào sự phát triển xã hội. Trước đây, để phát triển kinh tế, người ta thường
nhấn mạnh và khai thác yếu tố lao động của con người cho sự phát triển. Ngày
nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố
quyết định cho sự phát triển là trí tuệ, là thơng tin, là sáng tạo và đổi mới không
ngừng nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng
nhu cầu đa dạng và phong phú của mỗi người cũng như của toàn xã hội. Trong
thời đại ngày nay, một nước giàu hay nghèo khơng chỉ ở chỗ có nhiều hay ít lao
động, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu ở chỗ có khả năng
phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay
không? Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là
trong ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu biết, trong tâm hồn, đạo lý, lối
sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm cho các yếu tố cấu
thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người: văn hóa
trong sản xuất, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong lối sống, văn hóa trong giao
tiếp, văn hóa trong sinh hoạt gia đình, ngồi xã hội, văn hóa trong giao lưu và
hợp tác quốc tế… Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong
các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển
kinh tế - xã hội càng trở nên hiện thực bấy nhiêu.
Thứ ba, Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Bởi lẽ, văn hóa phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của các điều
kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa, cân đối, lâu bền.

Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của nó
là chân - thiện - mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) để hướng dẫn và thúc đẩy người
lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề,
sản xuất hàng hóa với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng cao,
đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa sử dụng


11
sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế xu hướng
sùng bái hàng hóa, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng tiêu cực của hàng
hóa và đồng tiền xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xun tạc bản
chất con người, cũng như những mối liên hệ khác. Hạn chế những tiêu cực này
chỉ có thể là văn hóa và chủ yếu bằng văn hóa.
Tồn cầu hóa kinh tế quốc tế là một xu thế, đòi hỏi chúng ta phải chủ động và
tích cực hội nhâp. Đây là cơ hội để chúng ta phát triển nhanh có hiệu quả, nhưng cũng
là thách thức rất lớn với nước ta trên nhiều mặt, trong đó có cả văn hóa. Sự thâm nhập
của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa, của lối sống thực dụng và những tiêu cực
khác của kinh tế thị trường…đã và đang ảnh hưởng, làm băng hoại những giá trị văn
hóa truyền thống, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của đất nước…
Cần phải hiểu rằng về mặt kinh tế, việc thực hiện chính sách hội nhập để
tăng cường liên kết, liên doanh với nước ngoài là rất cần thiết. Song, mọi yếu tố
ngoại sinh như vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường của
nước ngồi chỉ có thể biến thành động lực bên trong của sự phát triển, nếu chúng
được vận dụng phù hợp và trở thành các yếu tố nội sinh của con người Việt Nam
với truyền thống văn hóa, đạo đức, tâm hồn, lối sống của dân tộc Việt Nam. Trên
cơ sở kiến thức khoa học, kinh nghiệm và sự tỉnh táo, khôn ngoan, chúng ta cần
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập, phát triển.
Bởi lẽ, nền văn hóa dân tộc sẽ đóng vai trị định hướng và điều tiết để hội nhập và
phát triển bền vững, hội nhập để phát triển nhưng vẫn giữ vững được độc lập, tự
chủ. Hợp tác kinh tế với nước ngồi mà khơng bị người ta lợi dụng, biến mình

thành kẻ đi vay nặng lãi, thành nơi cung cấp nguyên liệu và nhân công giá rẻ,
thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận chuyển giao những cơng nghệ lạc
hậu, tiếp nhận lối sống không lành mạnh với những ảnh hưởng văn hóa độc hại…
Vì sự phát triển bền vững, văn hóa phê phán lối sống thực dụng, chụp giật,
chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài


12
nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái. Như vậy, văn hóa đã góp phần quan trọng
vào vấn đề bảo vệ mơi trường và sự phát triển bền vững...
Văn hóa truyền thống Việt Nam hướng dẫn và cổ vũ một lối sống hịa hợp, hài
hịa với thiên nhiên. Nó đưa ra mơ hình ứng xử có văn hóa của con người đối với thiên
nhiên, vì sự phát triển bền vững của thế hệ hiện nay và các thế hệ con cháu mai sau.
Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha
hóa. Thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước mà xa rời những giá trị văn hóa truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc,
đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
Nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong q trình phát triển, Đảng ta
xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng với
việc xây dựng văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Trong đó, nội dung xây dựng văn hóa
được xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”, một định hướng quan trọng để đất nước phát triển bền vững.
2. Văn hoá Việt Nam cổ truyền phát triển trong điều kiện dựng nước
gắn liền với giữ nước, Nhà nước gắn liền với dân tộc - Ý nghĩa đối với việc
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay
2.1. Dựng nước đi đôi với giữ nước, Nhà nước gắn liền với dân tộc là
quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam, nét đặc trưng tiêu biểu
nhất của văn hóa Việt Nam cổ truyền

2.1.1. Cơ sở của quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, Nhà nước gắn
liền với dân tộc trong lịch sử
Việt Nam là một quốc gia hình thành từ rất sớm và có lịch sử phát triển lâu
đời, có vị trí địa chính trị chiến lược quan trọng, đứng giữa vịng cung nhìn ra Thái
Bình Dương, cầu nối Đơng Bắc á và Đông Nam á, là nơi giao lưu và hội tụ của
nhiều nền văn hoá, nên thường bị ngoại bang “dịm ngó”, xâm lược. Có dân tộc nào
như Việt Nam, trong mấy ngàn năm lịch sử đã có hơn 1000 năm phải trực tiếp cầm


13
vũ khí chống ngoại xâm? nếu chỉ tính từ khi có sử liệu nghi chép rõ ràng thì từ cuộc
kháng chiến chống Tần xâm lược nước Âu Lạc đến nay, 22 thế kỷ, dân tộc ta đã
trực tiếp kháng chiến suốt 13 thế kỷ, trong đó có hơn 100 cuộc khởi nghĩa quy mô
lớn và nhỏ. Một đất nước sinh ra và phát triển trong cuộc vật lộn không cân sức, trải
nhiều biến cố như vậy cho nên mọi hoạt động vật chất, tinh thần của dân tộc ta luôn
phải tuân theo quy luật xuyên suốt: dựng nước đi đôi với giữ nước.
Mặc dù kẻ xâm lược có qn đơng, nhiều âm mưu thâm hiểm, song nhân
dân Việt Nam đã khơi dậy được truyền thống từ cội nguồn dân tộc, huy động
được sức mạnh tồn dân và trí tuệ các bậc hiền tài, nên đã đánh bại các thế lực
thù địch, hiếu chiến xâm lược, xây dựng nên nền nghệ thuật đánh giặc độc đáo:
“ít địch được nhiều”, “nhỏ thắng được lớn” và dựng nước đi đôi với giữ nước là
kế sách, là qui luật tồn tại và phát triển của dân tộc.
Đặc biệt trong thời đại Hồ Chí Minh, thì quy luật dựng nước đi đơi với giữ
nước, bảo vệ Nhà nước gắn liền với bảo vệ nhân được nâng lên một tầm cao
mới. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định “xây dựng đi
đôi với bảo vệ là quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng vơ sản”, “giành
chính quyền đã khó, song giữ chính quyền cịn khó hơn”, “một cuộc cách mạng
chỉ có giá trị khi biết tự bảo vệ”… Khi luận giải về quá trình chuyển tiếp từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển cũng nêu rõ về tính chất
phức tạp của thời kỳ đó, kẻ thù ln ra sức chống phá; chính vì vậy giai cấp vô

sản trước hết phải thiết lập Chuyên chính vơ sản, bảo vệ vững chắc nền chun
chính đó để cải biến từng bộ phần, tiến tới cải biến toàn bộ những yếu tố của xã
hội cũ để đi lên xã hội cộng sản.
Vận dụng sáng tạo chủ Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu bật vai trị to lớn của quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước
trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc đang ra sức tấn công vào các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong “hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của Cách mạng Việt Nam”, tư tưởng Hồ Chí Minh về “dựng nước phải đi đơi với


14
giữ nước, xây dựng CNXH phải gắn liền với bảo vệ CNXH” giữ vị trí trụ cột của
tồn hệ thống, đã trở thành hai nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam.
Trong đêm đen của chế độ thuộc địa, một mình bơn ba khắp năm châu, khi
bắt gặp ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc thấy “như
nguồn nước mát mà mỗi con người đi đường khao khát tìm kiếm, như bát cơm
đầy đã làm no lịng và cho họ một hứng khởi mới”. Và “ngọn đuốc của chủ nghĩa
Mác - Lênin và kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười vĩ đại đã soi sáng cho con
đường cách mạng Việt Nam”...“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”5. Biết rằng, nhiều nhân sĩ
trong nước còn kỳ vọng ở phong trào Đông du, Nguyễn Ái Quốc viết rõ: Xin
đồng bào đừng có hy vọng gì vào Nhật Bản hay bất kỳ một đế quốc nào khác.
Muôn ngàn lần, chúng ta cần nhớ rằng bất kỳ một thứ đế quốc chủ nghĩa nào
cũng đều muốn dân tộc ta không thể phục sinh, muốn con cháu chúng ta thành
nô lệ cho chúng. Rõ ràng, đối với chế độ cai trị của thực dân đế quốc, không thể
đi theo con đường của giai cấp phong kiến, tiểu tư sản hay tư sản bản xứ mà
chống lại chúng, cũng không thể theo con đường của đế quốc này chống đế quốc
khác mà thực hiện được giải phóng dân tộc. Chỉ cịn con đường cách mạng vô
sản là giai cấp sinh ra cùng thời với chúng, có quy mơ quốc tế như chúng để đối
chọi với chúng.

Qua quá trình vừa thiết kế vừa thi cơng, tư tưởng Hồ Chí Minh về “dựng
nước đi đôi với giữ nước” đã đạt những thành tựu vượt xa dự kiến. Từ việc công
bố cáo trạng “Bản án chế độ thực dân Pháp”, tổ chức “Hội liên hiệp thuộc địa”
để hưởng ứng khẩu hiệu "vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại"
của Quốc tế thứ 3, tham gia các diễn đàn quốc tế thúc đẩy sự ủng hộ của cách
mạng thế giới đối với phong trào giải phóng, động viên, tổ chức đồng bào mình
đứng dậy tự giải phóng..., trong bất kể tình huống nào cũng thấy nổi rõ nét sắc
sảo đầy thực tiễn của nhà chiến lược cách mạng xuất thân từ thuộc địa.
5

Hồ Chí Minh: Tồn tập, t,9, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 314


15
Hồ Chí Minh đánh giá về đồng bào mình từ khi nền thống trị thực dân còn rất
vững mạnh "Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng
diễn văn, nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ,
nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy nhất... Người Đông Dương
tiến bộ một cách rất màu nhiệm... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông
Dương giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm
khi thời cơ đến... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi, CNXH chỉ còn
phải làm cái việc là gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi"6.
Khi cần chuyển hướng chiến lược cách mạng, tập trung sức mạnh giành độc
lập dân tộc: "Trong lúc này... nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc,
khơng địi được độc lập - tự do cho tồn thể dân tộc thì chẳng những tồn dân tộc
cịn chịu kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng
khơng địi lại được”7. Khi thời cơ đến: Tồn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức
ta mà giải phóng cho ta. Khi Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi: Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để

giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
Từ thân phận một người dân mất nước đưa toàn dân tộc lên vị thế làm chủ
đất nước, kinh qua trực tiếp lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống Pháp,
người "tuyên án" chế độ thực dân Pháp lại trở thành người trực tiếp tổ chức thi
hành bản án, và do hiệu ứng dây chuyền, tới năm 2000, Liên Hợp quốc ra nghị
quyết về “Phi thực dân hóa trên tồn thế giới" thì “Bản án chế độ thực dân Pháp”
của Nguyễn Ái Quốc năm xưa nay đã trở thành “bản án chế độ thực dân trên
toàn thế giới”. Để thức tỉnh và hướng dẫn đồng bào mình vốn là dân thuộc địa,
Hồ Chí Minh quen sử dụng những câu ngắn gọn như những châm ngơn hành
động: "Các vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
6
7

Nguyễn Ái Quốc - Tạp chí Cộng sản (Pháp) số 14 tháng 5-1921
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập7, Nxb, CTQG, H,2000, Tr 96


16
nước"; "Vừa kháng chiến vừa kiến quốc! Diệt giặc đói khổ, Diệt giặc dốt nát.
Diệt giặc ngoại xâm"; “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu
làm nơ lệ”; “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”...
Ngày nay, đất nước đã thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, công
cuộc đổi mới đất nước đã mang lại những thành tựu kỳ diệu trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, chúng ta thực hiện nhất quan đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ đối ngoại, khơng phân biệt thể chế chính trị - xã hôi. Tuy nhiên
từ sau cơn địa chấn chính trị dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở
Liên - Xô và Đông - Âu, chủ nghĩa đế quốc đang ra sức chống phá các nước xã
hội chủ nghĩa cịn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Chúng thực hiện
chiến lược “diễn biến hịa bình” việc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đồng thời
với thời bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hai nhiệm vụ

chiến lược của cách mạng Việt Nam được xác định từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V của Đảng (3/1982) vẫn là hai nhiệm vụ bao trùm của cả thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.1.2. Những biểu hiện cơ bản của quy luật dựng nước đi đôi với giữ
nước, Nhà nước gắn liền với dân tộc
Có thể nói, từ rất sớm, cha ơng ta đã nhận thức được mối quan hệ biện
chứng, gắn bó giữa dựng nước phải đi đơi với giữ nước. Đó chính là tư tưởng “quốc
phú, binh cường”, “cử quốc nghênh địch”, “thái bình nên gắng sức, non sơng vững
ngàn thu”... Trong văn hoá dân gian, anh hùng văn hoá (những vị thần có cơng xây
dựng văn hố: ơng tổ nghề nơng, nghề chài lưới, lập làng…và những vị thần có
cơng đánh giặc cứu nước) là nét đặc sắc của văn hoá Việt Nam cổ truyền.
Biểu tượng Thánh Gióng là đại diện sức mạnh tổng thể của toàn dân tộc ta
quyết tâm đánh tan tất cả các thế lực ngoại xâm. Sự tích Sơn Tinh, Thuỷ Tinh là
bức tranh tồn cảnh nêu bật hình ảnh tồn thể dân tộc ta ln phải đối mặt và
chiến thắng thiên tai, lũ lụt, làm chủ thiên nhiên trong quá trình dựng nước.


17
Thời kì Văn Lang, khi bắt đầu đặt nền móng xây dựng một quốc gia độc
lập Tổ tiên ta đã có ý thức phải giữ gìn lấy quốc gia ấy. Thục Phán An Dương
Vương vừa động viên trăm họ phát triển cây lúa nước, đồng thời lại vừa huy
động toàn dân đắp thành Cổ Loa, sửa sang giáo mác, rèn đúc tên đồng để sẵn
sàng bảo vệ đất nước. Trong những năm dài Bắc thuộc, ý chí đánh giặc cứu nước
và giữ nước chẳng những không bị tàn lụi mà trái lại, nó đã ngày Càng phát triển
cao hơn. Bước vào thời kì Đại Việt, khi nền độc lập nước nhà được khôi phục và
củng cố, tư tưởng “dựng nước đi đôi với giữ nước” đã phát triển lên một bước
mới tạo thành nền tảng bền vững làm phong phú thêm chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam. Vào thời nhà Lý, “thế nước”, “thế lực” của nước Đại Việt đã khá vững
mạnh. Công cuộc “kiến quốc” và “thủ quốc” không ngừng được tăng cường.
Nhờ đó nhà Lý tạo nên thế vững, lực mạnh và đã thực hiện được chiến lược

“Tiên phát chế nhân”, phá tan âm mưu câu kết quân sự Tống - Chăm, đánh bại
chiến tranh xâm lược của quân Tống trong thời gian tương đối ngắn.
Nhà Trần sau hơn 30 năm xây dựng (1226-1257), nhờ có chính sách đúng
đắn trên cơ sở một nền văn hoá quân sự độc đáo của dân tộc và nỗ lực của toàn
dân, nên lực nước được tăng cường thêm sức mạnh, thế nước được phát triển
thêm vững chắc. Đó là điều kiện cơ bản để dân tộc ta ba lần đại thắng quân
Nguyên-Mông xâm lược. Trần Quốc Tuấn, Vị tướng quốc lừng danh, nhà quân
sự kiệt xuất đã khẳng định kế sách giữ nước là: Khoan thư sức dân để làm kế sâu
rẽ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước.
Thời nhà Lê, sau những chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang lừng lẫy, nước
Đại Việt bước vào thời kì xây dựng mới. Những tư tưởng tiến bộ của Nguyễn
Trãi đã giúp triều Lê dựng nên Nhà nước phong kiến Đại Việt hưng thịnh nhất
trong lịch sử dân tộc ta thời trung đại. Song ngay khi đất nước hưng thịnh, vua
Lê Thái Tổ đã nhắc nhở cháu con: Lo giữ nước ngay từ lúc nước chưa nguy. Khi


18
đi kiểm tra đất Hồ Bình (vùng chợ Bờ), Lê Thái Tổ đã cho khắc vào bia đá:
“Biên phòng cần có phương lược tốt/ Giữ nước nên có kế dài lâu”.
Lời của vua Lê Thái Tổ như một phương hướng chiến lược giữ nước lâu
bền, nhắc nhủ muôn đời cho các thế hệ con cháu mai sau. Kế thừa những kinh
nghiệm truyền thống lịch sử và căn cứ vào điều kiện thực tiễn của thời đại mới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định: “Dựng nước đi đôi với giữ nước”
là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam.
Trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã kịp
thời đề ra chủ trương “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Thực hiện chủ trương
ấy, chúng ta đã ra sức xây dựng căn cứ địa cách mạng Việt Bắc, xây dựng các
khu du kích ở vùng tạm chiếm, xây dựng vùng tự do ở khu IV, khu V, đồng bằng
Nam Bộ… làm căn cứ cung cấp sức người sức của cho kháng chiến lâu dài và
phát triển chiến tranh nhân dân, đưa cuộc kháng chiến tiến đến thắng lợi. Trong

kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân thực hiện thắng
lợi đồng thời hai chiến lược cách mạng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và ra sức đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Bước vào thời kì cách mạng mới, kế thừa truyền thống lịch sử của dân tộc
và phát triển sáng tạo qui luật “dựng nước đi đôi mới giữ nước”, Đảng Cộng sản
Việt Nam nhất quán lãnh đạo quân dân cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tố quốc xã hội chủ nghĩa;
để phát huy sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước, cha ông
ta đã nhất quán thực hiện kế sách: Đoàn kết bên trong, hoà hiếu bên ngoài. Kế
sách này đã được tiến hành một cách sáng tạo trong từng thời kì lịch sử.
Nội dung đoàn kết bên trong được thực hiện rất phong phú và độc đáo.
Trong thời chiến, ý chí đoàn kết toàn dân, đoàn kết quân dân, tinh thần “tướng sĩ
đồng lịng” càng phải gắn bó. Nhà Trần đã tổ chức Hội nghị Diên Hồng và Hội
nghị Bình Than để truyền quyết tâm đánh qn Ngun Mơng cho tồn dân. Từ


19
hai hội nghị ấy, “sát thát” trở thành ý chí của toàn dân. Thời nhà Lê, những người
lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh đã “hoà rượu với nước”, uống cùng
nhân dân… Kế thừa truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hoá của dân tộc ta trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã lãnh đạo toàn dân, toàn quân phát huy cao độ sức mạnh đồn kết bên trong,
ln thực hiện qn dân một ý chí, tồn qn một ý chí. Trong chiến tranh giải
phóng cũng như trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, quân và dân ta đã biến lời dạy
của Bác Hồ “Đoàn kết là sức mạnh vô địch” thành hành động cụ thể tạo nên sức
mạnh diệu kỳ, lập nên những chiến thắng vang dội. Cùng với chiến lược hồ
hiếu bên ngồi, cha ơng ta đã luôn khéo léo kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu
tranh quân sự, nhằm giữ được mối hoà hiếu bang giao, vừa giữ nguyên bờ cõi,
nhiều thời kỳ đã ngăn chặn, đẩy lùi được nguy cơ chiến tranh và đặc biệt là để
kết thúc chiến tranh ở thế có lợi nhất cho dân tộc.

Những năm đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến
phức tạp khó lường, đan xen giữa ổn định và mất ổn định. Mâu thuẫn về lợi ích
quốc gia, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại và có
những biểu hiện mới về nội dung và hình thức. Đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai
cấp diễn ra trong một hình thái mới, vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hố, quốc phịng, an ninh và đối ngoại.
Các dân tộc trên thế giới ngày càng ý thức được chủ quyền và vận mệnh của
mình, song làn sóng tồn cầu hố đang phơi bày cái được, cái mất của từng
nước, tùy theo sự tinh khôn, tài trí của người lãnh đạo. Những năm đổi mới,
Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm đến chính sách đối ngoại đúng đắn, mở
rộng quan hệ đối ngoại, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với tất
cả các nước trên thế giới. Chính sách đối ngoại nhằm khai thác tốt nhất các nhân tố
quốc tế và từng nước để bảo đảm giữ vững quốc phòng, an ninh, góp phần phát triển


20
đất nước; đồng thời thông qua hoại động quốc tế để nâng cao vị trí của nước ta trên
trường quốc tế, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới.
Từ những kinh nghiệm lịch sử trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước cho chúng ta thấy, tuy nước ta đã hoàn toàn độc lập nhưng việc củng cố và
bảo vệ nền độc lập của nước ta vẫn là một nhiều vụ chiến lược. Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới bảo vệ được
vững chắc độc lập dân tộc và có giữ vững độc lập dân tộc mới xây dựng được chủ
nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Dựng
nước đi đơi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển. Ngày nay chúng ta đặt
nhiệm vụ xây dựng đất nước lên hàng đầu, nhưng không bao giờ mất cảnh giác,
chệch phương hướng, tách rời bảo vệ độc lập dân tộc với bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, tách rời dựng nước với giữ nước trên tất cả các mặt chính trị ngoại giao, kinh
tế, văn hố, thương mại tài chính, quốc phịng, an ninh và đối ngoại.
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tất yếu, khách quan đối với sự

tồn tại và phát triển của dân tộc ta trong suốt tiến trình lịch sử. Ngày nay, trong
giai đoạn cách mạng mới, sự vận đông, phát triển của quy luật này, có những nội
dung mới, đa dạng và phức tạp hơn. Do vậy, mỗi chúng ta cần tiếp tục nghiên
cứu sâu sắc hơn nữa vấn đề này nhằm giúp cho Đảng và Nhà nước ta định ra
những chủ trương, đường lối đúng đắn, sáng tạo để thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đây là vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách đối với đất nước ta, nhân
dân ta, nhằm chuẩn bị tốt hành trang giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, vững bước tiến lên trong thời kỳ mới.
2.2. Ý nghĩa của quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, Nhà nước gắn
liền với nhân dân đối với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc hiện nay


21
2.2.1. Quá trình nhận thức của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ khi ra đời, Đảng ta luôn khẳng định vị trí, tầm quan trọng của văn hóa
trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và đặc
biệt là trong công cuộc đổi mới hiện nay. Trong Đề cương văn hóa Việt Nam
năm 1943, Đảng ta xác định nền văn hóa mới Việt Nam có ba tính chất: “Dân
tộc, khoa học và đại chúng”; đồng thời chỉ rõ đó là nền văn hóa có “tính dân tộc
về hình thức và tính dân chủ về nội dung”. Năm 1948, trong Hội nghị văn hố
tồn quốc lần thứ hai họp tại chiến khu Việt Bắc, Tổng Bí thư Đảng Trường
Chinh đã trình bày bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hố Việt Nam. Đó
là một Văn kiện lý luận quan trọng của Đảng định hướng sự vận dụng chủ nghĩa
Mác vào hoàn cảnh cụ thể của văn hoá Việt Nam.
Trong các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cũng như các
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đều có những nội dung
có tính chất vạch phương hướng cho sự phát triển văn hoá Việt Nam ở từng thời

ký lịch sử cụ thể. Đến Đại hội lần thứ III (năm 1960) Đảng ta nêu vấn đề nội
dung xã hội chủ nghĩa và hình thức dân tộc của nền văn hóa mới mà chúng ta
cần có. Tại Đại hội IV (năm 1976), Đảng ta cho rằng nền văn hóa xây dựng có
nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VI được coi là Nghị quyết của sự đổi mới trên
các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, đến nay Đảng ta ln khẳng định vai trị quan
trọng của văn hóa, văn học nghệ thuật thời kì mới, khẳng định chức năng bồi dưỡng
đạo đức, tình cảm và năng lực thẩm mĩ của nó đối với con người Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của
một dân tộc. Phát triển thêm một bước quan điểm đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ
VIII của Đảng xem văn hóa khơng chỉ là nền tảng tinh thần xã hội mà còn vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.


22
Năm 1992, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa
VII của Đảng đã khẳng định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm
cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc; do đó văn hố vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội, vừa là mục tiêu của sự phát triển đó.
Năm 1998 Nghị quyết Trung ương lần thứ V khoá VIII về xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam đã chỉ rõ: Phương hướng chung, đồng thời là nhiệm vụ
bao quát của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền
thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN, xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại, làm cho văn hố thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội, tạo
nên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển,
phục vụ đắc lức cơng nghiệp hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Một trong những nội dung quan trọng trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)

thông qua tại Đại hội XI là Đảng ta đã nêu lên định hướng về văn hóa với nội
hàm tồn diện, sâu sắc: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào
toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển”8.
Như vậy trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng đều nêu bật vị trí, vai tr
ị và các phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, coi đó là động lực tinh thần để phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ V (khóa VIII) đã ra Nghị
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.
2011, tr.75 - 76
8


23
quyết chun bàn về văn hóa. Q trình nhận thức của Đảng là kết quả của sự kế
thừa các giá trị văn hóa truyền thống hàng ngàn năm của dân tộc được nâng lên
một tầm cao mới phù hợp với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.2.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất hữu
cơ giữa tính tiên tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc.
Nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì
hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối
quan hệ hài hoà giữa tự nhiên với cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên với xã hội.
Chủ nghĩa yêu nước là hệ thống quan niệm, tư tưởng, lý luận về địa vị và

sự tồn tại của đất nước, về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, về tinh thần yêu
nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về
trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của người dân đối với đất nước…, trong đó,
lý tưởng độc lập dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Đây là chủ nghĩa u nước
chân chính, hồn tồn xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa sôvanh
nước lớn. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị cao nhất trong thang bậc giá trị của văn
hóa Việt Nam. Nó là cơ sở để liên kết cộng đồng và liên kết thế hệ tạo thành sức
sống liên tục của truyền thống văn hóa dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phải được nâng lên tầm cao của thời đại và
phải được bổ sung những nội dung mới gắn liền với lý tưởng tiến bộ và cách
mạng của thời đại, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lý tưởng độc lập
dân tộc phải gắn liền với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đó là con đường phát triển
vững chắc của dân tộc, con đường đảm bảo hạnh phúc của tồn thể nhân dân. Vì
vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi của nền văn


24
hóa Việt Nam hiện đại. Nền văn hóa tiến bộ là nền văn hóa thúc đẩy sự phát triển
của đất nước dựa trên tư tưởng cách mạng và khoa học dẫn đường. Đó là chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền văn hóa tiến bộ cũng là nền
văn hóa thể hiện tinh thần nhân văn và dân chủ sâu sắc.
Tính nhân văn thể hiện ở ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây
dựng nền văn hóa mà Đảng ta đã đề ra. Đây là nền văn hóa hướng tới đấu tranh,
giải phóng cho con người, trước hết là nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột
về phương diện giai cấp, dân tộc và xã hội; phấn đấu để không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia
sáng tạo, hưởng thụ nhiều hơn những thành tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Mọi hoạt động văn hóa
nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng,
trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái,

khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hồ trong gia
đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn
thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần
yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”9.
Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân chủ xã
hội chủ nghĩa, gắn liền với chế độ chính trị - xã hội tiến bộ “của dân, do dân và vì
dân”. Nền văn hóa này khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều kiện để
phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, đề cao trách nhiệm của công
dân trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Tính chất dân chủ của nền văn hóa thống
nhất với việc đề cao ý thức công dân, đề cao trật tự kỷ cương xã hội và thống nhất
giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trước pháp luật. Đồng thời phát
huy dân chủ phải gắn liền với việc nâng cao ý thức chính trị, đạo đức xã hội và trình
9

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001 tr.114..


×